Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa huyện ở tuy phước, tỉnh bình định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.23 KB, 112 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Di sản văn hóa (DSVH) hình thành và phát triển cùng tiến trình
lịch sử dân tộc. DSVH kết tinh từ những giá trị văn hóa đặc trưng, quý báu
của dân tộc, là biểu hiện tập trung của bản sắc dân tộc. DSVH ln đóng
vai trị quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, dân tộc, tộc
người, một vùng miền bởi những chức năng vốn có của nó. Vai trị đó được
khẳng định tại Nghị quyết Trung ương 5, Khóa VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam: “DSVH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi
của bản sắc văn hóa dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa và
giao lưu văn hóa” [11, tr.63].
Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, đảm bảo
sự gắn kết, tiếp nối một cách có hệ thống giữa quá khứ, hiện tại và tương lai
là việc làm rất cần thiết, đặc biệt là khi q trình cơng nghiệp hóa- hiện đại
hóa đất nước, sự giao lưu, hội nhập với thế giới trong q trình tồn cầu hóa
của nước ta đang tác động một cách sâu sắc đến các cộng đồng và mọi người
dân. Sự tác động này vừa tạo ra cơ hội cho văn hóa phát triển, đồng thời cũng
tạo ra những thách thức đối với việc bảo tồn và phát huy DSVH. DSVH, nếu
được bảo tồn và phát huy hiệu quả, có thể tác động tích cực đến sự phát triển
kinh tế - xã hội, đóng góp hữu hiệu vào quá trình phát triển đất nước.
Với tầm quan trọng như vậy, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
đã trở thành nhiệm vụ khơng chỉ của riêng ngành văn hóa mà cịn là trách
nhiệm của của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, trở thành vấn đề quan tâm
chung của mọi người. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, trong
Báo cáo chính trị trình Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI đã khẳng định "
Hoàn thiện và thực hiện nghiệm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của


2


dân tộc. Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông
tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong cơng chúng,
đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài. Xây dựng và thực hiện các chính
sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa”[3, tr.146]. Như vậy, bảo tồn và phát
huy giá trị DSVH đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay.
1.2. Tuy Phước là một trong 11 huyện, thành phố của tỉnh Bình Định.
Với những đặc điểm về vị trí địa lý, lịch sử hình thành và phát triển, Tuy
Phước nằm trong số những huyện có DSVH đặc sắc nhất của tỉnh. DSVH ở
đây khá đa dạng, phong phú với đủ các loại hình di sản, từ di tích lịch sử, di
tích kiến trúc, nghệ thuật đến các DSVH phi vật thể nổi tiếng như Tuồng( hát
Bội), Bài Chòi, Chèo Bả trạo, Võ cổ truyền dân tộc, dân ca, các trị chơi dân
gian… Những DSVH đó là kết tinh giá trị văn hóa từ lịch sử và cũng là cái
nơi tinh thần của con người Tuy Phước truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Kể từ ngày thống nhất đất nước năm 1975, công tác bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa ở Tuy Phước sớm được quan tâm thực hiện. Từ
đó đến nay, cơng việc việc này đạt được những kết quả bước đầu. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội của huyện, đặc biệt là q
trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng nghiệp và nơng thơn hiện nay,
cũng như nhiều địa phương khác, Tuy Phước phải đối mặt với nhiều thách
thức. Đó là làm sao giữ gìn bản sắc văn hóa địa phương khơng bị mai một ;
việc giải quyết hài hòa giữa mục tiêu phát triển kinh tế và phát triển văn
hóa, đảm bảo tính bền vững trong phát triển; khai thác một cách chủ động,
hiệu quả các giá trị của DSVH, làm cho nó trờ thành động lực, nguồn lực
thúc đẩy sự phát triển của huyện.
Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng của hoạt động
bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH, phát huy vai trò của DSVH đối với sự



3
phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn huyện, người viết luận văn đã chọn đề
tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa huyện ở Tuy Phước, tỉnh Bình
Định hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ đào tạo thạc sĩ Văn hóa học tại
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ lâu đã trở thành vấn đề
mang tính tồn cầu. Tổ chức Văn hóa, Giáo dục và Khoa học Liên hiệp quốc
(UNESCO) đã lấy ngày 18/5 hàng năm làm ngày Bảo tàng thế giới. UNESCO
cũng đã công bố Công ước về bảo vệ DSVH và tự nhiên của thế giới vào năm
1972 và Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể vào năm 2003. Một trong
những mục tiêu trọng tâm của của Thập kỷ quốc tế về văn hóa vì sự phát
triển do UNESCO phát động là khẳng định và làm phong phú thêm các bản
sắc văn hóa, nghĩa là quan tâm đặc biệt đến DSVH và việc bảo tồn, phát huy
nó. Vì tầm quan trọng, ý nghĩa đặc biệt trong thời đại ngày nay mà nhiều quốc
gia như Nhật, Trung Quốc, Ai Cập… đã ban hành các bộ luật về DSVH, trong
đó đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
Ở nước ta, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị DSVH đã được các triều
đại phong kiến quan tâm. Vai trò và tầm quan trọng của DSVH đã được học
giả Đào Duy Anh đề cập trong tác phẩm "Việt Nam văn hóa sử cương” xuất
bản vào năm 1935. Ngay sau khi nước ta mới dành lại được độc lập, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh "Bảo tồn cổ tích trên toàn lãnh thổ Việt Nam”.
Năm 2001, Luật Di sản văn hóa của Việt Nam lần đầu được ban hành (sửa
đổi, bổ sung vào năm 2009), đánh dấu mốc quan trọng trong quan niệm về vai
trò của DSVH cũng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
Trước vai trò ngày càng quan trọng của DSVH và hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị DSVH, có nhiều cơng trình khoa học, sách, bài nghiên cứu,
bài báo đề cập đến DSVH cũng như vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH. Tiêu
biểu có thể kể đến là sách "Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn



4
hóa dân tộc” (1997) của tác giả Hồng Vinh. Trong cơng trình này, ở góc độ
lý luận, tác giả đã đưa ra quan niệm về DSVH, bản chất, vai trò, các loại hình
DSVH. Trên cơ sở phân tích thực trạng DSVH, tác giả đã đưa ra các kiến nghị
về chính sách bảo tốn và phát triển DSVH dân tộc. Năm 2010, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội xuất bản công trình "Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập” do GS.TS Ngô
Đức Thịnh làm chủ biên. Ở tác phẩm này, sau khi trình bày quan niệm, mối
liên hệ biện chứng giữa các hoạt động bảo tồn, làm giàu và phát huy, các tác
giả đã nêu thực trạng hoạt động này ở nước ta và đề xuất các kiến nghị có tính
định hướng cho các hoạt động này trong quá trình đổi mới đất nước và hội
nhập quốc tế hiện nay.
Có thể thấy vấn đề bảo tồn và phát huy DSVH dân tộc còn được đề cập
trong rất nhiều sách, giáo trình, luận văn, bài nghiên cứu, bài báo của các nhà
nghiên cứu có uy tín từ trung ương đến địa phương. Tiêu biểu trong số đó có
thể kể đến các bài viết, bài nghiên cứu như: "Bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa phi vật thể ở nước ta hiện nay” của tác giả Quảng Hoàng Linh (Tạp chí
Văn hóa nghệ thuật, 2012); "Bảo tồn và khai thác di sản văn hóa dân tộc” của
Võ Văn Thắng (tạp chí Văn hóa nghệ thuật, 2010); "Tồn cầu hóa với việc
bảo tồn văn hóa truyền thống” của Phạm Thị Thanh Tâm (Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, 2009); "Con đường tiếp cận di sản văn hóa” của Lưu Trần Tiêu
(Tạp chí Khoa học xã hội, số 8-2007); "Cơ chế và đặc điểm của sự mất mát
các di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam hiện nay” của Cao Tự Thanh (Tạp
chí xưa và nay, số 292- 2007)
Tuy Phước là vùng đất có nhiều DSVH tiêu biểu của tỉnh Bình Định.
Viết về DSVH ở đây có cơng trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả như
Nguyễn Xuân Nhân với cơng trình "Cảng thị Nước Mặn và văn hóa cổ
truyền” ; Nguyễn Phúc Liêm với "Văn hóa Gị Bồi”; Lộc Xuyên Đặng Quý
Địch với "Chuyện cũ kẻ sĩ Bình Định”. UBND huyện Tuy Phước cũng đã



5
xuất bản một số sách có đề cập đến DSVH ở địa phương như "Lịch sử Đảng
bộ huyện Tuy Phước”, "Tuy Phước: Đất và người” (sách ảnh) "Nhớ Xuân
Diệu”- Nhiều tác giả. Ngồi ra cịn có nhiều bài viết về văn hóa Tuy Phước
của các tác giả Vũ Ngọc Liễn, nhà nghiên cứu Tuồng; Lê Thanh Quang,
Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Phúc Liêm… về các đề tài Tuồng, chèo Bả trạo,
DSVH võ ở các võ đường…Các hồ sơ khoa học các di tích lịch sử- văn hóa
cũng đã đề cập đến rất nhiều thơng tin liên quan đến lịch sử hình thành và ý
nghĩa văn hóa của di tích.
Nhìn chung những cơng trình nghiên cứu, sách, bài viết, bài nghiên cứu
đã cung cấp một lượng thông tin khá đa dạng, phong phú cả về lý luận lẫn
thực tiễn về DSVH của nước ta nói chung và Tuy Phước nói riêng. Tuy nhiên
đến nay vẫn chưa có cơng trình chun biệt nào đề cập đến thực trạng bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở Tuy Phước hiện nay.
Vì vậy tơi đã lựa chọn đề tài "Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Tuy
Phước, Bình Định hiện nay” để nghiên cứu với mong muốn đề xuất giải pháp,
góp phần làm cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở huyện Tuy
Phước có hiệu quả hơn trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của giá trị DSVH đối với sự phát triển
kinh tế- xã hội ở huyện Tuy Phước hiện nay, luận văn tập trung nghiên cứu
thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở huyện trong thời gian qua, từ
đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở huyện trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Hướng tới mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ xác định cơ sở lý
luận chung về DSVH và vai trò của DSVH. Tiếp đến luận văn tập trung

nghiên cứu những giá trị DSVH phong phú, đa dạng của địa phương, đồng


6
thời khảo sát thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị DSVH ở đây trong thời
gian qua, tiến đến đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công
tác này trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng chính và phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động bảo tồn
và phát huy di sản văn hóa ở huyện Tuy Phước từ sau 1975 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn là các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hóa và DSVH.
5.2. Về phương pháp nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu liên ngành, đa ngành như lịch sử, văn hóa học, xã hội học. Ngồi
ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như lịch sử logic, điều tra xã hội học, điền dã, phân tích, tổng hợp, phỏng vấn sâu chuyên
gia, khảo cứu…để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về DSVH
và vai trò của DSVH đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Tuy Phước hiện
nay, đánh giá và đề xuất giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
bảo tồn, phát huy DSVH ở huyện Tuy Phước trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý văn hóa của huyện và tỉnh và cũng có
thể làm tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về lĩnh vực
văn hóa học và quản lý văn hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn có 3 chương, 7 tiết.



7
Chương 1
VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG BẢO TỒN
VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA HIỆN NAY
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DI SẢN VĂN HÓA

1.1.1. Quan niệm về di sản văn hóa
Có rất nhiều khái niệm về văn hóa nhưng trong luận văn này chúng tơi
hiểu văn hóa là hệ thồng hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhằm thỏa
mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình [45, tr.19]. Văn hóa có
nhiều chức năng nhưng trong quan hệ với di sản văn hóa, các chức năng của
văn hóa cần chú ý là chức năng nhận thức, giáo dục, điều chỉnh và đảm bảo
sự kế tục của lịch sử.
Cũng liên quan đến DSVH là quan niệm giá trị. Giá trị có nguồn gốc từ
nhu cầu của con người, nó là những đánh giá chủ quan của con người về tự
nhiên, xã hội và tư duy. Tiêu chuẩn cao nhất của những đánh giá chủ quan đó là
các giá trị chân- thiện - mỹ. Giá trị chi phối, điều chỉnh cách suy nghĩ, niềm tin,
hành vi, tình cảm… của con người trong các hoạt động và quan hệ xã hội. Nó
cũng là cơ sở đánh giá hành vi của các thành viên trong cộng đồng. Do đó giá trị
xác định các tiêu chuẩn của thang bậc xã hội, làm nền tảng cho cuộc sống chung.
Các giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo và
kết tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng với môi trường
tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng tới thỏa mãn những nhu
cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), bồi
đắp và nâng cao bản chất người [45, tr.22]. Điều đáng lưu ý là giá trị văn hóa
chứa đựng, kết tinh ở DSVH trong lịch sử và thông qua DSVH mà thực hiện
chức năng của mình.



8
Có thể thấy, vì giá trị văn hóa là cốt lõi của DSVH nên việc phân loại
giá trị văn hóa sẽ giúp ích nhiều cho việc tìm hiểu DSVH. Tác giả Đồn Văn
Chúc phân chia giá trị văn hóa thành các giá trị thuộc về phẩm chất tự nhiên
(sức khỏe, sự sống lâu…); các giá trị thuộc về trật tự kinh tế (phúc, lộc,
thọ…); các giá trị thuộc về trật tự tâm linh (vũ trụ quan và nhân sinh quan của
con người); các giá trị thuộc về trật tự đạo đức và thẩm mỹ. Tác giả Hoàng
Vinh chia giá trị văn hóa thành 7 lĩnh vực tự nhiên, kinh tế, tri thức, chính trị,
thẩm mỹ và tơn giáo, tín ngưỡng. Có tác giả lại chia giá trị theo hai dạng.
Dạng thứ nhất là hệ giá trị văn hóa tổng quát. Ví dụ như các giá trị văn hóa
đặc trưng của con người Việt Nam theo Nghị quyết TW 05 (Khóa 8) là lịng
u nước, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn
kết cá nhân- gia đình- làng xã- tổ quốc…). Dạng thứ hai là hệ giá trị bộ phận
như những giá trị nảy sinh từ quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong sinh
hoạt vật chất, trong ứng xử và quản lý xã hội, trong sáng tạo văn hóa, nghệ
thuật, giáo dục- đào tạo, trong phẩm chất, nhân cách của danh nhân, trong đời
sống tâm linh, tơn giáo, tín ngưỡng, trong giao lưu, hội nhập, đối thoại văn
hóa, trong sự nghiệp giữ nước, chống ngoại xâm. Đáng lưu ý là mối quan hệ
giữa giá trị và DSVH. Trong mối quan hệ này, giá trị văn hóa là cốt lõi của
DSVH, nó đóng vai trị phân biệt giữa DSVH và tồn bộ các hiện tượng văn
hóa nói chung.
Thuật ngữ DSVH mang tính khoa học được biết đến từ Cuộc cách
mạng Tư sản Pháp năm 1789. Lúc này DSVH được hiểu như một loại tài
sản chung, của mọi công dân chứ không của riêng một ai [62, tr.7]. Nhật
Bản là một trong những nước đầu tiên quan tâm đến vấn đề bảo vệ các
DSVH truyền thống ở châu Á cũng như thế giới. Ngay từ năm 1897, Nhật
đã ban hành Luật Bảo vệ di tích chùa chiền cổ. Năm 1950, nước này ban
hành Luật Bảo vệ tài sản văn hóa, bộ luật hồn thiện nhất thế giới về

DSVH cho đến thời điểm đó.


9
Trong Công ước về bảo vệ DSVH và tự nhiên thế giới năm 1972,
DSVH được Ðại Hội đồng Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên
Hợp Quốc (UNESCO) quan niệm là các di tích gồm các cơng trình kiến trúc,
điêu khắc hoặc hội hoạ hồnh tráng, các yếu tố hay kết cấu có tính chất khảo
cổ, các văn bản, các hang động và các nhóm yếu tố có giá trị quốc tế đặc biệt
về phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học; các quần thể: gồm các nhóm
cơng trình xây dựng đứng một mình hoặc quần tụ có giá trị quốc tế đặc biệt về
phương diện lịch sử, nghệ thuật hay khoa học, sự thống nhất của chúng hoặc
sự nhất thể hoá của chúng vào cảnh quan. DSVH cịn là các thắng cảnh như
các cơng trình của con người hoặc những cơng trình của con người kết hợp
với các cơng trình của tự nhiên, cũng như các khu vực, kể cả các di chỉ khảo
cổ học, có giá trị quốc tế đặc biệt về phương diện lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc
học hoặc nhân chủng học [52, tr.3] Có thể thấy, quan niệm này của UNESCO
nhấn mạnh đến yếu tố vật thể của DSVH.
Theo GS.TS Hoàng Vinh, những thành tựu của những hoạt động sáng
tạo (những hoạt động sáng tạo này sản sinh ra hiểu biết, kinh nghiệm sống,
đúc kết thành truyền thống, thị hiếu, giá trị…), bất kể là vật thể hay phi vật
thể, hữu hình hay vơ hình, qua thời gian sàng lọc, thử thách, kết tinh lại thành
DSVH [60, tr.99]. Cũng theo ông, DSVH là tồn tại thực của văn hóa và là bộ
phận trọng yếu của văn hóa.
GS.TS Lưu Trần Tiêu cho rằng DSVH [49, tr.2] là toàn bộ những sản
phẩm vật chất (hay còn gọi là vật thể) và tinh thần (hay cịn gọi là phi vật thể),
có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, do con người sáng tạo và tiếp nhận trong
điều kiện lịch sử, văn hóa, kinh tế- xã hội của mình, được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác [49, tr.28]
DSVH của mỗi dân tộc kết đọng những chuẩn giá trị của quá trình

sáng tạo văn hóa, là những biểu hiện khách quan của truyền thống lịch sử và
đặc thù dân tộc. Bảo tồn các giá trị DSVH là một trong những hoạt động gắn


10
liền với việc bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tạo dựng sự phát
triển của tương lai mỗi dân tộc từ những mối liên hệ đặc thù của quá khứ và
hiện tại.
DSVH, theo nghĩa rộng, là tổng thể những mối liên hệ, quan hệ và
những kết quả của sản xuất vật chất và tinh thần của các thời kỳ lịch sử đã
qua. Đó là những giá trị văn hóa mà lồi người đã đạt được, được bảo tồn,
chuyển giao lại, được hấp thụ một cách có phê phán, được phát triển và ứng
dụng phù hợp với các nhiệm vụ lịch sử cụ thể của từng thời đại và phù hợp
với những tiêu chuẩn khách quan của tiến bộ xã hội [46, tr.82].
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Nghị quyết TW 05 (Khóa
VIII): “DSVH là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc
dân tộc, cơ sở sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa” [11, tr.25].
Luật DSVH Việt Nam (2001) quan niệm DSVH bao gồm DSVH vật
thể và phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy có thể hiểu DSVH là những giá trị văn hóa kết tinh, là cốt lõi
của bản sắc văn hóa, biểu hiện của truyền thống lịch sử và đặc thù dân tộc;
DSVH do con người sáng tạo trong lịch sử, được bảo tồn, hấp thụ, ứng dụng
phù hợp với thời đại và tiến bộ xã hội, do vậy là cơ sở sáng tạo các giá trị văn
hóa mới. DSVH tồn tại dưới dạng vật thể và phi vật thể.
DSVH được tích lũy trong lịch sử và được truyền thụ lại cho thế hệ sau
nên rất phong phú và có giá trị nhân văn cao. Các đặc trưng quan trọng nhất
của DSVH là nó chứa đựng vốn kinh nghiệm và tri thức sống của con người;
nó hội tụ các giá trị chân, thiện, mỹ và các giá trị này là tinh túy, cốt lõi tạo
nên biểu tượng văn hóa; tính lịch sử làm cho di sản văn hóa có bề dày, chiều

sâu của giá trị và phong phú về loại hình. DSVH có vai trị quan trọng gắn
kết truyền thống với hiện đại, nó là cái quá khứ ảnh hưởng, tác động, chi
phối đến tư duy và tình cảm của con người hiện đại. Do vậy mà DSVH còn


11
được xem là "mã di truyền xã hội” hay hệ thống giá trị văn hóa cốt lõi tạo
nên bản sắc văn hóa dân tộc.
1.1.2. Phân loại di sản văn hóa
Xuất phát từ những dạng thức tồn tại khác nhau của DSVH, nhằm mục
đích nhận thức, DSVH được chia thành các loại hình như DSVH tĩnh- động,
hữu hình- vơ hình; vật thể- phi vật thể.
Một trong những cách phân loại phổ biến hiện nay là phân loại DSVH
theo quan điểm của UNNESO. Theo quan điểm này, DSVH vật thể là những
sản phẩm văn hóa có thể "sờ thấy được”, nó là dạng thức tồn tại của văn hóa
dưới dạng vật thể có hình khối, chiều cao, chiều rộng, trọng lượng, đường nét,
màu sắc, kiểu dáng tồn tại trong không gian và thời gian xác định. DSVH vật
thể do con người tạo ra và để lại dấu ấn có tính lịch sử của mình ở đó, là văn
hóa được khách thể hóa và tồn tại như một thực thể khách quan ngoài bản
thân con người. Vì tồn tại dưới dạng vật thể nên DSVH vật thể chịu sự tác
động của thiên nhiên và con người, luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc
thay đổi nhiều so với nguyên gốc. Các di tích tháp Chăm là một ví dụ.
Theo Luật DSVH Việt Nam (2001), DSVH vật thể là sản phẩm vật chất
có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh
lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Di tích lịch sử - văn hóa là
cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc
cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Danh lam thắng
cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học. Di
vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Cổ

vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa,
khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên. Bảo vật quốc gia là hiện vật được
lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử,
văn hóa, khoa học.


12
Dạng thức tồn tại khác của di sản văn hóa là Di sản văn hóa phi vật
thể . Di sản loại này tồn khơng phải dưới hình thức vật chất mà tồn tại trong
trí nhớ, ký ức cộng đồng. Di sản loại này chỉ biểu hiện ra bằng và chúng ta chỉ
có thể nhận thức được thơng qua hành vi của con người. Chẳng hạn, những
giá trị nghệ thuật (tồn tại trong ký ức cộng đồng, trong trí nhớ nghệ nhân, văn
bản ngôn ngữ…) và những giá trị này chỉ có thể biểu hiện ra và được nhận
biết thơng quan các hình thức diễn xướng.
Theo Cơng ước về bảo vể di sản văn hóa phi vật thể (năm 2003) của
UNESCO, DSVH phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những cơng cụ, đồ vật, đồ
tạo tác và các khơng gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm
người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di
sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản
văn hóa phi vật thể được các cộng đồng và các nhóm người khơng ngừng tái
tạo để thích nghi với mơi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với
tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản
sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tơn trọng đối với sự đa dạng văn hóa
và tính sáng tạo của con người [53, tr.2]. Cũng theo Công ước này, các hình
thức thể hiện DSVH phi vật thể gồm có các truyền thống và biểu đạt truyền
khẩu, trong đó ngơn ngữ là phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; nghệ
thuật trình diễn; tập qn xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội; tri thức và tập quán
liên quan đến tự nhiên và vũ trụ; nghề thủ công truyền thống.
Cũng xuất phát từ tính phi vật thể, Luật Di sản văn hóa Việt Nam

(2001) cho rằng DSVH phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền
bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu
truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa
học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội,


13
bí quyết về nghề thủ cơng truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về
văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân
gian khác.
Đặc điểm của DSVH phi vật thể là có thể bị mai một, biến dạng hoặc
mất đi vĩnh viễn do yếu tố thời gian và ý thức của con người. Cùng với tính
bền vững vì được lưu giữ trong ký ức cộng đồng thì DSVH phi vật thể cũng
dễ bị biến đổi, tổn thương vì sự gia tăng hoặc làm mất đi các giá trị trong quá
trình lưu giữ, bảo tồn, truyền thụ. Mặt khác, sự biến dạng mà biểu hiện sinh
động nhất là tính dị bản của các DSVH phi vật thể là một đặc điểm như là hệ
quả của sự tác động đến di sản của con người trong thời gian và không gian.
Sự phân biệt giữa DSVH vật thể và phi vật thể chỉ là tương đối bởi vì
trong DSVH vật thể ln chứa đựng các giá trị văn hóa phi vật thể, cái mà
DSVH vật thể chứa đựng, biểu hiện ra, là lý do tồn tại của DSVH vật thể.
Trong khi đó, các DSVH phi vật thể không thể tồn tại lâu dài được nếu như
nó khơng có cơ sở vật chất, các phương tiện mang vác, chứa đựng, biểu hiện
chúng (ngôn ngữ, biểu tượng, hình thức kiến trúc, các hình thức diễn
xướng…) là văn hóa vật thể. Điểm đáng lưu ý là mục đích của hoạt động bảo
tồn và phát huy giá trị DSVH văn hóa vật thể chính là bảo tồn và phát huy các
giá trị của DSVH phi vật thể chứa đựng trong những di sản đó. Đây chính là
ngun lý dẫn đạo chủ yếu trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DSVH.
1.1.3. Vai trò của di sản văn hóa
DSVH tồn tại nhờ vào vai trị của nó đối với đời sống xã hội. Là một

yếu tố bộ phận của văn hóa, DSVH có vai trị quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
1.1.3.1. Di sản văn hóa là bộ phận quan trọng của văn hóa tạo nên
mơi trường văn hóa của các cộng đồng
Con người sống, tồn tại trong môi trường tự nhiên. Hoạt động của con
người, trong tương tác với tự nhiên, sáng tạo ra văn hóa và mơi trường văn


14
hóa. Con người sống trong mơi trường văn hóa đó và nếu thiếu môi trường
này con người không thể tồn tại được với tư cách là một con người. Theo A.I.
Ác- nơn- đốp:
Mơi trường văn hóa là một tổng thể ổn định những yếu tố vật thể và
nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng
tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu cầu tinh
thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Mơi trường văn hóa
khơng chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể, mà nó cịn có
những con người hiện diện văn hóa [14, tr.75].
Mơi trường văn hóa cịn được quan niệm là sự vận động của các quan
hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình.
DSVH tích tụ theo thời gian, với cốt lõi là DSVH vật thể và phi vật thể,
tạo nên môi trường nhân tạo, giúp con người tồn tại an tồn hơn trong mơi
trường tự nhiên. DSVH (được chọn lọc, bảo tồn, truyền thụ qua các thế hệ)
còn tạo cho con người có được năng lực mới (trong so sánh với động vật),
năng lực phát triển trên nền tảng văn hóa mà mình sáng tạo ra. Và như vậy,
DSVH có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ và nâng đỡ, phát triển sự
sống của con người [59, tr.10].
Văn hóa và mơi trường văn hóa ln vận động, biến đổi và trong q
trình vận động đó, các giá trị văn hóa được hình thành. Tuy nhiên, trong mơi

trường văn hóa tổng thể, các giá trị di sản văn hóa chiếm vị trí đáng kể so với
những giá trị văn hóa mới được sáng tạo ra trong hiện tại.
Từ vai trị quan trọng của mình, DSVH thức tỉnh ý thức bảo vệ mơi
trường (tự nhiên và văn hóa), trước hết là bảo vệ các DSVH. Các DSVH chỉ
tồn tại với đầy đủ ý nghĩa của nó khi gắn bó với mơi trường. Vì vậy bảo vệ
DSVH chính là bảo vệ môi trường sống. Nếu DSVH bị xâm phạm hay phá
hoại, mơi trường văn hóa sẽ tác động rất tiêu cực đến đời sống con người.


15
1.1.3.2. Di sản văn hóa là yếu tố cơ bản tạo nên truyền thống văn
hóa, yếu tố mang bản sắc văn hóa dân tộc, cơ sở lựa chọn giá trị văn hóa
mới, động lực tinh thần xã hội
DSVH là yếu tố cơ bản tạo nên truyền thống văn hóa. Truyền thống văn
hóa, theo Trần Ngọc Thêm, là những giá trị tương đối ổn định (những kinh
nghiệm tập thể), thể hiện dưới những khn mẫu xã hội được tích lũy và tái
tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hóa
dưới dạng ngơn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…[42,
tr.26]. Truyền thống văn hóa ln được kế tục thơng qua việc trao truyền, giáo
dục (các di sản văn hóa) và như vậy nó đảm bảo tính kế tục của lịch sử. Ở
đây, thơng qua DSVH, văn hóa biểu hiện mình như một thứ "gien” xã hội di
truyền phẩm chất con người lại cho thế hệ mai sau [42, tr.27]. Và nếu DSVH
bị từ chối, truyền thống văn hóa sẽ bị đứt gãy, lịch sử sẽ khơng được tiếp tục
một cách có quy luật và hậu quả là sẽ xảy ra biến động, khủng hoảng xã hội.
Bản sắc văn hóa, theo các nhà xã hội học, thường được hiểu là những
đặc điểm nổi bật và ổn định, tạo ra tính đồng nhất của con người ở cấp độ cá
nhân cũng như toàn thể xã hội. Bản sắc văn hóa biểu hiện ở tất cả các lĩnh vực
của đời sống như ý thức về cội nguồn, cách thức tư duy, sáng tạo khoa học và
nghệ thuật, phong cách sinh sống, phong tục tập quán, lễ nghi, tín ngưỡng…
mà một dân tộc, một cộng đồng nào đó chia sẻ với nhau. Cùng với sự độc

đáo, trong so sánh với cộng đồng, dân tộc khác, bản sắc văn hóa tạo ra cho
mỗi cộng đồng, dân tộc tính nhất quán, tính đồng nhất của bản thân mình.
Theo quan điểm của Đảng ta, bản sắc văn hóa là những giá trị bền
vững, tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Tinh hoa đó là lịng u nước, ý chí
tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, gắn kết giữa cá nhân
với gia đình, cộng đồng, làng xã, tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng


16
nghĩa tình, đạo lý, tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng
xư, giản dị trong lối sống [11, tr.22].
DSVH của một cộng đồng, dân tộc chứa đựng những giá trị văn hóa cốt
lõi của cộng đồng, dân tộc trong quá khứ. Các giá trị đó mang chứa bản sắc
văn hóa của cộng đồng, dân tộc đó và đóng vai trị làm cơ sở, tiêu chí định
hướng, lựa chọn trong quá trình hình thành các giá trị văn hóa mới. Trong q
trình này, các yếu tố mới, tiến bộ mà phù hợp truyền thống và bản sắc cộng
đồng, dân tộc sẽ được duy trì, phát triển, ngược lại sẽ bị loại bỏ. Chính q
trình chọn lọc này làm cho bản sắc văn hóa dân tộc ln được khẳng định,
trường tồn và "điều hành” sự vận hành của văn hóa trong q trình lịch sử.
Như vậy, ở đây, vai trò của DSVH thể hiện ở chỗ nếu DSVH bị chối bỏ (cho
dù với bất kỳ lý do chủ quan và khách quan nào) thì nền văn hóa của dân tộc
(hay cộng đồng, nhóm) sẽ tự đánh mất bản sắc văn hóa của mình và hậu quả
xảy ra là xuất hiện sự đứt gãy trong phát triển văn hóa, gây hậu quả khơn
lường đối với đời sống xã hội.
Cùng với vai trị bảo vệ, duy trì bản sắc văn hóa, như đã đề cập, DSVH
cịn đóng vai trị làm cơ sở cho sự sáng tạo các giá trị văn hóa mới. Văn hóa
phát triển theo quy luật kế thừa. Quy luật này vận hành trên cơ sở kế thừa cái
cũ, cái mới hình thành trên cơ sở cái cũ. DSVH là những giá trị văn hóa được
sáng tạo trong lịch sử, chứa đựng sự tích tụ, tạo nên "bề dày” văn hóa trong

quá khứ và điều này, qua các thời kỳ lịch sử, xác định nấc thang của sự phát
triển văn hóa các thời đại. Chính vì vậy, DSVH trở thành cơ sở để cái mới,
các giá trị văn hóa mới hình thành. Cái mới hình thành theo quy luật phủ định
biện chứng cái cũ, tạo nên sự phát triển, tiến bộ của văn hóa. Như vậy sẽ
khơng có sự phát triển văn hóa nếu như chối bỏ DSVH.
1.1.3.3. Di sản văn hóa là bộ phận hợp thành nền tảng tinh thần xã
hội, góp phần thúc đẩy và phát triển kinh tế - xã hội
Là bộ phận hợp thành nền tảng tinh thần xã hội, DSVH biểu hiện vai
trị của mình thơng qua việc ổn định xã hội và phát triển đất nước. Như đã


17
phân tích, DSVH đóng vai trị quan trọng trong việc tạo nên mơi trường văn
hóa của các cộng đồng, dân tộc. Mơi trường văn hóa có bản chất nhân sinh đó
cùng với mơi trường tự nhiên là điều kiện tồn tại khơng thể thiếu của con
người. Các DSVH có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, là kết tinh của trí tuệ,
tư tưởng, thẩm mỹ của các thời kỳ khác nhau, được lưu truyền qua các thế hệ,
tạo nên bề dày văn hóa, tác động đến con người hiện đại. DSVH một mặt đảm
bảo sự vận thông của truyền thống, mặt khác ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn
đề nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, nhân cách, thông tin, sự tích lũy, bảo quản
kinh nghiệm lịch sử. Đặc biệt, tính nhân bản của các giá trị DSVH, các giá trị
tinh thần truyền thống khi được nuôi dưỡng trong tâm hồn dân tộc sẽ góp
phần điều chỉnh hành vi con người, có tác dụng hạn chế những tiêu cực,
những mặt trái của cơ chế thị trường đang làm xói mịn nền tảng đạo đức, tinh
thần xã hội hiện nay. Chính vì vậy mà DSVH có tác động lớn và tích cực đến
q trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đả bản sắc dân tộc
trong quá trình tồn cầu hóa hiện nay.
Sự phát triển kinh tế- xã hội khơng tính đến văn hóa đã dẫn đến khủng
hoảng ở nhiều quốc gia. Hậu quả của sự phát triển đó là sự lên ngơi của chủ
nghĩa các nhân, vị kỷ, sự phân hóa giàu nghèo, sự bất ổn xã hội và trên hết là

con người không hạnh phúc. Báo Người quan sát cua Pháp đã viết: “Con
người của khủng hoảng này cảm thấy nền văn minh thế tục lâu đời mà họ
được giáo dục đã đầu độc họ đến chỗ bế tắc. Họ đã gặt hái được những gì mà
sự kiêu căng và hợm hĩnh của họ từng gieo ra khi họ tự cho mình đã tự giải
phóng ra khỏi Thượng đế. Họ đang chìm ngập trong suy đồi, ly hôn, nghiện
ngập và ma túy” [60, tr.189]. Khi hậu quả xảy ra con người mới nghĩ đến văn
hóa và truyền thống văn hóa và nhận ra rằng vai trị nền tảng tinh thần của
văn hóa (trong đó yếu tố di sản là chủ yếu) đối với sự phát triển kinh tế, xã
hội là hết sức to lớn. Nguyên Tổng giám đốc UNESCO F. May - ơ đã đề cao
vai trị đó khi viết: " Văn hóa nhất định sẽ ghi dấu ấn cua mình lên hoạt động


18
kinh tế và xác định những mặt mạnh yếu riêng của các quá trình sản xuất
trong một xã hội” [ 60, tr 184]
Tính dân tộc của văn hóa, biểu hiện đầy đủ nhất trong DSVH truyền
thống, có vai trị quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. Về vấn đề
này, sau khi rút ra bài học thành công từ Nhật Bản là bắt chước khoa học kỹ
thuật của châu Âu mà "vẫn giữ nền văn hóa phương Đơng” mà nhờ đó văn
hóa vật chất đã khơng thể làm cho tổ chức xã hội của họ đổ vỡ, học giả nổi
tiếng Đào Duy Anh, ngay từ năm 1938, đã nhận ra vai trị quan trọng của
DSVH. Ơng viết: "Ta muốn trở nên một nước cường thịnh vừa về vật chất,
vừa về tinh thần thì phải giữ văn hóa cũ làm thể, mà lấy văn hóa mới làm
dụng, nghĩa là phải khéo điều hịa tinh túy văn hóa đơng phương với những
điều sở trường về khoa học kỹ thuật của văn hóa tây phương” [1, tr.371].
Tinh thần điều hịa văn hóa, trong đó có DSVH, ngày nay đã được phát
triển lên thành quan điểm văn hóa có vai trị điều tiết và giữ vị trí trung tâm
của sự phát triển và có như vậy sự phát triển mới bền vững. Cũng về vấn đề
này, nguyên Tổng giám đốc UNESCO F. May- ơ viết: "Hễ nước nào tự đặt
cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất

định sẽ xảy mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế và văn hóa và tiềm năng
sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu đi rất nhiều” [60, tr.187- 188]. Điều này đã
được thực tiễn Việt Nam chứng minh: cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nơng
nghiệp, cải tạo cơng thương nghiệp trong cả nước không đặt trên nền tảng tinh
thần truyền thống văn hóa dân tộc nên đã gây hậu quả như chúng ta đã biết và
tổng kết.
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Quá trình này diễn ra đồng thời với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn hóa và DSVH đóng vai trị ngày càng quan
trọng định hướng sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và tăng trưởng kinh
tế nói riêng. Nếu chúng ta xa rời các giá trị văn hóa truyền thống, có nghĩa


19
chúng ta sẽ đánh mất bản sắc văn hóa, đánh mất bản thân (vong bản) và trở
thành cái bóng của dân tộc khác. Nếu chúng ta đánh giá đúng và phát huy tốt
các giá trị văn hóa truyền thống thì DSVH sẽ đóng vai trị điều tiết xã hội một
cách tích cực (đảm bảo sự bền vững của nền móng xã hội), hạn chế tiêu cực,
những mặt trái của cơ chế thị trường cũng như sự phát triển trệt hướng của
kinh tế, khoa học, kỹ thuật hiện đại.
DSVH không những chỉ có ý nghĩa định hướng phát triển kinh tế - xã
hội mà còn là một loại tài sản đặc biệt đóng góp vào sự gia tăng giá trị kinh tế
đất nước. Việt Nam là một quốc gia thống nhất, có 54 dân tộc anh em và do
vậy có một nguồn tài ngun văn hóa vơ cùng phong phú: các biểu tượng văn
hóa dân tộc như trống đồng Ngọc Lũ, chiếc áo dài Việt Nam, nền văn minh
lúa nước…; các danh nhân văn hóa tiêu biểu của dân tộc như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Hồ Chí Minh…; các DSVH vật thể tiêu biểu của đất nước như
Vịnh Hạ Long, khu di tích tháp Chăm Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, cố đơ Huế,
Hồng thành Thăng Long…được UNESCO cơng nhận là DSVH thế giới; các
DSVH phi vật thể tiêu biểu như Nhã nhạc cung đình Huế, Khơng gian văn

hóa cồng chiêng Tây Nguyên, quan họ Bắc Ninh…được công nhận là DSVH
phi vật thể đại diện cho nhân loại. Các DSVH vật thể và phi vật thể tiêu biểu
đó cùng với nguồn DSVH vô cùng phong phú ở các địa phương đã và đang
trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, những điểm đến của du khách trong và
ngoài nước, đem lại nguồn lợi đáng kể cho người dân và đóng góp đáng kể
vào ngân sách quốc gia, phát triển các ngành nghề, dịch vụ du lịch, các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ và sản phẩm cơng nghiệp văn hóa khác…
1.1.3.4. Di sản văn hóa thúc đẩy giao lưu, tiếp biến văn hóa được vận
thơng, làm cho văn hóa dân tộc và nhân loại phát triển đa dạng
Giao lưu, tiếp biến văn hóa là một hiện tượng mang tính quy luật trong
q trình phát triển của các nền văn hóa và là quy luật sống cịn của văn hóa.
Văn hóa có tính bền vững và ổn định tương đối nhưng, vì yêu cầu phát triển


20
và tiến bộ, nó cũng ln ln địi hỏi có sự giao lưu, tiếp biến văn hóa thường
xun. Q trình giao lưu, tiếp biến văn hóa địi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc
phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Việc
xử lý tốt mối quan hệ này đòi hỏi mỗi dân tộc, tộc người chủ thể phải có bản
lĩnh văn hóa nhất định. Bản lĩnh này cần được và biểu hiện ra trên cơ sở bản
sắc và truyền thống văn hóa dân tộc. Như vậy, muốn tiếp biến, sáng tạo văn
hóa mà giữ được bản sắc văn hóa riêng, mỗi quốc gia, dân tộc phải chủ động
thực hiện q trình đó trên cơ sở DSVH của quốc gia, dân tộc mình. Sở dĩ
như vậy vì DSVH (chứa đựng bản sắc văn hóa) đóng vai trị như một hệ tiêu
chí lựa chọn (bộ lọc) các giá trị văn hóa ngoại sinh, điều chỉnh q trình tiếp
xúc văn hóa để tạo thành các giá trị văn hóa mới, vừa bảo tồn được bản sắc,
vừa đảm bảo tính chất tiến bộ. Như vậy DSVH đóng vai trị quan trọng trong
phát triển văn hóa dân tộc, đồng thời thúc đẩy quy luật giao lưu, tiếp biến văn
hóa được vận thơng.
Trong giao lưu văn hóa giữa các dân tộc Việt Nam và giữa Việt Nam

với thế giới, DSVH là cơ sở để khẳng định niềm tự hào dân tộc, bản lĩnh văn
hóa trong giao lưu và là nguồn vốn để quảng bá, giới thiệu những thành tựu
văn hóa ra quốc tế. Trong giao lưu văn hóa, hệ quả tất yếu là bản sắc văn hóa
của các dân tộc được phát huy, văn hóa phát triển, giàu có thêm; văn hóa dân
tộc và nhân loại phát triển vừa đa dạng, vừa thống nhất.
Như vậy, việc xác định vai trị cua DSVH đối với q trình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước sẽ giúp chúng ta có cơ sở hoạch định chính sách
và có những giải pháp triển khai thích hợp để bảo tồn và phát huy giá trị
DSVH đúng với vai trị vốn có của nó. Trong q trình xây dựng đất nước
hiện nay, là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa, DSVH vừa biểu
hiện chức năng của mình trong tất cả các chức năng của văn hóa, mà chức
năng quan trọng nhất là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu và động lực của
sự phát triển, vừa được xác định là nguồn tài sản, nguồn lực để phát triển kinh


21
tế. Do vậy, trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội
chúng ta cần phải xem trọng nhiệm vụ bảo tồn các DSVH. Mặt khác, khi khai
thác các giá trị kinh tế từ DSVH phải chú ý cùng lúc đến hai chức năng kinh
tế và văn hóa của DSVH, vận dụng có ý thức và hiệu quả hai chức năng này
vì mục tiêu phát triển bền vững. Nếu chúng ta chỉ chú trọng đến lợi ích kinh
tế mà khơng quan tâm đến bảo tồn, tơn tạo, phát huy giá trị DSVH, hậu quả
có thể dẫn đến sự biến dạng và phá hủy di sản vô giá của đất nước, ảnh hưởng
tiêu cức đến quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
1.2. QUAN NIỆM VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN
VĂN HÓA

1.2.1. Quan niệm về bảo tồn giá trị di sản văn hóa
Bảo tồn, theo Từ điển Tiếng Việt (1994) của Văn Tân (chủ biên), có
nghĩa là giữ lại, có thể hiểu là bảo vệ, đảm bảo cho một cái gì đó cịn lại,

khơng mất đi.
Liên quan đến khái niệm bảo tồn, trong nghiên cứu chúng ta thường
gặp các khái niệm bảo quản, bảo vệ. Bảo quản thường được hiểu là sử dụng
những biện pháp kỹ thuật để gìn giữ đối tượng còn nguyên vẹn, tồn tại lâu dài
trước những tác động bên ngoài. Bảo vệ thường bao hàm nghĩa áp dụng các
biện pháp có tính chất pháp lý để cho một đối tượng nào đó khơng bị xâm hại
mà biến dạng. Bảo vệ DSVH, theo quan điểm của Unesco tại Cơng ước bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể 2003 có nội hàm rất rộng khi cho rằng, Bảo vệ là
các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật
thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát
huy, củng cố, chuyển giao, đặc biệt là thơng qua hình thức giáo dục chính
thức hoặc phi chính thức cũng như việc phục hồi các phương diện khác nhau
của loại hình di sản này.
Bảo tồn là hoạt động giữ gìn một cách an tồn khỏi sự tổn hại, sự
xuống cấp hoặc phá hoại. Hay nói cách khác, bảo tồn có nghĩa là bảo quản kết


22
cấu một địa điểm, một di sản, đảm bảo sự nguyên trạng của nó, kiềm hãm sự
xuống cấp, biến dạng, thay đổi của kết cấu, di sản đó. Theo nghĩa này, bảo tồn
DSVH có thể hiểu là những nỗ lực có mục đích, xuất phát từ sự nghiên cứu,
thấu hiểu lịch sử hình thành, những giá trị, ý nghĩa văn hóa của DSVH nhằm
đề ra những giải pháp bảo đảm sự an toàn, phát triển lâu dài về vật chất cho
các DSVH. Việc bảo tồn DSVH phải hội tụ đủ các điều kiện đảm bảo cho việc
giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại để khai thác ý nghĩa văn hóa
văn hóa của DSVH phục vụ cho sự tiến bộ xã hội.
Bảo tồn DSVH vật thể có nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm các hoạt
động như:
Bảo tồn nguyên trạng;
Trùng tu;

Gia cố;
Tái định vị;
Phục hồi;
Tái tạo, làm lại;
Quy hoạch bảo tồn.
Bảo tồn DSVH phi vật thể thông thường bao gồm các hoạt động kiểm kê
(lập danh mục thống kê, xác định giá trị, sức sống của di sản, đề xuất khả năng
bảo vệ, duy trì); tư liệu hóa (chụp ảnh, quay phim, ghi âm, tư liệu hóa giúp cho
việc bảo tồn cái nguyên trạng, hiện dạng của di sản; chuyển giao, truyền dạy
(thừa nhận tài năng, tôn vinh, hỗ trợ, tạo điều kiện cho nghệ nhân trao truyền và
phát huy khả năng của mình); giáo dục nhận thức cho thế hệ trẻ; huy động sự
tham gia của cộng đồng, chủ thể của mọi loại hình DSVH phi vật thể vào việc
sáng tạo, duy trì, chuyển giao và quản lý DSVH phi vật thể.
Hoạt động bảo tồn DSVH xuất hiện trong lịch sử khi con người ý thức
được giá trị, ý nghĩa văn hóa của DSVH đối với đời sống xã hội và các nguy
cơ tác động tiêu cực do thiên nhiên, do con người gây ra đối với DSVH. Từ


23
đó, con người khơng ngừng tìm kiếm các biện pháp bảo tồn DSVH. Tuy
nhiên, bảo tồn trên cơ sở khoa học được hình thành và phát triển từ Pháp vào
giữa thế kỷ XIX [62, tr.20]. Bảo tồn DSVH trở thành mối quan tâm của xã hội
và giới nghiên cứu khoa học trong vài thập niên gần đây. Hiện nay ở nhiều
quốc gia, bảo tồn DSVH trở thành một ngành học có tính chun mơn cao và
các quy ước chung về bảo tồn DSVH của cộng đồng quốc tế được các quốc
gia tôn trọng thực hiện.
Các nguyên tắc bảo tồn cũng được giới nghiên cứu trong nước và quốc
tế quan tâm. Ở góc độ quốc tế, năm 1964, tổ chức ICOMOS (Hội đồng Quốc
tế các di tích và di chỉ) cơng bố Hiến chương Venice về bảo tồn và trùng tu di
tích, di chỉ. Hiến chương này nhấn mạnh việc bảo tồn địi hỏi phải giữ gìn tính

ngun gốc, khơng được phép thêm vào hay bớt đi mà phải bảo tồn nguyên
vẹn khi viết: "Khi hãy còn là một khung cảnh truyền thống thì khung cảnh đó
phải được bảo tồn ngun vẹn. Khơng một cơng trình xây dựng gì mới, một
sự phá hoại hoặc sửa sang nào mà làm biến đổi mối tương quan giữa khối
hình và màu sắc được phép tiến hành”.
Năm 1972, Công ước về việc bảo tồn các DSVH và thiên nhiên thế giới
do UNESCO đề xướng và khởi thảo chính thức có hiệu lực với tinh thần tôn
trọng Hiến chương Venice.
Năm 1981, Hiến chương Burra được ICOMOS Australia, là Uỷ ban
quốc gia Australia thuộc Hội đồng quốc tế các di tích và di chỉ (ICOMOS),
thơng qua ngày 19-8-1979 tại Burra (Nam Australia). Hiến chương này được
xây dựng trên cơ sở Hiến chương quốc tế về bảo vệ và trùng tu di tích và di
chỉ Hiến chương Venice và Quyết nghị của Đại hội đồng ICOMOS lần thứ 5
họp ở Matxcơva năm 1978. Hiến chương này chủ trương xử lý thận trọng sự
thay đổi, làm mọi việc cần thiết để bảo tồn di sản, tuy nhiên đảm bảo càng ít
thay đổi càng tốt để di sản giữ được tối đa giá trị của nó.


24
Tiếp đến, năm 1994, Văn kiện Nara về tính nguyên gốc đã nhấn mạnh
tính đa dạng văn hóa và đa dạng di sản khi viết:
“Tùy theo tính chất của của DSVH, bối cảnh văn hóa của di sản đó
và sự biến chuyển của nó trong thời gian và khơng gian mà phán xét
về tính ngun gốc có thể gắn với một loạt các nguồn thông tin khác
nhau. Các dạng thông tin có thể bao gồm hình thức và thiết kế, vật
liệu và chất liệu, cách sử dụng và chức năng, truyền thơng và kỹ
thuật, vị trí và nơi dựng lập, tinh thần và cách thực hiện, những yếu
tố bên trong và bên ngoài di sản. Việc sử dụng những nguồn thơng
tin đó sẽ cho phép dựng lên được các chiều kích nghệ thuật, lịch sử,
xã hội, khoa học của DSVH được khảo sát” [62, tr.21].

Có thể nói, Văn kiện này chứa đựng quan niệm rộng hơn, linh hoạt hơn
là căn cứ vào tính chất, hồn cảnh cụ thể mà đánh giá, nhận định về tính
nguyên gốc của DSVH. Tuy nhiên Văn kiện vẫn khẳng định vị trí khơng thể
thay đổi của Hiến chương Venice về tính nguyên gốc của DSVH.
Năm 2003, UNESCO ban hành Công ước bảo vệ DSVH phi vật thể,
được sự đồng thuận của trên 120 quốc gia thành viên mà Việt Nam là một
trong số những thành viên đó. Với mục tiêu tăng cường nhận thức về tầm
quan trọng và thống nhất hoạt động bảo vệ DSVH phi vật thể, Công ước yêu
cầu các nước cam kết có những biện pháp bảo đảm việc bảo vệ và duy trì sự
tồn tại của DSVH phi vật thể, cùng với sự phối hợp chặt chẽ ở cấp vùng và
cấp quốc tế cho mục tiêu này. Có thể thấy, các biện pháp bảo vệ do Công ước
đề ra, nhất là biện pháp kiểm kê (xác định giá trị di sản), tư liệu hóa cho thấy
quan điểm tơn trọng yếu tố gốc của loại hình di sản này.
Ở Việt Nam, Luật DSVH (sửa đổi) năm 2009 quy định tại Điều 34,
Khoản 1, Điểm a là việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải đảm bảo u
cầu giữ gìn tối đa các yếu tố gốc.


25
Như vậy, nguyên tắc quan trọng của bảo tồn DSVH là bảo vệ và giữ gìn
sự tồn tại của DSVH theo dạng thức vốn có. Bảo tồn đồng nghĩa với khơng để
DSVH mai một, bị thay đổi, biến hóa hay biến thái. Xuất phát từ sự duy trì ý
nghĩa văn hóa của DSVH mà trong hoạt động bảo tồn khơng chấp nhận việc
cải biến, nâng cao hay phát triển. DSVH cần được xem là tinh hoa văn hóa,
do vậy việc khẳng định giá trị đích thực dưới những thể trạng và hình thức
khác nhau cũng như khả năng tồn tại theo thời gian của nó là điều tối cần
thiết.
Thời gian gần đây, các ý kiến về bảo tồn DSVH được đề cập khá nhiều.
Có ý kiến cho rằng cần bảo vệ tính nguyên gốc cua DSVH, số khác lại cho
rằng cần bảo tồn theo hướng phát triển. Cho dù có nhiều ý kiến khác nhau

nhưng có lẽ quan điểm lựa chọn dựa trên tiêu chí vì lợi ích phát triển cộng
đồng hiện nay được nhiều người đồng thuận. Hoạt động bảo tồn theo xu
hướng này khơng có nghĩa là cố gắng giữ lại được càng nhiều càng tốt những
gì thuộc về q khứ (vì có những giá trị q khứ, có tính lịch sử, khơng cịn
thích hợp với thời đại), hoặc giữ nguyên tính nguyên gốc một cách cứng nhắc,
làm cho di sản đóng băng, về lâu dài dẫn đến tình trạng xuống cấp, hủy hoại
chúng. Ngược lại, bảo tồn DSVH không đồng nghĩa với việc tự ý tu sửa theo
ý muốn chủ quan cua của một cá nhân hay tập thể nào đó, dẫn đến tình trạng
tự hủy hoại, xuống cấp, không thu hút sự quan tâm của cộng đồng hoặc làm
mất di bản sắc riêng của mỗi di sản. Ở đây, bảo tồn hợp lý là việc lựa chọn,
bảo vệ, giữ gìn những giá trị từ quá khứ đến hiện tại, cái được bảo tồn tất yếu
phải phù hợp với thời đại, chứa đựng những khả năng có thể được làm giàu
thêm về giá trị và có thể tiếp tục được phát huy, phát triển vì lợi ích của cộng
đồng, xã hội, vì sự phát triển của văn hóa. Ngồi ra, hoạt động bảo tồn DSVH
phải tn thủ những ngun tắc nghiêm ngặt mang tính thơng lệ được cộng
đồng quốc tế cam kết thực hiện.


×