Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện công bằng xã hội ở bình thuận hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.36 KB, 88 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và với
nhu cầu về quyền con con người, công bằng xã hội đã trở thành tiêu chí và
điều kiện để đánh giá việc thực hiện sự phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.
Với ý nghĩa đó, cơng bằng xã hội đang và sẽ là vấn đề lớn trên con đường
phát triển của mỗi quốc gia cũng như tồn nhân loại.
Ở nước ta hiện nay, cơng bằng xã hội là nhu cầu nguyện vọng chính
đáng của nhân dân và là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi mới đất nước.
Trong 25 năm qua, thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử. Đất nước thực hiện thành cơng chặng đường đầu của cơng cuộc đổi
mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đồn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng
cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã được tăng lên rất nhiều,
tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội
chủ nghĩa. Đại hội X của Đảng (2006) chỉ rõ: phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển. Đại hội
XI của Đảng (2011) tiếp tục khẳng định: thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể,
bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.
Nền kinh tế thị trường (KTTT) đã đem lại những thành tựu to lớn về
kinh tế sau 25 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề
kinh tế vững chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ
những nhược điểm làm ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự


2


chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu nghèo cũng như trình độ dân trí,… có
chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn
tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo, miền
núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát triển kinh tế
lại thuộc về những người có thu nhập cao; các tệ nạn xã hội như buôn lậu,
tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý
kinh tế để làm giàu phi pháp đang được dư luận hết sức quan tâm; bất cơng,
bất bình đẳng trong xã hội ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương
chính sách nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt công bằng xã
hội. Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương; thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển,
thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền
lợi với nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho
phát triển kinh tế - xã hội.
Song, việc thực hiện ở các cấp, các ngành, các địa phương vẫn còn
những vấn đề bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra; do sức ép
về tăng trưởng kinh tế nên nhiều ngành, nhiều địa phương ít quan tâm đến
thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Trong quy hoạch và
xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội, nhiều nơi mới chỉ
tập trung vào lợi ích kinh tế, chưa chú ý đúng mức đến phát triển văn hóa,
giáo dục, y tế, giải quyết các vấn đề xã hội…là lực cản lớn có tính thời sự trong
q trình thực hiện mục tiêu cơng bằng xã hội hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: "Vai trị của
chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện cơng bằng xã hội ở Bình Thuận
hiện nay" làm đề tài tốt nghiệp cho mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề về công bằng xã hội và vai trị nhà nước trong việc
thực hiện cơng bằng xã hội ở nước ta hiện nay có nhiều cơng trình của nhiều
tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ và cấp độ khác nhau.
Về vấn đề công bằng xã hội, trước hết phải nói đến cuốn sách “Cơng
bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009 của
tác giả Nguyễn Minh Hoàn. Cuốn sách đã đề cập hai khái niệm cơ bản công
bằng xã hội (CBXH) và tiến bộ xã hội (TBXH). Hai khái niệm này được tác
giả khảo sát trong lịch sử nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Tác giả đã chỉ ra vị
trí, vai trị của CBXH trong TBXH và đi đến khái quát CBXH với tư cách là
động lực của TBXH và CBXH với tư cách là thước đo về mặt xã hội của
TBXH. Trên cơ sở lý luận đó, tác giả đã chỉ ra những chủ trương lớn của
Đảng Cộng Sản Việt Nam nhằm thực hiện CBXH. Đáng chú ý là tác giả đã
nêu một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện CBXH ở nước ta hiện nay như:
thái độ ứng xử của chúng ta trước thực trạng gia tăng phân hóa giàu nghèo và bất
bình đẳng hiện nay; vấn đề công bằng về cơ hội; vấn đề về thực hiện CBXH
trong phân phối tư liệu sản xuất; vấn đề CBXH trong lĩnh vực y tế và chăm sóc
sức khỏe nhân dân; vấn đề CBXH trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo…
Bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện
CBXH ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Lê Hữu Tầng đã phân tích sự gần gũi
giữa hai khái niệm CBXH và bình đẳng xã hội và chỉ ra hai khái niệm này dễ
bị và thường bị đồng nhất với nhau. Và tác giả kết luận, hai khái niệm này tuy
gần nhau nhưng vẫn là hai khái niệm khác nhau. Đối với nước ta, tác giả đề
xuất, để thực hiện đầy đủ hơn CBXH cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo
lao động và theo mức đóng góp vốn và sản xuất kinh doanh hiện nay thành
nguyên tắc phân phối theo cống hiến (cả về lao động, nguồn vốn cùng mọi
cống hiến khác) cho xã hội nói chung chứ khơng phải chỉ cho sản xuất, mặc
dù cống hiến cho sản xuất vẫn là chủ yếu.



4
Bài “ CBXH ở Việt Nam nhận diện và giải pháp”, tác giả Đỗ Huy đã
khái quát việc thực hiện CBXH ở nước ta từ khi Đảng và nhân dân ta giành
được chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong thời kỳ thực hiện cơ chế
hành chính, quan liêu, bao cấp và trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay;
chỉ ra những hạn chế bất cập của việc thực hiện CBXH trong các thời kỳ đó. Tác
giả nhấn mạnh, những di hại của chiến tranh gây nên khá nhiều bệnh tật cần
được khắc phục. Vì thế muốn có CBXH, khơng thể phân phối theo cơ chế thị
trường thông thường, mà Việt Nam đã thực hiện phân phối theo lao động trên cơ
sở thị trường định hướng XHCN. Cơ chế thị trường định hướng XHCN tạo nên
những chuẩn mực mới để thực hiện CBXH. Các chuẩn mực này xuất phát từ
đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống.
Bài “CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN”, tác giả Nguyễn
Duy Quý đã đưa ra quan niệm về CBXH của một số học giả phương Tây như
C.Mác, E.Du-Khêm, G.Rau- xơ, … Tác giả đặt CBXH trong quan hệ với
TBXH và KTTT, cần phải dựa vào CBXH để thúc đẩy TTKT, đồng thời kết
hợp tốt KTTT với TBXH. Tác giả cho rằng, CBXH trong phân phối ở nước ta
hiện nay cơ bản theo nguyên tắc công hiến tương ứng với hưởng thụ. Do đó,
khơng nhất thiết phải giàu có mới thực hiện CBXH, hơn thế nữa càng chưa
giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện CBXH, nếu muốn tạo ra bầu
khơng khí hịa thuận, tin u lẫn nhau, nếu muốn giữ gìn cho xã hội ổn định.
CBXH chính là động lực mạnh mẽ của TTKT. Từ đó tác giả đã xây dựng các
giải pháp cho việc thực hiện CBXH ở nước ta.
Bài “CBXH trong điều kiện KTTT và KTTT định hướng XHCN”, của
tác giả Phạm Xuân Nam đã điểm qua một số mơ hình kinh tế tiêu biểu trên
thế giới xét từ góc độ giải quyết mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế với thực hiện CBXH; phân tích việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và CBXH
trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta qua hơn 20 năm đổi mới; chỉ ra



5
những thành tựu và những vấn đề đặt ra, từ đó tác giả đã kiến nghị một số
hướng giải pháp về thực hiện CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta trong thời gian tới. Những giải pháp ấy là tiếp tục thực hiện nghiêm
túc nguyên tắc phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực vào quá
trình sản xuất, kinh doanh, trong việc thực hiện đầu tư cho phát triển, cần có
quy hoạch và kế hoạch cụ thể để cân đối hợp lý mức đầu tư cho các vùng lãnh
thổ khác nhau, cần tiến hành một cuộc đấu tranh quyết liệt có sự chỉ đạo sát
sao từ cấp cao nhất, sử dụng nhiều “binh chủng hợp thành”, nhiều biện pháp
kết hợp để ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi
pháp và đây chính là nhân tố vừa làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế chung,
vừa tạo ra bất CBXH lớn nhất.
Bài “CBXH trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay” của tác giả
Lương Việt Hải (Tạp chí Triết học số 4/2004) đã phân tích khái niệm CBXH
và chỉ ra rằng: trong giới hạn của KTTT đã bao hàm việc thực hiện CBXH,
tuy nhiên nó khơng thể thực hiện triệt để, rộng khắp, toàn diện CBXH. CBXH
theo tác giả phải được hiểu rộng hơn, đó là sự phân phối theo cống hiến các
thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội nhằm đảm bảo cho mọi người có
được cơ hội và điều kiện sống, lao động bình đẳng. Bài “Về vấn đề bình đẳng
và cơng bằng xã hội” của tác giả Đỗ Tư, (Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số
9/2005) cho rằng, bình đẳng và CBXH là hai khái niệm khơng hồn tồn đồng
nghĩa, có quan hệ với nhau về nhận thức lý luận và trong thực tiễn, từ đó tác
giả phân tích nội dung của bình đẳng xã hội, CBXH và khẳng định CBXH là
thuộc về bản chất của CNXH, phản ánh quan hệ mang tính nhân văn giữa
người với người.
“Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới- vấn đề và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thị Nga (Chủ biên),
Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội 2007. Tác giả cho rằng TTKT và CBXH có
mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ với nhau. TTKT có thể tạo điều kiện



6
vật chất để thực hiện CBXH cũng là động lực để thúc đẩy TTKT. Trên cơ sở
phân tích việc kết hợp thực hiện hai mục tiêu TTKT và CBXH, tác giả đã chỉ
ra những cảnh báo về xu hướng không đồng thuận, thiếu bền vững giữa
TTKT và CBXH ở nước ta hiện nay như: phân hóa thu nhập ngày càng gia
tăng giữa các vùng miền, hiện tượng tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi pháp,
tệ nạn xã hội có xu hướng tăng mạnh ảnh hưởng tiêu cực tới TTKT và CBXH.
Theo tác giả, để kết hợp thành công hai mục tiêu thì điều kiện tiên quyết,
khơng thể thiếu đó là đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của nhà
nước và các đồn thể chính trị- xã hội. Ngoài ra, cần phải tiếp tục phát triển
KTTT định hướng XHCN, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, làm ăn phi pháp.
“Vai trị của nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Thành, (tạp chí Triết học, số
2/2006). Tác giả đã phân tích sự thống nhất giữa KTTT với tiến bộ và CBXH.
Đây là một yêu cầu khách quan trong sự phát triển của nước ta hiện nay. Tác
giả cho rằng, vai trị của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong việc kết
hợp, đảm bảo KTTT và thực hiện CBXH. Từ đó, tác giả phân tích vai trò của
nhà nước trong việc KTTT và thực hiện CBXH ở các nước tư bản và đặt ra
yêu cầu đối với nhà nước Việt Nam khi thực hiện CBXH là phải có quan niệm
đúng, khách quan trên quan điểm lịch sử cụ thể về CBXH và giải quyết các
vấn đề xã hội, thực hiện CBXH phải hướng vào sự phát triển kinh tế, tạo động
lực phát triển kinh tế.
“Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” luận văn
thạc sĩ Triết học của Hoàng Thị Kim Oanh- Hà Nội 2007, tác giả phân tích vai
trị của nhà nước đối với việc thực hiện CBXH, thực trạng nhà nước thực hiện
công bằng xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ở nước

ta. Trên cơ sở đó tác giả đã đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm


7
nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội ở nước
ta hiện nay.
“ Vai trò của nhà nước đối với việc thực hiện công bằng xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”
luận văn tiến sĩ Chính trị học của Võ Thị Hoa - Hà Nội 2011, tác giả đã phân
tích vai trò nhà nước thực hiện CBXH trong xây dựng và thực hiện chính sách
kinh tế vĩ mơ; xây dựng và hồn thiện mơi trường pháp lý cho q trình phát
triển kinh tế; điều tiết, phân phối nguồn lực và thu nhập; xây dựng và thực
hiện các chính sách xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những nhóm giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trị của nhà nước trong việc thực hiện công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Ngoài ra, qua tham khảo các đề tài, bài viết, tác giả nhận thấy vẫn chưa có
tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ triết học như tên đề tài đã
nêu ra. Những tài liệu nêu trên chứa đựng những giá trị khoa học rất quý giá, được
tác giả tiếp thu, kế thừa và phát triển trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của việc phát huy vai trị của
chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện cơng bằng xã hội ở Bình Thuận, từ
đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trị của
chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện cơng bằng xã hội ở Bình Thuận
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về công bằng xã hội; vai trị của chính quyền cấp
tỉnh trong việc thực hiện công bằng xã hội.
- Khảo sát thực trạng về vai trị của chính quyền cấp tỉnh trong việc

thực hiện công bằng xã hội; khẳng định những kết quả đạt được và chỉ ra
những hạn chế của nó, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm


8
phát huy tốt vai trị của chính quyền cấp tỉnh trong việc thực hiện cơng bằng
xã hội ở Bình Thuận hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vai trị chính quyền cấp tỉnh trong việc
thực hiện cơng bằng xã hội ở Bình Thuận hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề trong phạm vi tỉnh Bình Thuận, từ năm
2005-2010, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy tốt vai trị của chính quyền cấp tỉnh với việc thực hiện cơng bằng xã
hội ở Bình Thuận hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị trong các công trình
khoa học đã nghiên cứu để phục vụ cho luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã dùng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lơgíc, phân tích
và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể... nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà
đề tài đã đặt ra.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trị của chính quyền cấp tỉnh đối
với việc thực hiện công bằng xã hội, từ đó đề xuất một số phương hướng và

giải pháp phù hợp với tình hình của địa phương nhằm thực hiện tốt cơng bằng
xã hội ở Bình Thuận trong thời gian đến.


9
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
việc tìm hiểu, nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn ở địa phương.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


10
Chương 1
CƠNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRỊ CỦA CHÍNH QUYỀN
CẤP TỈNH TRONG VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CƠNG BẰNG XÃ HỘI

1.1.1. Quan niệm về cơng bằng xã hội
1.1.1.1 Quan niệm ngồi mác-xít về cơng bằng xã hội
Kể từ khi xã hội loài người phân chia giai cấp, CBXH trở thành khái
niệm đa phương diện, phức tạp, bị chi phối bởi lợi ích giai cấp, phụ thuộc vào
các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, liên quan đến bản
chất của chế độ xã hội và của Nhà nước.
Ở phương Đông, Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên), Mặc Tử
(480-420 trước Công nguyên), những nhà tư tưởng chính trị nổi tiếng của
Trung Quốc thời cổ đại đã đưa ra những quan niệm khác nhau về CBXH.

Khổng Tử quan niệm một xã hội no đủ là một xã hội phân phối bình quân,
hợp tình, hợp lý các sản phẩm làm ra, khơng có tranh giành, bóc lột, xã hội
khơng có người q giàu, kẻ q nghèo, v.v. Nhân dân sống vui vẻ, hòa thuận,
đất nước cường thịnh. Mặc Tử lại quan niệm một xã hội mà ở đấy mọi người
không phân biệt thượng hạ, thân sơ, quý tiện, cùng thương yêu nhau trên tinh
thần “kiêm ái”. Tư tưởng của hai ông là cơ sở cho các quan niệm của người
phương Đông về CBXH.
Trái lại, các nhà tư tưởng phương Tây như Pla-tôn (427-374 trước
Công nguyên) - nhà tư tưởng chính trị Hy Lạp nổi tiếng thời cổ đại cho rằng,
xã hội được phân chia thành những đẳng cấp, tầng lớp khác nhau là lẽ tự
nhiên và địa vị xã hội, mức độ hưởng thụ các sản phẩm của xã hội đối với
những đẳng cấp, tầng lớp ấy cũng khác nhau. Bởi vậy, công bằng chỉ có thể


11
có được giữa những người cùng một đẳng cấp và khơng thể có cơng bằng
giữa những người ở các đẳng cấp khác nhau. Ơng cịn chỉ rõ, trong bất kỳ nhà
nước nào cũng tồn tại hai nhà nước đối lập nhau - một cho người giàu và một
cho người nghèo. Đồng thời, ông cũng khẳng định một nhà nước lý tưởng
phải là một nhà nước có các đạo luật cơng bằng - những đạo luật được thiết
lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ khơng phải vì lợi ích của người
cầm quyền.
Cùng quan niệm với Pla-tơn, A-ri-xtốt (384 - 322 trước Cơng ngun)
nhà tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại cũng cho rằng, việc phân chia xã hội
thành giai cấp và địa vị của các giai cấp trong xã hội là lẽ tự nhiên; công bằng
là sự đối xử ngang nhau, là sự bình đẳng giữa những người có cùng địa vị xã
hội, giữa những người trong cùng một giai cấp. Cơng bằng và bình đẳng chỉ
có thể có được đối với những người cùng giai cấp, cùng đẳng cấp; những
người thuộc các giai cấp, đẳng cấp khác nhau thì khơng có sự cơng bằng. Ari-xtốt cũng cho rằng, cơng bằng là phạm trù chính trị, gắn với nhà nước và
pháp luật. Trên cơ sở pháp luật, mỗi người trong xã hội được hưởng thụ của

cải xã hội tương xứng với cống hiến của họ. Tuy nhiên, do xuất thân từ giai
cấp thống trị, tư tưởng của ơng dù đã có những điểm tiến bộ, nhưng vẫn chưa
thoát khỏi sự chi phối bởi lập trường của giai cấp thống trị, nên quan niệm về
CBXH của ông vẫn thể hiện rõ rệt tính đẳng cấp.
Chủ nghĩa tư bản ra đời, các nhà khoa học, tư tưởng của giai cấp tư
sản đưa ra cách tiếp cận mới và bổ sung những nội hàm của khái niệm
CBXH. G.Rút-xô (1712 - 1778) đã đưa ra quan điểm và giải pháp đúng đắn
để đạt cơng bằng, bình đẳng. Ơng cho rằng, sở hữu tư nhân là nguyên nhân
của phân hóa xã hội thành kẻ giàu và người nghèo. Vì vậy, xóa bỏ được sở
hữu tư nhân thì mới có thể đạt được cơng bằng và bình đẳng. Giải pháp do
ơng đưa ra để xóa bỏ sở hữu là thiết lập “khế ước xã hội” để cải biến chính
mình, loại bỏ các tính xấu, nhất là lịng tham lam và ích kỷ. Mặc dù còn là


12
những giải pháp chung chung, trừu tượng, thoát ly thực tế nhưng cũng là
những ý tưởng nhân đạo.
Các nhà CNXH khơng tưởng như X.Xi-mơng (1760-1828),
Ph.M.S.Phu-ri-ê (1772-1837), R.Ơ-oen (1771-1858) cũng đã mơ ước về một
xã hội lý tưởng và công bằng. Trong xã hội đó, mọi người đều phải lao động
và được hưởng thụ như nhau, khơng có đặc quyền, đặc lợi. CBXH là điều
kiện thực hiện công bằng cho mỗi thành viên. Tuy nhiên, xã hội công bằng do
các ông xây dựng ngay từ đầu đã mang tính khơng tưởng, đó là xã hội theo
chủ nghĩa bình qn, khổ hạnh, không phải được thực hiện bằng những cải
tạo xã hội tích cực của những người lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân với Đảng cộng sản đội tiên phong của nó. Mặc dù có nhiều hạn
chế, tư tưởng CBXH của nhân loại trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản
(CNTB) đã có bước tiến dài, có sự thay đổi về chất so với các xã hội trước,
bởi vì nó dựa trên một phương thức sản xuất hồn tồn mới.
G.Rau-xơ (1921-2002) - nhà chính trị học người Mỹ đã có cách tiếp

cận mới và khác về khái niệm CBXH, ông coi công lý như là sự công bằng.
Ông cho rằng, một thể chế xã hội được gọi là cơng bằng, khi thể chế đó là căn
cứ để xác định nguyên tắc phân chia quyền lợi và nghĩa vụ phù hợp với lợi
ích của mỗi cá nhân. Trong một xã hội cơng bằng thì quyền tự do và bình
đẳng của cơng dân là bất di bất dịch. Trong một xã hội mà chuẩn mực của sự
công bằng đảm bảo sự phân chia ngày càng bình đẳng hơn giữa quyền lợi và
nghĩa vụ hay ngày càng hạn chế được sự khác biệt về xuất phát điểm của mỗi
cá nhân, khi tham gia vào hoạt động hợp tác xã hội thì thể chế của xã hội ấy
ngày càng đạt đến giá trị công lý. Là cách tiếp cận khác về khái niệm CBXH,
cần được quan tâm nghiên cứu, song với cách tiếp cận đó và những luận giải
của mình, trong chừng mực nào đó G.Rau-xơ đã biện minh cho sự bất cơng,
bất bình đẳng và sự phân hóa thành kẻ giàu, người nghèo trong xã hội tư bản
hiện đại.


13
Công bằng xã hội tiếp tục được luận bàn, thể hiện trong trào lưu tư
tưởng, lý thuyết trái với trào lưu tự do cổ điển và tân cổ điển. Những người
theo trào lưu này nhấn mạnh một chiều tự do cá nhân trong mối quan hệ với
CBXH, và xem tự do cá nhân là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến
bộ xã hội. Vì vậy, để phát triển phải giảm bớt CBXH, bởi vì khơng thể cùng
một lúc vừa có tăng trưởng kinh tế vừa có CBXH, và khi kinh tế phát triển
đến một mức độ nhất định mới có điều kiện để thực hiện CBXH.
Mác Uây-bơ (1864 - 1920) nhà xã hội học và triết học Đức đã giải thích
ngun nhân của những bất cơng trong xã hội tư bản là do khả năng không
ngang nhau về chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp hoặc người lao
động. Đó là lý do tồn tại những vị thế khác nhau của các tập đoàn người trong
xã hội.
Những người theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính
phiến diện của trào lưu tự do cổ điển và tân cổ điển, đã cố gắng tìm kiếm sự

hỗ trợ lẫn nhau giữa tự do cá nhân và CBXH với tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, trong suốt quá trình phát triển của xã hội lồi người, vấn đề
CBXH đã được xem xét, luận bàn với các quan niệm, cách tiếp cận đa dạng,
phong phú của các nhà tư tưởng qua các thời đại khác nhau, đã phản ánh sâu
sắc sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp về quyền sở hữu, tổ chức, quản
lý sản xuất, phân phối sản phẩm lao động, thể hiện trong lĩnh vực sản xuất vật
chất và lĩnh vực tinh thần; phản ánh sự phát triển nhận thức của nhân loại về
CBXH. Do hạn chế về nhận thức, nhất là về lập trường, lợi ích giai cấp mà
các nhà tư tưởng đại diện, nhiều khái niệm do họ đưa ra về CBXH còn phiến
diện và chủ quan. Tuy nhiên, họ đã cung cấp những tài liệu bổ ích để nghiên
cứu và tiếp cận bản chất, vai trò, biểu hiện và phương thức thực hiện CBXH
trong đời sống xã hội.
1.1.1.2. Quan niệm mác-xít về công bằng xã hội
Với bản chất khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã mở ra
một bước ngoặc trong sự phát triển tư tưởng CBXH của nhân loại. Chỉ trên cơ


14
sở phương pháp nhận thức duy vật biện chứng, CBXH mới được quan niệm
một cách đúng đắn cả về bản chất, vai trò cũng như phương thức thực hiện.
C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lê-nin đã xây dựng nên một quan niệm khoa học
về CBXH với những luận điểm rất cơ bản và có hệ thống.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, CBXH thay đổi
theo các hình thái kinh tế - xã hội, thậm chí theo từng giai đoạn lịch sử
khác nhau trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi giai cấp, dân
tộc, tầng lớp dân cư khác nhau có những quan niệm khác nhau về CBXH.
Điều này đã được Ph.Ăng-ghen chỉ rõ: “Công bằng của những người Hy
Lạp và La Mã là sự công bằng của chế độ nô lệ. Công bằng của giai cấp tư
sản năm 1789 là những địi hỏi phải xóa bỏ chế độ phong kiến, mà nó coi là
bất cơng...” [31, tr.327]. Vì thế, sẽ khơng có quan niệm đúng đắn về CBXH

nếu khơng gắn nó với lợi ích giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định cùng với
những điều kiện vật chất sinh ra nó.
Mặt khác, C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin cũng chỉ ra rằng, khơng
có CBXH thốt ly khỏi bản chất nhà nước, pháp luật và các thể chế chính trị xã hội cụ thể. Theo các ơng, trong các nhà nước bóc lột khơng thể tồn tại
CBXH theo đúng nghĩa của từ này. Trái lại, các nhà nước ấy, ngày càng đẩy
bất công xã hội lên cao và dọn đường cho những cuộc cách mạng xã hội. Nhà
nước tư sản tun bố cơng dân có quyền bình đẳng trước pháp luật, nhưng
trên thực tế giai cấp tư sản chi phối sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội thì
cũng chi phối pháp luật và các quan hệ xã hội chủ yếu. Chỉ có giai cấp tư sản
là bình đẳng trước pháp luật, cịn giai cấp cơng nhân và những người lao động
khác khơng thể có bình đẳng với giai cấp tư sản.
Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ có chủ nghĩa cộng sản
(CNCS), với tính cách là hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của nhân loại
- nơi mà “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của mọi người” [30, tr.324], mới có khả năng thực hiện CBXH đích thực.


15
Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản hay CNXH chưa thể có CBXH
như mong muốn. Điều này đã được C.Mác luận giải sâu sắc trong tác phẩm
“Phê phán Cương lĩnh Gô-ta”. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
mọi người sản xuất có quyền ngang nhau khi tham gia vào quỹ tiêu dùng của
xã hội khi họ làm công việc ngang nhau. Mặc dù vậy, sự phân phối cơng bằng
đó vẫn cịn phải chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định, tức là thực
hiện sự phân phối bình đẳng trên cơ sở cịn có một số điểm bất bình đẳng nhất
định giữa các thành viên trong xã hội. Tức là còn phải thực hiện pháp quyền
tư sản. Bởi vì, vẫn cịn sự khác nhau về thể chất, tinh thần, về năng lực lao
động, trình độ tay nghề về hồn cảnh gia đình. Vì vậy, C.Mác nhấn mạnh:
Với một cơng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như
nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế người này vẫn

lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v..
Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền phải là khơng bình
đẳng, chứ khơng phải là bình đẳng [31, tr.35].
C.Mác cũng nhấn mạnh, “Những thiếu sót đó là không thể tránh khỏi
trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa,... Quyền khơng bao giờ có
thể ở mức độ cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do
chế độ kinh tế đó quyết định” [31, tr.480]. Chỉ đến CNCS những thiếu sót đó
mới được khắc phục hồn tồn và “Chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra
khỏi giới hạn chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá
cờ của mình: làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” [31, tr.36]. Chỉ trong
CNXH và CNCS mới có thể có CBXH một cách đích thực.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã xem xét CBXH trong mối quan hệ hữu cơ với độc lập dân tộc và
CNXH. Người khẳng định CBXH thực sự chỉ có thể có được trong chế độ
xã hội mới, chế độ dân chủ cộng hòa. Trong chế độ ấy “nhân dân có nghĩa
vụ đồng thời có quyền lợi” [34, tr.219]. Quyền lợi và nghĩa vụ của nhân


16
dân lao động đều bình đẳng [36, tr.310]. Theo Người, tiến lên CNXH,
CNCS là phương thức duy nhất đúng, hợp lịng người để thực hiện CBXH.
“Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do,bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa
bình và hạnh phúc” [33, tr.115]. Sự cơng bằng, bình đẳng của chế độ
XHCN được bảo đảm bởi cơ sở vững chắc của nó là chế độ cơng hữu về tư
liệu sản xuất của xã hội, chế độ sở hữu tập thể.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cơng bằng trong phân phối,
Người nhấn mạnh: “có khi vật tư, hàng hố khơng thiếu, mà phân phối khơng
đúng thì gây ra căng thẳng không cần thiết. Và nhấn mạnh, không sợ thiếu,

chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo chỉ sợ lịng dân khơng n” [37,
tr.185]; cơng bằng khơng có nghĩa là cào bằng, bình qn chủ nghĩa, “Khơng
có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ, cũng công điểm như
nhau” [37, tr.143]; mà phải theo nguyên tắc: “Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít
hưởng ít, khơng làm khơng hưởng” [35, tr.23].
Hồ Chí Minh quan niệm rằng, thực hiện CBXH chính là giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng
thụ của mỗi công dân trong xã hội. Hơn nữa, phải coi trọng thực hiện CBXH
đối với những người đã hy sinh một phần xương máu cho độc lập dân tộc và
đối với những gia đình có người cống hiến, hy sinh cho độc lập dân tộc.
Người căn dặn, khi giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước:
Đối với những người dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình,... Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm cách lo cho họ có
nơi ăn, chốn ở yên ổn,... Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh,
liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa
phương phải giúp đỡ họ có cơng việc làm ăn thích hợp, quyết
khơng để họ đói rét [37, tr.503].


17
Hồ Chí Minh cịn quan tâm đến những tập đồn, lực lượng, các giai cấp
trong xã hội:
Trong bao năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tiếp đến là đế
quốc Mỹ, đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân đã ln trung
thành với Đảng và Chính phủ, ra sức góp người, góp của, vui
lịng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Nay ta đã hồn tồn
thắng lợi, tơi đề nghị miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp
tác xã nông nghiệp để cho đồng bào thêm phấn khởi, đẩy mạnh
sản xuất [37, tr.504].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CBXH là tồn diện, sâu sắc, trong đó nổi lên

một số nội dung chính:
- CBXH quan hệ mật thiết với bình đẳng xã hội, thực hiện CBXH chính
là thực hiện bình đẳng xã hội về nghĩa vụ và quyền lợi giữa các thành viên
trong xã hội và phải được thực hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.
- Tiến lên CNXH là con đường, phương thức duy nhất để thực hiện
CBXH. CBXH là việc tạo ra điều kiện cho mỗi người, cho mọi cộng đồng
người có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của xã hội và hưởng thụ
những thành quả của sự phát triển; là đảm bảo quyền tự do của mỗi người
trong quan hệ gắn bó với cộng đồng, v.v..
- CBXH phải được thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết quan hệ giữa
phát triển kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, giải quyết hài hòa giữa
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người, mỗi cộng đồng; đó là trách nhiệm của
Nhà nước, của toàn xã hội trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của nhân dân
và tạo ra điều kiện thuận lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi của
mình đối với Nhà nước, xã hội.
- Thực hiện CBXH ở nước ta phải tính đến điều kiện đặc thù là nước ta
là nước kinh tế kém phát triển, lại trải qua chiến tranh tàn khốc kéo dài, hậu
quả rất nặng nề nên ngoài những vấn đề chung phải có trọng tâm, chú ý đến


18
các đối tượng chính sách, các vùng dân tộc miền núi, vùng căn cứ cách mạng,
coi trọng xóa đói giảm nghèo và phát triển trở thành cơng việc của tồn dân.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong công cuộc đổi
mới hiện nay, Đảng ta luôn quan tâm đến CBXH. Thời kỳ trước đổi mới
CBXH được thực hiện chủ yếu thơng qua chính sách phân phối bình quân.
Trong thời kỳ đổi mới, thực hiện KTTT định hướng XHCN, Đảng ta đã bổ
sung những điểm mới về CBXH. Tại Đại hội VI của Đảng cho rằng, CBXH
thực hiện trong chính sách giải quyết việc làm và phân phối theo lao động.

Đại hội VII của Đảng chỉ rõ, CBXH phải được thể hiện trong các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục và khuyến khích tăng thu nhập và
làm giàu chính đáng. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: “Công bằng xã hội
không chỉ được thực hiện trong khâu phân phối kết quả sản xuất mà còn
được thực hiện ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, ở việc tạo ra những điều
kiện cho mọi người phát huy tốt năng lực của mình” [ 9, tr.31]. Đại hội X
của Đảng lại làm rõ hơn những nội dung của khái niệm CBXH và nhấn
mạnh, CBXH không chỉ là mục đích mà cịn “tạo động lực mạnh mẽ và bền
vững hơn cho phát triển kinh tế xã hội” [10, tr.101]. Đến Đại hội XI Đảng
ta chỉ rõ:“thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng
chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển
nhanh, bền vững” [13, tr.124].
Như vậy, trong lịch sử có rất nhiều quan niệm khác nhau về CBXH.
Trong đó, quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện sự
phân tích đánh giá khá tồn diện, khoa học về cơng bằng, bình đẳng xã hội.
Mặc dù các ơng chưa đưa ra định nghĩa đầy đủ về CBXH, song những tư
tưởng của các ông là cơ sở lý luận quan trọng để kế thừa khi nghiên cứu vấn
đề này.
Hiện nay, khái niệm CBXH được nhiều học giả định nghĩa dưới nhiều
góc độ tiếp cận khác nhau.


19
Trong Từ điển Bách khoa Việt Nam CBXH được định nghĩa là:
1. Khái niệm về ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, chỉ điều chính
đáng, tương ứng với bản chất và quyền con người. Khác với khái
niệm thiện và ác dùng để đánh giá những hiện tượng riêng rẽ, khái
niệm công bằng nêu ra sự tương quan giữa một số hiện tượng theo
quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người với người.
Cơng bằng địi hỏi sự tương xứng vai trò của những cá nhân (những

giai cấp) với địa vị của họ, giữa hành vi với sự đền bù (lao động thù
lao, công và tội, thưởng và phạt), giữa quyền với nghĩa vụ. Khơng
có sự tương xứng trong quan hệ ấy là bất công v.v.. 2. Công bằng xã
hội là phương thức đúng đắn nhất để thỏa mãn một cách hợp lý
những nhu cầu của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội, các tầng
lớp xã hội, các nhóm xã hội, các cá nhân xuất phát từ khả năng hiện
thực của những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Về nguyên tắc,
chưa có sự công bằng nào được coi là tuyệt đối trong chừng mực
mà mâu thuẫn giữa nhu cầu con người và khả năng hiện thực của xã
hội còn chưa được giải quyết. Bởi vậy, mỗi xã hội có sự địi hỏi
riêng về công bằng xã hội [22, tr.580-581].
Khái niệm công bằng, công lý được định nghĩa trong “Từ điển Triết học
giản yếu” do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lê Hữu Tầng biên soạn như sau:
Phạm trù đạo đức học và pháp luật, đánh giá những quan hệ và hành
động xã hội với quan niệm là mỗi người đều bình đẳng. Cơng bằng có một vai
trị quan trọng trong ý thức quần chúng. Nội dung của cơng bằng khơng có
tính chất chung chung, bất di, bất dịch, phi thời gian - nó thay đổi theo lịch sử,
phản ánh hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức
của từng giai cấp theo quyền lợi của mình... Trên cơ sở quan hệ kinh tế, xã hội
và chính trị của chủ nghĩa xã hội, khái niệm cơng bằng mang một nội dung
mới: tất cả mọi người đều có thể trong thực tế, phát triển như nhau nhân cách,


20
tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ hoạt động vì lợi ích xã hội. Ngun tắc
“Mỗi người làm theo năng lực và hưởng theo lao động” được thực hiện... chỉ
khi nào tới chủ nghĩa cộng sản thì mới thực hiện được nguyên tắc “Mỗi người
làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu”,... [41, tr.97-98].
Nhiều cơng trình khoa học khác cũng nghiên cứu về CBXH dưới nhiều
góc độ như triết học, kinh tế học, xã hội học và luật học, v.v.. Theo đó, các tác

giả coi CBXH khơng phải là sự ngang nhau giữa người với người về mọi
phương diện mà đó là sự thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi của con người
theo nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì sẽ được hưởng
quyền lợi (hưởng thụ) ngang nhau [46, tr.33].
Có tác giả xem xét bản chất của CBXH chính là sự phù hợp một loạt
khía cạnh trong mối quan hệ giữa cá nhân (hay nhóm xã hội) làm với cái mà
họ được hưởng từ xã hội [22, tr.15]. Nhiều nhà khoa học có chung ý kiến với
tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng:
Công bằng xã hội là phạm trù lịch sử, mang tính giai cấp, có thể được
xem xét ở nhiều góc độ (chính trị, kinh tế, triết học, đạo đức, pháp luật v.v).
Nó chính là sự đánh giá tương xứng “cơng bằng xã hội giữa giá trị thực tế của
những cá nhân, giai cấp hoặc nhóm xã hội với địa vị xã hội của họ; giữa công
lao động với sự thừa nhận nó; giữa quyền và nghĩa vụ; giữa vi phạm pháp luật
và trách nhiệm pháp lý [27, tr.57].
Tác giả Dương Xuân Ngọc cho rằng, CBXH là một phạm trù xã hội
dùng để chỉ trình độ phát triển về phương diện xã hội của con người (cá nhân
và cộng đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội từ kinh tế, chính trị và xã hội đến văn hóa, tinh thần, mà trước hết
là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi giữa xã
hội và cá nhân, nhằm bảo đảm sự phát triển hài hòa của con người, của xã hội
phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. CBXH vừa là khát vọng của con người,
vừa là động lực, là mục tiêu của sự phát triển xã hội, của cách mạng XHCN,
của sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta [40, tr.37].


21
Tác giả Vũ Anh Tuấn cho rằng, CBXH là khái niệm chỉ sự tương xứng
giữa vai trò và vị thế của các thành viên xã hội (cá nhân, giai cấp, nhóm xã
hội), giữa cái mà họ tạo ra cho xã hội và cái mà họ nhận lại từ xã hội như
cống hiến và hưởng thụ, lao động và sự trả công, quyền và nghĩa vụ, vi phạm

pháp luật và trách nhiệm pháp lý, v.v.. [50, tr.25].
Tác giả Lê Hữu Tầng cho rằng, CBXH là một dạng biểu hiện cụ thể của
bình đẳng xã hội và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của bình
đẳng xã hội là thực hiện bình đẳng trên một phương diện nhất định - phương
diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ.
Khi đề cập đến vấn đề CBXH, một số tác giả hiện nay có nêu đến vấn
đề cơng bằng về cơ hội. Có quan điểm cho rằng cơng bằng về cơ hội là quyền
của mọi người được tiếp cận ngang nhau với một may mắn, thuận lợi nào đó
để thực hiện điều mình mong muốn. Theo cách hiểu như vậy ta thấy cơng
bằng về cơ hội ở đây chính là bình đẳng về cơ hội tức là bình đẳng trong việc
tiếp cận các cơ hội.
Từ những điều phân tích ở trên, khái quát lại, có thể hiểu: CBXH là một
khái niệm mang tính lịch sử - xã hội, là sự bình đẳng giữa người và người
trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi. CBXH
gắn liền với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, nó vừa là mục đích, vừa là
động lực của sự phát triển xã hội.
Với quan niệm trên, CBXH có những đặc điểm cơ bản như sau:
Cơng bằng xã hội có tính lịch sử: CBXH là sản phẩm của những điều
kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, nên nó có tính lịch
sử cụ thể. Vì thế, khơng thể có một quan niệm, một chuẩn mực bất di bất dịch
về công bằng chung cho mọi thời đại, mọi quốc gia. Lịch sử phát triển của
nhân loại cho thấy, mỗi hình thái kinh tế - xã hội, đều có những quan niệm,
chuẩn mực riêng, cụ thể về CBXH, được quy định bởi điều kiện chính trị kinh tế - xã hội của hình thái kinh tế - xã hội ấy. Vì vậy, khơng thể dùng


22
một thước đo công bằng chung cho mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi xã hội
cũng như không thể áp đặt những chuẩn mực công bằng khi những điều
kiện vật chất chưa phù hợp với nó. Do vậy, CBXH khơng phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người mà phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực

lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, mối tương quan giữa lao động
phức tạp và lao động giản đơn, vào tính chất của quan hệ sản xuất và trình
độ văn hố, văn minh của xã hội.
Cơng bằng xã hội có tính giai cấp: Mỗi giai cấp, nhóm xã hội khác
nhau đều có những quan niệm, chuẩn mực và cách thức thực hiện khác nhau
đối với CBXH. Địa vị của từng giai cấp, nhóm xã hội trong sản xuất, phân
phối và trao đổi là nhân tố quyết định nhu cầu và lợi ích của họ và chi phối
quan niệm về CBXH của họ. Nhu cầu và lợi ích của mỗi giai cấp, tầng lớp xã
hội trong mỗi giai đoạn là cơ sở hình thành quan niệm về CBXH của mỗi giai
cấp. Tuy nhiên, quan niệm chung về CBXH của toàn xã hội lại bị chi phối bởi
quan niệm về CBXH của giai cấp thống trị.
Cơng bằng xã hội có tính nhân văn: CBXH là một giá trị có tính nhân
văn, một khát vọng của nhân loại, đồng thời là cơ sở phát huy các nguồn lực nhất là nguồn lực con người cho sự phát triển xã hội, nhằm thỏa mãn những
nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, CBXH là mục
tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội.
Ngoài ra, khái niệm CBXH khơng tách rời với khái niệm bình đẳng xã
hội, do đó cần phải nghiên cứu hai khái niệm này trong mối quan hệ với nhau.
Bình đẳng xã hội là khái niệm chính trị, xã hội, chỉ sự ngang bằng giữa các cá
nhân hay nhóm xã hội về một hay một số phương diện nhất định. Chẳng hạn,
sự ngang bằng giữa cá nhân hay các nhóm xã hội về địa vị xã hội, về quyền
và nghĩa vụ cơng dân. Cịn khi nói tới sự ngang nhau giữa người với người về
mọi phương diện, tức là đã nói tới sự bình đẳng xã hội hoàn toàn. Khi luận
bàn về CBXH, C.Mác cũng luận giải về quan hệ giữa khái niệm CBXH với


23
bình đẳng xã hội. Đây là những khái niệm có quan hệ mật thiết với nhau, có
các nội hàm thống nhất nhưng không đồng nhất với nhau. CBXH chỉ là một
dạng của bình đẳng xã hội, nhưng đó là sự bình đẳng, tức là sự ngang bằng
nhau giữa người với người không phải về mọi phương diện, cũng không phải

về một phương diện bất kỳ, mà chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định:
phương diện giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang
nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Như vậy, CBXH và bình đẳng xã hội có điểm
chung nhưng cũng có những điểm khác nhau. Chẳng hạn, khi ta nói mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật thì có nghĩa mọi người đều được đối xử
ngang bằng nhau trước pháp luật, bất kể người đó là ai. Cịn khi xét từng
trường hợp cụ thể thì người làm nhiều sẽ được hưởng nhiều, người làm ít sẽ
được hưởng ít, người có cơng sẽ được thưởng, người có tội sẽ bị phạt, cơng
càng lớn thì mức thưởng càng lớn, tội càng nặng thì mức phạt sẽ càng nặng...
Một sự đối xử như vậy được coi là công bằng.
Tuy nhiên, sự đánh giá về CBXH phức tạp hơn nhiều so với sự đánh
giá về bình đẳng xã hội. Để đánh giá sự công bằng phải so sánh phần
hưởng thụ của các cá nhân, các nhóm xã hội với phần đóng góp, cống hiến
của họ. Phần hưởng thụ về cơ bản có thể lượng hóa được một cách tương
đối dễ dàng; cịn phần đóng góp, cống hiến, nhất là sự đóng góp cống hiến
về tài năng, trí tuệ thì rất khó có thể lượng hóa chính xác. Khơng những
thế, đóng góp của cá nhân bao gồm đóng góp trong hiện tại quá khứ và
tương lai. Đó là chưa kể đến những đóng góp khơng thể tính tốn và bù đắp
được như sự hy sinh xương máu của những anh hùng, liệt sĩ cho độc lập, tự
do của Tổ quốc v.v.
1.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
công bằng xã hội


24
CBXH chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố, trong đó có thể kể đến bốn
nhóm nhân tố cơ bản là kinh tế, chế độ chính trị, truyền thống văn hóa dân tộc
và thời đại.
1.1.2.1. Nhân tố kinh tế
Kinh tế là nhân tố quan trọng hàng đầu tác động đến việc thực hiện

CBXH ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Trình độ phát triển kinh tế đã được chủ
nghĩa Mác - Lênin luận bàn trên cơ sở học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội.
Theo đó, xã hội lồi người được chia thành 5 hình thái kinh tế - xã hội là cộng
sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, CNTB và CNCS. Các hình
thái kinh tế - xã hội này vận động và phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất
phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Các
quan hệ kinh tế dựa trên tính chất và trình độ nhất định của lực lượng sản xuất
của mỗi hình thái kinh tế - xã hội là cái cấu thành cơ sở hạ tầng, trên cơ sở đó
hình thành kiến trúc thượng tầng của một chế độ xã hội. Trình độ phát triển
kinh tế được tạo nên bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tính
chất của quan hệ sản xuất. Trình độ phát triển xã hội của mỗi quốc gia, dân
tộc phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, vào sự tăng trưởng kinh tế, thể
hiện tập trung ở mức sống, điều kiện sống và chất lượng cuộc sống của các
tầng lớp dân cư. Một quốc gia, dân tộc có trình độ phát triển kinh tế càng cao,
càng giàu có, thì càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện CBXH.
Việc thực hiện CBXH cịn phụ thuộc vào tính chất của sự phát triển
kinh tế. Một quốc gia có sự phát triển kinh tế vì sự hưng thịnh của đất
nước, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của toàn dân; kinh tế phát triển ổn
định, vững chắc thì CBXH sẽ được thực hiện ngày càng tốt hơn. Ngược lại,
sự phát triển kinh tế một quốc gia vì một thiểu số người thống trị, bóc lột
và sự phát triển ấy, khơng vững chắc thì chắc chắn CBXH không được thực
hiện đạt kết quả cao.


25
Chế độ sở hữu tư liệu sản xuất có vai trị quyết định đến việc thực hiện
CBXH. Bởi vì, trong các xã hội phân chia thành giai cấp, việc thực hiện
CBXH phụ thuộc vào ý chí của giai cấp cầm quyền, giai cấp chiếm hữu và chi
phối tư liệu sản xuất của xã hội. Việc thực hiện CBXH khơng ngồi mục đích
ổn định xã hội để duy trì vị trí cầm quyền và việc sở hữu tư nhân về tư liệu

sản xuất, từ đó duy trì và làm tăng lợi nhuận cho họ. Trong chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, mọi người dân đều có quyền sở hữu tư liệu sản xuất, việc
thực hiện CBXH thực hiện ý chí và nguyện vọng của tồn dân, vì tồn dân.
Điều này không hạn chế việc thực hiện CBXH ngày càng tốt hơn. Kinh tế
phát triển cao chỉ là điều kiện cần để thực hiện CBXH. Để thực hiện tốt
CBXH còn phải có các điều kiện đủ, như tính chất, bản chất của chế độ xã hội
và của chính đảng cầm quyền, v.v.. Nhiều nước giàu có nhưng dân vẫn khổ,
vẫn bất cơng. Trong khi đó, ở nhiều nước kinh tế phát triển thấp hơn nhưng
CBXH lại được thực hiện tốt hơn.
1.1.2.2. Nhân tố chính trị
Việc thực hiện CBXH cịn phụ thuộc vào tính chất của chế độ chính trị,
đảng cầm quyền và Nhà nước. Đây là những nhân tố chủ yếu quy định phạm
vi, mức độ và đối tượng thực hiện CBXH.
Trong các xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng khơng thể có
CBXH giữa những người áp bức, bóc lột và những người bị áp bức, bóc lột.
Bởi vì, bản chất của chế độ xã hội đó là bóc lột mà đại biểu cho chế độ đó, là
những người nắm chính quyền, cai trị, áp bức nhân dân. Trong xã hội ấy, chỉ
có cơng bằng đối với thiểu số áp bức bóc lột. Những người bị áp bức bóc lột
khơng thể có được sự cơng bằng xã hội.
Trong CNTB, vấn đề CBXH được nhận thức và hiện thực hóa trên cơ
sở của thế giới quan và nhân sinh quan mới của giai cấp tư sản. Theo đó,
CBXH được nhấn mạnh ở khía cạnh là sự ngang nhau hay bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ của cơng dân trước pháp luật. CBXH trong CNTB nhấn


×