Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề kim bồng, tỉnh quảng nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.07 MB, 131 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nơng thơn Việt Nam gắn liền với văn hóa làng và các giá trị văn hóa
làng nghề. Các làng nghề truyền thống ra đời và phát triển cùng với tiến trình
lịch sử của dân tộc. Làng nghề vừa đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt của người
dân các địa phương vừa phản ánh trí tuệ, tài năng, sự khéo léo và óc thẩm mỹ
của người thợ qua các thế hệ, kiến tạo diện mạo văn hóa của mỗi vùng đất,
đồng thời góp phần làm nên bản sắc văn hóa đa dạng, phong phú của dân tộc.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa làng nghề giúp giữ gìn và phát triển
ngành nghề ở nơng thơn, tạo ra nhiều hàng hóa cho tiêu dùng và xuất khẩu,
nâng cao đời sống nông dân. Đó cũng là chiếc cầu nối để đưa nơng thơn từng
bước tiến lên CNH-HĐH đồng thời góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như đường lối của Đảng đề ra.
Ở vùng đất Quảng Nam, cùng với quá trình mở cõi về phương Nam của
cư dân Đại Việt, nhiều làng nghề đã từng bước hình thành và phát triển trên
cơ sở kế thừa nghề truyền thống được các đoàn lưu dân từ đồng bằng Bắc Bộ,
Thanh - Nghệ - Tĩnh mang theo vào vùng đất mới. Hoạt động của làng nghề
truyền thống đáp ứng nhu cầu sinh sống của nhân dân và góp phần tạo nên
các giá trị văn hóa của xứ Quảng. Trong đó nhiều làng nghề khá nổi tiếng,
được “dân biết mặt, nước biết tên” như làng trống Lâm Yên, đúc Phước
Kiều, mộc Kim Bồng. Riêng làng mộc Kim Bồng đã có đóng góp to lớn trong
việc tạo dựng các giá trị văn hóa đặc sắc ở xứ Quảng và của đất nước mà tiêu
biểu là Đô thị cổ Hội An và kinh thành Huế - Di sản văn hóa thế giới.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của sản xuất công nghiệp, nhất là
trong nền kinh tế thị trường ln mang tính cạnh tranh dữ dội, nhiều làng
nghề truyền thống ở Quảng Nam đã tàn lụi hoặc thu hẹp dần quy mơ sản xuất.
Theo đó, các giá trị văn hóa làng nghề cũng dần mai một. Làng mộc Kim


2


Bồng từ sau năm 1986 nhìn chung phát triển tốt, mở rộng được thị trường
trong nước và quốc tế. Dẫu vậy, làng nghề cũng đối mặt với các khó khăn về
đào tạo nguồn nhân lực, cải tiến, đổi mới mẫu mã sản phẩm, quảng bá thương
hiệu, xúc tiến thương mại... để thích ứng với thị hiếu mới trong bối cảnh giao
lưu và hội nhập quốc tế. Khắc phục được những hạn chế này sẽ đưa làng nghề
tiến lên một giai đoạn phát triển mới. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
làng nghề Kim Bồng cũng có tác động trực đến việc trùng tu, tơn tạo các cơng
trình kiến trúc của Đô thị cổ Hội An và nhiều di tích lịch sử, văn hóa ở Quảng
Nam hiện nay và trong tương lai.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa làng nghề Kim Bồng, tỉnh Quảng Nam hiện nay” làm luận văn thạc
sĩ văn hóa học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về phương diện lý luận tổng quát, giá trị văn hóa làng nghề cũng như
bảo tồn phát huy giá trị văn hóa ấy đã được đề cập trong nhiều cơng trình
nghiên cứu. Các tác phẩm như:“Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong
quá trình cơng nghiệp hóa” của T.S Dương Bá Phượng, “Tuổi trẻ với nghề
truyền thống Việt Nam” do PGS. TS Nguyễn Viết Sự làm chủ biên, tác phẩm
“Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam” của thạc sĩ Bùi Văn Vượng... đã
đề cập đến lịch sử hình thành các làng nghề ở Việt Nam, thực trạng phát triển,
tiềm năng và hạn chế, xu hướng vận động của làng nghề; đề xuất một số
phương hướng và giải pháp về cơ chế chính sách bảo tồn, phát triển làng nghề
trong quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
Về nghiên cứu giá trị văn hóa làng nghề, vấn đề bảo tồn phát triển làng
nghề ở một số vùng miền, địa phương có thể nêu một số cơng trình sau đây:
“Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội” của GS Trần Quốc Vượng
và PGS.TS Đỗ Thị Hảo, “Xóm nghề và nghề thủ cơng truyền thống Nam Bộ”
của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam,“Văn hóa làng nghề đúc Phước Kiều”



3
của PGS.TS Lê Hồng Lý, “Văn hóa làng nghề bánh tẻ Phú Nhí” của PGS.TS
Đỗ Thị Hảo.
Luận án tiến sĩ có những cơng trình đáng chú ý như:“Phát triển làng
nghề truyền thống trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở vùng ven
thủ đơ Hà Nội” (2000) của Mai Thế Hởn,“Phát triển làng nghề truyền thống
ở nông thôn Việt Nam trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” (2003)
của Trần Minh Yên, “Định hướng và giải pháp kinh tế chủ yếu nhằm phát
triển các ngành tiểu thủ công nghiệp trong nông thôn tỉnh Hà Tây”(2005) của
Lê Mạnh Hùng,“Phát triển làng nghề truyền thống trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp - nơng thơn ở Hà Tây) (2008) của Đỗ
Quang Dũng.
Về luận văn thạc sĩ, có các cơng trình như “Khơi phục và phát triển làng
nghề ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ - thực trạng và giải pháp”(2002) thuộc
chuyên ngành Quản lý kinh tế của Vũ Thị Hà, “Giải pháp phát triển làng
nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh An Giang” của Nguyễn Viết Thắng, luận
văn thạc sĩ kinh tế chính trị:“Làng nghề truyền thống phục vụ du lịch ở Thừa
Thiên - Huế”(2009) của Nguyễn Lê Thu Hiền, “Nghề truyền thống trên địa
bàn Hà Nội trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” (2006) của Nguyễn
Trọng Tuấn,“Giải pháp xây dựng làng nghề trên địa bàn Bắc Ninh theo
hướng bền vững” (2007) của Nguyễn Hữu Loan; luận văn chuyên ngành văn
hóa học của Vũ Thị Minh Hương: “Văn hóa làng nghề Kiêu Kỵ, xã Kiêu Kỵ,
Gia Lâm, Hà Nội trong bối cảnh CNH - HĐH và đơ thị hóa”. Ngồi ra, các
tạp chí chun ngành kinh tế, văn hóa, lịch sử ở Trung ương và địa phương
cũng đã đăng nhiều bài viết của các nhà quản lý, nhà khoa học và nhà báo
xung quanh lĩnh vực làng nghề.
Về phương diện cụ thể của đề tài, Kim Bồng là làng nghề lâu đời và nổi
tiếng ở Quảng Nam nên đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu. Cơng trình
“Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng” do các tác giả Võ Văn Hòe,



4
Hoàng Hương Việt, Bùi Văn Tiếng (chủ biên - 2012), trong khi giới thiệu các
làng nghề trong tỉnh đã đề cập đến làng mộc Kim Bồng. Nhóm nghiên cứu
thuộc Trung tâm Quản lý Bảo tồn di sản văn hóa Hội An cũng đã cho ra đời
cơng trình: “Nghề truyền thống ở Hội An”, “Lễ lệ, lễ hội Hội An”. Ở những
cơng trình trên, nhóm tác giả trong khi đề cập đến các nghề và làng nghề ở
Hội An, đã phân tích một số khía cạnh về giá trị kiến trúc, điêu khắc, tri thức
bản địa, phong tục tập quán, tín ngưỡng của làng nghề Kim Bồng. Tác phẩm
“Cư dân Faifo Hội An trong lịch sử” của thạc sĩ sử học Nguyễn Chí Trung,
“Nhà gỗ Hội An, những giá trị và giải pháp bảo tồn” của thạc sĩ văn hóa học
Trần Ánh ít nhiều đều đề cập đến làng nghề Kim Bồng. Tác phẩm Nghề cổ
nước Việt của Vũ Từ Trang cũng đề cập đến một số điểm đặc sắc của làng
mộc này.
Như vậy, nội hàm của nội dung nghiên cứu đã được nhiều nhà khoa học
quan tâm, phân tích và lý giải dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Đó chính là
nền tảng quan trọng để tác giả kế thừa và phát triển nhằm làm sáng tỏ vấn đề
văn hóa làng nghề nói chung, làng nghề Kim Bồng nói riêng.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu chun
biệt, tồn diện nào về làng nghề Kim Bồng trên tất cả các phương diện giá trị
văn hóa làng nghề, làm rõ vai trị của làng mộc Kim Bồng trong mối tương
quan với kiến trúc của Đô thị cổ Hội An, đặc biệt là quá trình phục hưng của
làng nghề từ sau năm 1986 cho đến nay cũng như đề xuất các giải pháp để
bảo tồn và phát huy các giá trị của làng nghề trong tiến trình CNH-HĐH nơng
nghiệp, nơng thơn. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn vẫn cịn mới mẻ và có ý
nghĩa thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nhận diện các giá trị văn hóa làng nghề Kim Bồng; làm sáng
rõ vai trị của làng nghề trong việc hình thành, bồi đắp nên các giá trị văn hóa



5
của xứ Quảng và một số địa phương trong cả nước, sự lan tỏa các giá trị ấy
trên phạm vi quốc tế. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, các yếu tố tác động, xu
hướng vận động, luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp để bảo tồn
phát huy các giá trị văn hóa của làng nghề nổi tiếng này trong bối cảnh cơng
nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thôn và giao lưu hội nhập quốc tế hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Xác định rõ khái niệm làng nghề, giá trị văn hóa làng nghề làm cơ sở
lý luận chung cho toàn bộ luận văn.
- Khảo sát toàn diện làng nghề truyền thống Kim Bồng, nhận diện rõ
những giá trị văn hóa của làng nghề.
- Nghiên cứu quá trình phục hưng của làng nghề Kim Bồng và sự tác
động của các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến quá trình ấy kể
từ năm 1986 đến nay.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp để bảo tồn và phát huy các giá trị
của làng nghề trong tiến trình CNH-HĐH nơng nghiệp, nơng thơn.
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Kim Bồng là làng nghề truyền thống lâu đời với các nghề như dệt
chiếu, nề (nghề vôi vữa); nghề mộc gồm cả mộc dân dụng, mộc thủ công mỹ
nghệ, mộc kiến trúc, đóng sửa tàu thuyền. Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu
các giá trị văn hóa làng nghề mộc. Phạm vi nghiên cứu thành tựu bảo tồn và
phát huy giá trị làng nghề được xác định từ năm 1986 cho đến nay.
5. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về giá trị văn hóa làng nghề.
- Phân tích cơ sở lý luận chung về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng
nghề trong tiến trình CNH-HĐH nơng nghiệp, nơng thơn.
- Làm rõ vai trị của làng nghề Kim Bồng trong việc hình thành nên các
giá trị văn hóa của xứ Quảng và của đất nước; thành tựu bảo tồn và phát huy

các giá trị văn hóa làng nghề Kim Bồng trong thời gian qua.


6
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp có tính khả
thi để góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa làng nghề Kim Bồng.
Thành quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho cơng tác nghiên cứu văn hóa xứ Quảng cũng như giảng dạy tại các trường
Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp tại địa phương.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên nền tảng triết học Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán
triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về CNHHĐH, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chủ yếu sau
đây: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương điều tra, điền
dã, phân tích khảo cứu, phương pháp diễn giải và quy nạp, phương pháp so
sánh, đối chiếu...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ VÀ KHÁI LƯỢC VỀ LÀNG NGHỀ
KIM BỒNG, THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ VÀ
BẢO TỒN PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

1.1.1. Làng nghề truyền thống

1.1.1.1. Quan niệm về làng nghề
Từ xa xưa, khi con người bắt đầu tổ chức thành đời sống xã hội thì nhu
cầu sản xuất các vật dụng để phục vụ cuộc sống của mình cũng dần xuất hiện.
Nghề thủ cơng từng bước ra đời nhưng để tiến tới hình thành được làng nghề
thì phải có q trình lâu dài hơn, ở một trình độ phát triển cao hơn. Từ sự tinh
thơng nghề nghiệp của một người, một nhóm người tiến đến sự liên kết trong
nghề nghiệp để tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Làng nghề ở Việt Nam ra đời trên cơ sở của đơn vị xã hội cơ bản là
làng Việt Nam, tức là một cộng đồng người thường là có cùng quan hệ huyết
thống, định cư trên một địa bàn nhất định và có tính tự quản cao. Thực tế cho
thấy: “Làng nghề ở nước ta gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông
dân làm nghề thủ công để giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu
theo đặc trưng nông nghiệp là mùa vụ. Mặt khác, từ sản phẩm, chúng ta cũng
nhận thấy gốc tích nơng nghiệp như ngun vật liệu, cơng cụ chế tác, giá trị
sử dụng và đặc biệt là nó phản ánh được tính chun dụng và sinh hoạt cộng
đồng của cư dân nông nghiệp trên các sản phẩm đó. Nhìn vào những nghề thủ
cơng nổi tiếng của nước ta như nghề gốm, nghề đan lát, nghề chạm khắc gỗ,
nghề gò đúc đồng, nghề làm giấy, nghề làm tranh, nghề kim hồn hay làm
nón, dệt vải... chúng ta thấy mỗi nghề gắn liền với một cộng đồng cư dân
được cư trú ổn định trong quy mô làng xã” [24]. Trên nền tảng của làng nông


8
nghiệp, dần dần một bộ phận dân cư tách ra để làm các nghề thủ cơng.
Thường thì họ vừa làm nghề thủ công nhưng vẫn gắn với sản xuất nông
nghiệp; rất ít làng nghề thốt ly hồn tồn khỏi ruộng nương. Trải qua một
thời gian dài, làng nghề phát triển có lúc thịnh lúc suy; có nhiều nghề qua hơn
một nghìn năm trăm năm vẫn tồn tại như làng dệt Vạn Phúc, có nhiều làng
nghề mới ra đời, nhưng cũng có những làng nghề từng rất sầm uất nhưng rồi
khơng thích nghi được với sự biến đổi của cuộc sống nên dần đi vào suy tàn

hoặc mất hẳn.
Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển; làng nghề là một bức
tranh muôn màu trong hoạt động lao động sáng tạo của nhân dân ở các vùng,
miền văn hóa khác nhau trong cả nước. Nhận định này được thể hiện rõ nét
thơng qua cấu trúc hình thức của làng nghề sau:
Làng một nghề: là làng chỉ làm một nghề thủ cơng duy nhất, có thể kết
hợp với làm nơng.
Làng nhiều nghề: là làng mà ngồi làm ruộng cịn làm nhiều nghề thủ cơng.
Làng nghề truyền thống: là làng nghề có lịch sử tồn tại hàng trăm năm.
Làng nghề mới: là những làng mới ra đời trong vài chục năm trở lại
đây, đặc biệt là sau khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường; trong đó
khơng ít làng chun làm dịch vụ.
Về định lượng làng phải có 35 - 40% số hộ trở lên chuyên làm nghề và
có thể sinh sống bằng chính nguồn thu nhập đem lại từ nghề đó.
Sự ra đời các nghề truyền thống là quy luật tất yếu của quá trình phấn
đấu cho sự sinh tồn, phát triển của một cộng đồng cư dân, của một tộc người.
Trong quá trình phát triển, một số nghề ngày một điêu luyện, sản phẩm chẳng
những thỏa mãn nhu cầu của cư dân một khu vực hẹp dưới dạng tự cung tự
cấp mà dần dần trở thành hàng hóa tiêu thụ rộng, thu hút đông người tham gia
hành nghề, từ đó xuất hiện những làng nghề truyền thống. Lý giải rõ hơn về
vấn đề này, GS Trần Quốc Vượng đã cho rằng: “Gọi là làng nghề… là các


9
làng ấy, tuy vẫn có trồng trọt theo lối tiểu nơng và chăn ni nhỏ (lợn, gà …)
cũng có một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ…) song đã
nổi trội một nghề cổ truyền tinh xảo, với một tầng lớp thợ thủ cơng chun
nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ơng trùm, ơng phó cả…cũng có một
số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình cơng nghệ nhất định “sinh ư
nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” sống chủ yếu bằng nghề đó

và sản xuất các mặt hàng thủ cơng, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ,
đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với thị trường…là vùng
rộng xung quanh và với thị trường đô thị, thủ đô và tiến tới mở rộng ra cả
nước rồi có thể xuất khẩu ra nước ngồi. Những làng nghề ấy ít nhiều đã nổi
danh từ lâu (có q khứ hàng trăm, hàng nghìn năm), “dân biết măt, nước biết
tên”, tên làng đã đi vào lịch sử, vào ca dao, tục ngữ,... trở thành di sản văn hóa
dân gian” [47, tr.21].
Dưới những góc độ tiếp cận sát hơn mang tính chất nghề nghiệp, nhà
nghiên cứu Bùi Văn Vượng chỉ rõ: “Làng nghề là làng cổ truyền làm nghề thủ
công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều làm nghề thủ công. Người
thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề nông (nơng
đân). Nhưng u cầu chun mơn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên
sản xuất hàng truyền thống ngay tại làng q mình” [46, tr.13].
Làng nghề thủ cơng là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy tụ
các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề mang tính
truyền thống lâu đời, có sự liên kết hỗ trợ trong sản xuất, bán sản
phẩm theo lối phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ,
có cùng tổ nghề, và các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước
chế xã hội và gia tộc [46, tr.14].
Những khái niệm này tuy có khác nhau ở khía cạnh này, góc độ khác
song vẫn có những điểm giống nhau về cơ bản, đặc biệt là xét từ góc độ văn
hóa, chúng ta có thể sử dụng chung khái niệm "làng nghề". Làng nghề là một


10
thực thể vật chất và tinh thần tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về nghề
nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để làm ra
một sản phẩm, có bề dày lịch sử, tồn tại và được lưu truyền trong dân gian.
Dưới góc độ tiếp cận này, chúng ta có thể tiếp cận khái niệm về làng
nghề theo cách nhìn văn hóa bao gồm các nội dung cụ thể của nhà nghiên cứu

Lê Thị Minh Lý. Theo đó, làng nghề:
- Là một địa danh gắn với một cộng đồng dân cư có một nghề
truyền thống lâu đời được lưu truyền và có sức lan tỏa mạnh mẽ.
- Ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với
nhau trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm.
- Có một đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao, có bí quyết
nghề nghiệp được lưu truyền lại cho con cháu hoặc các thế hệ sau.
- Sản phẩm vừa có ý nghĩa kinh tế để ni sống một bộ phận dân cư và
quan trọng hơn là nó mang những giá trị vật thể và phi vật thể phản ánh
được lịch sử, văn hóa và xã hội liên quan tới chính họ [24].
1.1.2. Giá trị văn hóa làng nghề
1.1.2.1. Giá trị văn hóa
Giá trị thường gắn liền với nhu cầu, tạo nên động cơ hành động của con
người. Đằng sau mỗi hành động của con người có ẩn tàng một giá trị và đằng
sau mỗi giá trị có ẩn giấu một nhu cầu. Trong trao đổi, nhu cầu của mỗi cá
nhân, nhóm cộng đồng người mới được thỏa mãn. Vì nhu cầu của con người
là phong phú, đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nên cái bản
chất xã hội của con người cũng không ngừng được mở rộng, được nâng cao
trong quá trình trao đổi những nhu cầu của họ. Đó là một q trình vận động
biện chứng. Tuy nhiên, những nhu cầu mà mỗi cá nhân, nhóm người và cộng
đồng xã hội muốn vươn tới phải là những nhu cầu mang tính tích cực, có ý
nghĩa, đem lại lợi ích tốt đẹp cho xã hội và chính bản thân con người. Tương
ứng với nhiều nhu cầu thì xã hội cũng cần đến nhiều giá trị, đặc biệt là giá trị


11
nhân tính, tức tính cộng đồng ở con người đã phát sinh và được củng cố ở thời
kỳ khởi nguyên của nhân loại, gắn liền với sự vận động phát triển của nhu cầu
con người và xã hội.
Từ đó, có thể nói sự phát triển đa dạng của nhu cầu chứa đựng những

nội dung của văn hóa. Nếu hệ giá trị xã hội là dạng kết tinh hay là nội dung
của văn hóa thì cái dùng như một tiêu chí để nhận xét, đánh giá, so sánh các
sự vật, hiện tượng trong cuộc sống xã hội chính là sự thể hiện ra bên ngồi
của xu thế phát triển văn hóa cộng đồng xã hội. Chính ở khía cạnh này xác
nhận văn hóa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Bản chất đặc trưng của giá trị văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực
sáng tạo, khát vọng nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của cá nhân, cộng
đồng, dân tộc như: các hoạt động ăn, ở, mặc, đi lại, giao tiếp xã hội, phong tục
tập quán, tín ngưỡng, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, văn học…
Mục đích của giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản,
hướng tới sự hoàn thiện của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di truyền
xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó đã tích lũy
trong q trình hoạt động của mình. Chính q trình hoạt động đó đã hình
thành nên bản sắc văn hóa riêng của mỗi cộng đồng, dân tộc. Vì vậy, các giá
trị văn hóa tồn tại và phát triển trong mỗi cộng đồng, dân tộc nhất định. Cộng
đồng trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết
định nhất của một nền văn hóa.
Giá trị văn hóa cịn mang tính khách quan. Nếu căn cứ vào nền văn hóa
của một cộng đồng, dân tộc nào đó để xem xét, đánh giá các nền văn hóa của
các cộng đồng, dân tộc khác là cao hay thấp, phát triển hay kém phát triển thì
sẽ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, rơi vào bệnh chủ quan, tạo nên sự nơ dịch
hay sự áp đặt về văn hóa.
Chính vì vậy, có thể khẳng định giá trị là cốt lõi của văn hóa. Giá trị
văn hóa là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so sánh giữa nền


12
văn hóa dân tộc này với nền văn hóa dân tộc khác; là cái để xác định bản sắc
văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong tục, tập
quán, lối sống, nếp sống của một dân tộc trên nền tảng vĩnh hằng chân, thiện,

mỹ. Hay:
Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo và kết
tinh trong q trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng với môi
trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng đến thỏa
mãn những nhu cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt
đẹp… Giá trị văn hóa ln ẩn tàng trong bản sắc văn hóa, di sản văn
hóa, biểu tượng, chuẩn mực văn hóa [33, tr.22-23].
Như vậy, có thể hiểu giá trị văn hóa là những thành tựu vật chất và tinh
thần mà mỗi cộng đồng người - có thể là một làng, một dân tộc, một quốc gia
sáng tạo trong quá trình lịch sử lâu dài của mình. Những giá trị ấy đáp ứng
được nhu cầu tồn tại và phát triển của cộng đồng ấy, đồng thời làm phong phú
cho gia tài văn hóa của dân tộc, nhân loại.
Và cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, giá trị văn hóa khơng bất biến
mà thường xuyên vận động, biến đổi. Có những giá trị tốt đẹp, qua thử thách
lâu dài vẫn chứng tỏ sức sống của mình; có những giá trị đã lạc hậu, lỗi thời
bị loại bỏ; đồng thời có những giá trị mới nảy sinh, được tiếp thu, cải biến cho
phù hợp để đáp ứng sự phát triển của cộng đồng trong hoàn cảnh lịch sử mới.
Giá trị văn hóa vì vậy trở thành dịng chảy khơng ngừng nghỉ nhằm giúp con
người tạo dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ngày nay, giá trị văn hóa ln có mặt trong các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia, dân tộc bởi lẽ nó thể hiện cốt cách của một dân
tộc và nó có liên quan đến vận mệnh của dân tộc. Bảo tồn được giá trị văn hóa
tức là bảo tồn được dân tộc, mất đi các giá trị văn hóa cũng có nghĩa là mất đi
một dân tộc. Vì thế, việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy các di sản văn hóa là vấn
đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc. Bởi lẽ:


13
Giá trị văn hóa do con người trong xã hội sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử, một khi hệ giá trị văn hóa đã hình thành thì nó lại có vai trị

định hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con
người trong các xã hội ấy. Nó chính là một thứ vốn xã hội mà trong
các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta có thể khai
thác nó như một nguồn lực [34, tr.23-24].
1.1.2.2. Giá trị văn hóa làng nghề
Làng nghề, nhất là làng nghề truyền thống qua hàng trăm năm tồn tại
luôn hàm chứa những giá trị văn hóa đặc sắc, bao gồm việc sử dụng các kỹ
thuật truyền thống, đào luyện được đội ngũ những nghệ nhân tiêu biểu trở
thành “báu vật nhân văn sống” cho làng, cho quốc gia. Sản phẩm của làng
nghề là những bảo tàng mỹ thuật phản ánh những quan niệm thẩm mỹ và sự
vận động của những quan niệm ấy trong tiến trình lịch sử. Mặt khác, làng
nghề là một cộng đồng dân cư gắn bó chặt chẽ, lâu dài, vừa mang những giá
trị phổ biến của làng Việt Nam truyền thống vừa tạo lập được những nét đặc
trưng có tác dụng củng cố giềng mối của chính nó.
Thứ nhất, làng nghề là nơi trao truyền các tri thức, kỹ năng nghề
nghiệp; đào luyện và bảo tồn đội ngũ nghệ nhân dân gian.
Mỗi làng nghề thường sử dụng những kỹ thuật truyền thống, những
kinh nghiệm nghề nghiệp được lưu truyền từ đời này qua đời khác, kỹ thuật
ấy “bao gồm nhiều công đoạn từ khâu khai thác, chế biến nguyên liệu đến
khâu cuối cùng là hoàn chỉnh sản phẩm để bán ra thị trường” [9, tr.18]. Trong
việc sử dụng các kỹ thuật còn bao gồm cả việc vận dụng các thủ pháp nghệ
thuật nên trên thực tế có nhiều làng cùng làm chung một nghề nhưng vẫn
khơng lấn át, loại trừ nhau vì mỗi làng vẫn tạo ra được những nét đặc trưng,
phong cách riêng cho mình, qua đó làm phong phú diện mạo chung của làng
nghề. Để duy trì sự tồn tại của mình, làng nghề buộc phải liên tục đào tạo đội
ngũ kế cận. Và việc đào tạo thường theo lối cha truyền con nối, cầm tay chỉ


14
việc một cách kiên nhẫn, tận tụy. Bằng niềm tự hào, lịng u nghề và tâm

nguyện khơn ngi về sự trường tồn của làng, các nghệ nhân luôn chăm lo
việc đào tạo đội ngũ thợ trẻ của làng nghề với tâm thế con tằm nhả đến sợi tơ
cuối cùng. Và bằng cách đó, họ truyền thụ cho con cháu những gì tinh túy
nhất, những bí quyết của nghề nghiệp. Làng nghề là môi trường đào luyện nên
nghệ nhân và đến lượt mình, đội ngũ nghệ nhân là người quyết định tồn tại
của làng nghề. Với “bàn tay vàng”, nghệ nhân dân gian tạo nên những sản
phẩm tinh xảo, mang tính nghệ thuật cao, khơng ít trong số đó trở thành bảo
vật quốc gia, góp phần làm giàu có thêm tài sản văn hóa dân tộc và làm nên
tên tuổi của làng nghề. Thực tế làng nghề ở nước ta thời gian qua cho thấy
khơng ít nghệ nhân đã neo giữ và đưa làng nghề thoát khỏi cơn bĩ cực.Và nếu
một khi nghệ nhân cuối cùng của làng nghề ra đi thì cũng đồng nghĩa lời ai
điếu cho làng nghề ấy cũng đã được tấu lên.
Khơng gian làng nghề có thể coi là trường học lớn hình thành và ni
dưỡng nhân cách người thợ. Khơng khí lao động tấp nập, bàn tay khéo léo của
ông bà, cha mẹ, những ngày giỗ nghề trang trọng, thiêng liêng; những trò chơi
dân gian vui nhộn, những cuộc thi tài liên quan đến nghề nghiệp... đã gieo vào
lòng người dân làng nghề niềm tự hào về quê hương, sự thích thú với nghề
nghiệp ngay từ tuổi ấu thơ. Quyết tâm theo đuổi nghề truyền thống của quê
hương, sự thiện nghệ và lòng tự trọng nghề nghiệp hình thành chính trong
mơi trường ấy.
Thứ hai, sản phẩm làng nghề luôn phản ánh quan niệm thẩm mỹ, tâm
hồn của dân tộc.
Sản phẩm của các làng nghề truyền thống hầu hết vừa là vật dụng đồng
thời cũng là một tác phẩm có tính nghệ thuật cao, phản ánh quan niệm về cái
đẹp của ông cha trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Nó là tâm hồn dân
tộc được vật thể hóa trong những sản phẩm cụ thể. Mỗi sản phẩm làng nghề
đều chứa đựng cách thức ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, chứa


15

đựng những triết lý nhân sinh, quan niệm về cái đẹp. Giá trị của làng nghề
được tôn vinh bởi vẻ đẹp “rất riêng” trong sản phẩm của mình vì ẩn chứa
trong mỗi sản phẩm độc bản ấy là kinh nghiệm, là kỹ thuật, là bí quyết của
người thợ thủ cơng, đồng thời họ còn thổi vào sản phẩm ấy cả tâm hồn và ý
niệm. Ví như:
Khi nói đến làng gốm Bát Tràng người ta không chỉ biết đến sản phẩm
gốm mà cịn nhận biết các thơng tin về địa lý, nhân văn, lễ hội truyền
thống, lịch sử một làng nghề bên sông Hồng đầy ấn tượng và cả một
chút “huyền bí”. Hoặc khi nói đến làng dệt lụa Vạn Phúc - Hà Đông,
người ta không chỉ biết về "lụa là Hà Đơng" mà cịn biết đến những
nương dâu hai bờ sông Đáy, biết đến kỹ thuật nuôi tằm ươm tơ và
những bí quyết về kỹ thuật dệt lụa của cư dân làng Vạn Phúc. Tóm lại,
đặc điểm này cho chúng ta nhận dạng các giá trị văn hóa đặc biệt là
văn hóa phi vật thể từ nguồn gốc và đặc trưng xã hội nông nghiệp sản
xuất mùa vụ, cơ cấu qui mô thông qua chế độ làng xã Việt Nam [24].
Ở mỗi làng nghề, ngồi yếu tố kinh tế cịn mang rất đậm yếu tố văn hóa
và phần nào cịn có những yếu tố tâm linh. Bởi làng nghề ngồi phạm vi đơn
vị sản xuất và đơn vị hành chính, cịn có đặc trưng riêng biệt là tính cộng
đồng cư trú, cộng đồng lợi ích và cộng cảm rất cao. Bởi vì các mơ típ của sản
phẩm làng nghề bao giờ cũng mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng
ảnh hưởng văn hóa tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng tơn giáo
của dân tộc. Chính vì vậy, nhà thơ Hồng Cầm đã rất chính xác khi nói về
tranh Đơng Hồ: “Màu dân tộc sáng ngời trên giấy điệp”. Làng nghề truyền
thống ra đời và phát triển trên cái nền của lịch sử văn hóa và văn minh của
dân tộc. Đến lượt mình, làng nghề truyền thống bằng các sản phẩm đỉnh cao
đã góp phần làm giàu có thêm tài sản văn hóa của quốc gia. Sự gắn kết này
trở thành nét đẹp truyền thống, tạo nên mơi trường văn hóa thiêng liêng và
phát triển trên nền tảng bền vững, thiết thực.



16
Thứ ba, làng nghề in đậm dấu ấn văn hóa vùng miền và
văn hóa tộc người.
Làng nghề truyền thống ở Việt Nam rất phong phú và đa dạng, mang
đậm dấu ấn của môi trường văn minh lúa nước. Làng nghề cũng vì thế mà có
vai trị hết sức quan trọng trong đời sống nông thôn, nông nghiệp. Đúng như
nhận xét của nhà nghiên cứu Lê Thị Minh Lý: “Làng nghề Việt Nam không
chỉ phản ánh mối quan hệ giữa "nghề" với "nghiệp" mà còn chứa đựng những
giá trị tinh thần đậm nét, được phản ánh qua các tập tục, tín ngưỡng, lễ hội và
nhiều quy định khác” [24].
Nhiều làng nghề đã có lịch sử văn hóa lâu đời, tồn tại và được lưu giữ
qua nhiều thế hệ, chẳng những làm cho bộ mặt kinh tế vùng miền, tộc người
phồn vinh, sinh động, thu hút đủ mọi lứa tuổi vào lao động nghề nghiệp mà
cịn gắn kết từng gia đình với dịng họ, với cộng đồng. Từ đó, sự lan tỏa sản
phẩm của làng nghề tạo nên sắc thái văn hóa in sâu vào tâm thức của từng con
người. Ví như các làng trồng dâu nuôi tằm dọc bờ sông Thu Bồn ngày trước
chính là mảnh đất màu mỡ để dệt nên những câu ca dao, những điệu hò mượt
mà, đằm thắm. Các làn điệu này dần dần được lan truyền và trở thành gia tài
của cả vùng đất. Làng mộc Kim Bồng đã làm nên quần thể kiến trúc Đô thị cổ
Hội An và nhà rường truyền thống ở phía Bắc Quảng Nam. Trong khi đó,
khơng gian hành nghề của làng mộc Văn Hà (thuộc xã Tam Thành, huyện Phú
Ninh hiện nay) là các huyện phía Nam của tỉnh mà làng cổ Lộc Yên hiện tồn
ở xã Tiên Cảnh huyện Tiên Phước là ánh hào quang rực rỡ của nó. Hai làng
mộc cùng sinh thành đồng thời trên đất Quảng Nam nhưng về cơ bản vẫn có
hai phong cách khác nhau trong việc kiến tạo, chạm trổ nên những ngôi nhà
rường truyền thống ở xứ Quảng mà qua đó người ta có thể hiểu được khơng
gian cư trú của người xưa cũng như nếp sống của chủ nhân dưới những ngơi
nhà ấy. Điều đó có thể diễn giải là do:
các "qui lệ" của các làng nghề. Qui lệ là các qui ước, luật lệ để gìn



17
giữ bí quyết nghề, để bảo tồn nghề của dịng họ hay của cộng đồng
làng xã. Có thể nói, tất cả các nghề thủ cơng đều có bí quyết. Việc
giữ "bí quyết nghề" khơng chỉ đơn thuần là giữ nghề mà nó cịn chi
phối cả các quan hệ xã hội khác như quan hệ hôn nhân, không lấy
người địa phương khác, hoặc việc truyền nghề chỉ đóng khung trong
một số đối tượng cụ thể, như chỉ truyền cho con trai, hoặc chỉ truyền
cho con trưởng hoặc cháu đích tơn [24].
1.1.3. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề
1.1.3.1. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Với cách tiếp cận từ góc độ văn hóa để tìm hiểu những đặc điểm cơ bản
của làng nghề Việt Nam, dễ dàng nhận thấy rằng làng nghề chứa đựng trong
nó những yếu tố nhân văn và những giá trị văn hóa truyền thống q giá.
Ngồi những yếu tố kinh tế cần được nghiên cứu phát triển thì các giá trị văn
hóa làng nghề cịn là đối tượng quan trọng để bảo tồn và phát huy nhằm phục
vụ cho sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc và xây dựng đất nước.
Khái niệm bảo tồn (Preservation) được hiểu như là “các nỗ lực nhằm
gìn giữ các giá trị, các bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có (truyền thống) của mỗi
dân tộc, quốc gia… Nguyên tắc quan trọng của bảo tồn, giữ gìn hay kế thừa
phải là nguyên tắc phát triển, cho phát triển và vì phát triển” [34, tr.37].
Bảo tồn bao gồm hai dạng: Bảo tồn nguyên vẹn và bảo tồn có biến đổi.
Trong trường hợp này có thể hiểu khái niệm bảo tồn mang tính chất tương đối
[8, tr.37]. Bởi vì, giá trị văn hóa cũng như bản sắc văn hóa, hình thành và định
hình trong trường kỳ lịch sử, là yếu tố khá bền vững. Tuy nhiên, các giá trị đó
khơng phải là bất biến, mà ln biến đổi theo sự biến đổi của xã hội. Do vậy,
cần phải nhìn các giá trị văn hóa trong trạng thái động. Điều này, đặc biệt
quan trọng trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang chuyển đổi từ xã hội truyền
thống sang xã hội hiện đại, trong xu hướng Việt Nam đang trong quá trình hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại



18
hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Khái niệm phát huy (Promotion) được hiểu với hai ý nghĩa. Thứ nhất:
“Đó là những hành động nhằm đưa văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, coi đó
như là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang
lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người, thể hiện tính mục tiêu
của văn hóa đối với phát triển xã hội” [34, tr.39]. Thứ hai:
Phát huy còn bao hàm ý nghĩa, đó chính là mơi trường tốt nhất để
bảo tồn và làm giàu chính bản thân văn hóa. Xét cho cùng, văn hóa
khơng thể được bảo tồn và làm giàu nếu như nó khơng được phát
huy trong đời sống xã hội. Chính trong mơi trường xã hội sống
động, văn hóa sẽ được ni dưỡng, bảo tồn, được sinh sôi, nảy nở
như một cơ thể sống [34, tr.39].
Hai khái niệm bảo tồn và phát huy vừa tiếp cận trên không phải là những
khái niệm tách biệt để cạnh nhau, mà chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau,
cái nọ là tiền đề cho sự tồn tại của cái kia. Bảo tồn là cơ sở nền tảng cho việc
phát huy. Bởi nếu khơng có, khơng giữ được các vốn văn hóa truyền thống thì
làm gì có cái để phát huy. Trong phát huy cũng bao gồm việc tiếp nhận những
cái mới để cải biến, bổ sung làm tăng thêm sức sống cho giá trị văn hóa
truyền thống. Tuy nhiên, phát huy không được làm lai căng, làm suy thối,
đánh mất bản sắc của văn hóa truyền thống. Như vậy, bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa là kế thừa những tinh hoa của văn hóa truyền thống, đồng thời
tiếp nhận những cái mới để bảo đảm cho văn hóa trở thành dịng chảy xun
suốt từ q khứ đến tương lai, tạo được sức sống bền vững, lành mạnh, tăng
cường và củng cố được bản sắc văn hóa của mình. Thực tế đổi mới thời gian
qua cho thấy, vì chạy theo lợi nhuận, nhiều nơi đã khai thác các di sản văn
hóa theo chiều hướng thực dụng, làm biến đổi theo xu hướng xấu các chuẩn
mực, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì vậy, cần xử lý tốt mối quan hệ giữa

bảo tồn và phát huy để vừa đảm bảo không ngăn cản sự phát triển mà tạo điều


19
kiện tốt nhất cho sự phát triển của nó, giúp củng cố thêm bản sắc văn hóa.
Để thực hiện tốt mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dĩ nhiên
cần có sự hiểu biết sâu sắc về các giá trị ấy. Nghĩa là cần nghiên cứu đầy đủ
và có hệ thống những di sản văn hóa mà tiền nhân để lại, nhận diện những
yếu tố nội sinh, những yếu tố du nhập; xác định được những giá trị đặc sắc,
nền tảng, nắm rõ quy luật vận động phát triển của nó. Có như vậy, mới có cơ
sở cho việc hoạch định phương hướng, nội dung, chính sách, biện pháp bảo
tồn và phát huy một cách phù hợp.
1.1.3.2. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề
Làng nghề là một thực thể kinh tế - xã hội không bất biến mà luôn
vận động. Thực tế những năm từ sau Đổi mới cho thấy những xu hướng
vận động trái chiều của các làng nghề nước ta. Có những làng nghề không
đáp ứng được nhu cầu xã hội nên suy thối và đang dần biến mất; có những
làng nghề hoạt động cầm chừng. Nhưng cũng có làng nghề năng động,
thích ứng với cơ chế thị trường nên phát triển tốt. Các xu hướng vận động
của làng nghề đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa làng nghề nhằm thực hiện công cuộc CNHHĐH nông nghiệp, nông thôn và thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Đảng đã đề ra. Bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa làng nghề trước hết là bảo tồn và phát huy các giá
trị tốt đẹp của làng truyền thống Việt Nam. Bên cạnh đó, cần chú trọng
những giá trị đặc sắc mà làng nghề đã sản sinh, lưu giữ trong quá trình tồn
tại của mình. Trên phương diện tổng quát, công tác bảo tồn và phát huy giá
trị làng nghề có nhiều việc phải thực hiện, song có hai vấn đề cơ bản nhất,
cấp bách nhất cần chú ý:
Một là, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa làng nghề trước hết là việc
bảo tồn và phát huy các tri thức, kỹ thuật và kinh nghiệm của làng nghề



20
Mỗi làng nghề đều hình thành và tồn tại trên cơ sở của những kỹ thuật
truyền thống nhất định. Đó là một hệ thống những tri thức, kinh nghiệm nghề
nghiệp mà người dân làng nghề từ đời này qua đời khác sáng tạo, tích lũy và
trao truyền cho nhau, trong đó có những bí quyết nghề khơng thể tiết lộ ra bên
ngoài. Kể cả khi các làng nghề sử dùng cùng một kỹ thuật nhưng họ vẫn sử
dụng những thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo phong cách riêng cho sản phẩm
của làng mình. Tuy nhiên, do dự thay đổi của nhu cầu, thị hiếu xã hội cũng
như sự phát triển của khoa học, công nghệ, sự cạn kiệt các nguồn nguyên liệu
nên cách thức sản xuất, mẫu mã sản phẩm… của làng nghề cũng cần có sự
thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là khơng có sự bất biến về tri thức, kỹ thuật sản
xuất của làng nghề mà cần có sự thải loại và bổ sung các kỹ thuật, công nghệ
mới. Ví dụ tại làng gốm Thanh Hà, thành phố Hội An đã xuất hiện kỹ thuật
gốm rót khn bên cạnh kỹ thuật truyền thống là chuốt gốm bằng tay. Kỹ
thuật mới này cho phép tăng sự đa dạng của mẫu mã sản phẩm, tạo ra những
họa tiết, hoa văn phong phú và phức tạp hơn; năng suất lao động cũng cao
hơn nhiều.
Hai là, bảo tồn và phát huy đội ngũ nghệ nhân
Nghệ nhân là người nắm giữ tốt nhất các tri thức, kỹ thuật của làng
nghề. Họ vừa người thầy đào tạo ra các đội ngũ kế cận, vừa là người nghệ sĩ
dân gian, đóng vai trị quan trọng trong việc sáng tạo ra các mẫu mã sản phẩm
mới, đồng thời truyền cảm hứng sáng tạo cho lớp đi sau. Nghệ nhân “bàn tay
vàng” là người làm nên tên tuổi của làng nghề. Bảo tồn và phát huy đội ngũ
nghệ nhân làng nghề là tạo điều kiện cho họ có cuộc sống ổn định, phát huy
tốt nhất năng lực sáng tạo; có sự khích lệ thỏa đáng về vật chất và tinh thần để
họ tận tâm với nghề. Mức độ trọng vọng, đãi ngộ của xã hội đối với nghệ
nhân sẽ thôi thúc lớp thợ trẻ của làng nghề phấn đấu vươn lên. Bảo tồn và
phát huy đội ngũ nghệ nhân làng nghề cũng không đồng nghĩa với sự “vắt

kiệt” các năng lực, tay nghề mà cần chú trọng bồi dưỡng để tăng cường năng


21
lực sáng tạo, giúp họ đảm nhiệm tốt vai trò hạt nhân của làng trong việc tổ
chức sản xuất, quản lý kinh tế.
1.2. TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ KIM BỒNG, THÀNH PHỐ HỘI AN
TỈNH QUẢNG NAM

1.2.1. Điều kiện tự nhiên, quá trình hình thành và tồn tại của làng
nghề Kim Bồng
1.2.1.1. Đặc điểm, điều kiện tự nhiên
Làng Kim Bồng tên cũ là Kim Bồng Châu, dưới thời nhà Nguyễn thuộc
tổng Mỹ Khê, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn, nay phần lớn diện tích của
làng thuộc xã Cẩm Kim, thành phố Hội An. Xã Cẩm Kim nằm ở hạ lưu sông
Thu Bồn - dịng sơng lớn nhất ở Quảng Nam. Cẩm Kim cũng cách phố cổ Hội
An khoảng 3 km về phía Bắc. Về vị trí địa lý, xã Cẩm Kim giáp các xã Duy
Vinh, Duy Phước huyện Duy Xuyên về phía Nam. Về phía Tây giáp phường
Thanh Hà, thành phố Hội An, xã Điện Phương huyện Điện Bàn; phía Đơng
giáp phường Cẩm Nam, Hội An. Cẩm Kim có diện tích 4,6km 2, dân số 4.207
người, thuộc 1.074 hộ gia đình [42].
Nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, Cẩm Kim ở vào vùng
nhiệt đới ẩm gió mùa, khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt: mùa nắng và mùa mưa.
Là vùng đất nằm ở cuối sông Thu Bồn, Cẩm Kim bị chia cắt bởi nhiều nhánh
sông nên giao thông đi lại trắc trở, nhất là trong mùa mưa lũ. Về sản xuất
nông nghiệp, tuy đất đai khá màu mỡ do thường xuyên được phù sa bồi đắp
nhưng diện tích canh tác nhỏ hẹp [3, tr.8]. Toàn xã Cẩm Kim chỉ có 240 ha đất
canh tác, một số khu vực bị nhiễm mặn trong mùa nắng, sản xuất nông nghiệp
do vậy nhìn chung khơng ổn định. Hơn nữa vài chục năm lại đây, do tình
trạng rừng đầu nguồn bị tàn phá dữ dội và nhiều cơng trình thủy điện được

xây dựng làm cho dịng chảy sơng Thu Bồn khơng ổn định, khiến đất đai của
xã bị xói lở, ảnh hưởng xấu đến đời sống, sản xuất của nhân dân.
Tuy có khó khăn về giao thơng đường bộ và sản xuất nông nghiệp nhưng


22
xã Cẩm Kim nói chung và làng Kim Bồng riêng lại có thuận lợi về về giao
thơng đường thủy. Do nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, nơi hợp lưu của các dịng
sơng lớn ở Quảng Nam, nên từ đây theo đường sơng có thể đi đến vùng đất
rộng lớn thuộc lưu vực Vu Gia - Thu Bồn như huyện Duy Xuyên, Điện Bàn,
Đại Lộc, Nông Sơn, Hiệp Đức,Tiên Phước; các huyện miền núi như Đông
Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn. Ngày trước theo dịng sơng này,
thuyền bè chở đầy lâm thổ sản xuôi về Hội An [20, tr.10]. Từ Kim Bồng theo
sơng Trường Giang có thể xi vào Thăng Bình, Tam Kỳ rồi ra biển bằng cửa
An Hịa; theo sơng Cổ Cị hay cịn gọi là Lộ Cảnh Giang xi ra Cửa Hàn, Đà
Nẵng. Có thể nói, Kim Bồng cũng là đất “hội thủy, hội nhân”, buôn bán cũng
là nghề phổ biến như từng được ghi trong trong câu ca dao:
“Chồng em là lái buôn tiêu
Đi lên đi xuống Trà nhiêu, Kim Bồng”
Mặt khác, Cẩm Kim có một thuận lợi lớn là nằm cạnh phố Hội An một trung tâm giao thương của Quảng Nam. Hội An mở ra không gian và thị
trường rộng lớn cho hoạt động sản xuất, thương mại của Cẩm Kim và tạo điều
kiện cho họ tiếp cận nhanh chóng với các luồng giao lưu văn hóa mang tầm
quốc gia và quốc tế.
Đặc điểm địa lý tự nhiên nêu trên đã có những ảnh hưởng rõ rệt đến đời
sống của người dân Kim Bồng. Từ xa xưa, người dân nơi đây khơng hồn
tồn dựa vào nông nghiệp mà đã năng động phát triển thêm nhiều ngành nghề
như buôn bán, đánh bắt thủy hải sản, các nghề thủ công mỹ nghệ… để tạo
sinh kế. Tuy nhiên, do nằm ở vùng thấp lụt, đi lại khó khăn nên người dân
Cẩm Kim khi làm ăn khấm khá thường có tâm lý rời quê, chuyển đến những
nơi có điều kiện sống thuận lợi, ổn định hơn.

1.2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của làng nghề Kim Bồng
Kim Bồng cũng như mọi địa phương ở Quảng Nam vốn thuộc quốc gia
Chăm pa. Tuy nhiên, trước sức ép của phong kiến phương Bắc, từ thế kỷ XIV


23
người Việt bắt đầu công cuộc tiến về phương Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh
Tơng mở cuộc bình Chiêm thắng lợi, lập nên đạo Thừa tuyên Quảng Nam kéo dài từ Quảng Nam đến Bắc Phú Yên ngày nay. Với sự kiện này, tỉnh
Quảng Nam chính thức nằm trong quốc gia Đại Việt. Và cũng từ đây, công
cuộc mở cõi về phương Nam của quốc gia Đại Việt trở nên mạnh mẽ và ổn
định hơn.
Đến thời Hậu Lê, cục diện Trịnh - Nguyễn phân tranh bắt đầu hình
thành. Năm 1558, Nguyễn Hồng xin vào trấn nhậm xứ Thuận Hóa, năm
1571 xin trấn nhậm cả xứ Thuận - Quảng, mưu tính việc “rạch đôi sơn hà”.
Với quyết tấm xây dựng xứ Đàng Trong ngày càng hùng mạnh để đủ lực
lượng chống lại chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, Nguyễn Hoàng ra sức kinh dinh
vùng đất Quảng Nam. Đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phương Tây đang
hình thành, đẩy mạnh việc tìm kiếm thị trường. Thương nhân Nhật Bản do bị
cấm giao thương với Trung Quốc nên chuyển hướng buôn bán xuống Đơng
Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tranh thủ điều kiện lịch sử này, chúa Tiên
Nguyễn Hoàng (1558-1613) và các chúa kế nghiệp như Nguyễn Phúc Nguyên
(1635-1648), Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) đã thi hành nhiều chính sách
kinh tế, ngoại giao thoáng mở với các nước như Nhật Bản, Trung Quốc và các
nước châu Âu như Hà Lan, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh… làm cho xứ Đàng
Trong trở nên phồn thịnh. Giao thương quốc tế là động lực chính thúc đẩy sự
hình thành và phát triển của thương cảng Hội An. Năm 1642, nhà Minh sụp
đổ, nhiều người Hoa “bất phục Thanh” đã di cư sang Việt Nam, trong đó một
bộ phận lớn đến Hội An và được chúa Nguyễn cho phép cư trú, rồi cho nhập
quốc tịch. Bộ phận dân cư này có vai trị quan trọng trong sự phát triển của
Hội An. Điều kiện quốc tế và trong nước thời bầy giờ là cơ hội để “Hội An đã

trở thành một thương cảng quốc tế có tầm quan trọng bậc nhất ở Đông Nam
châu Á trong các thế kỷ XVII-XVIII ” [30, tr.78].
Kinh tế Đàng Trong phát triển cộng với cuộc chiến tranh gây bao đau


24
thương giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn trong suốt hai thế kỷ
XVII - XVIII thúc đẩy mạnh mẽ cuộc di dân từ đồng bằng Bắc Bộ và nhất là
Thanh - Nghệ - Tĩnh vào phía Nam. Và đến lượt mình dân di cư đã giúp kinh
tế - xã hội Đàng Trong thêm cường thịnh:
Khơng phải chỉ có dân nghèo đói khát, khố rách áo ơm đi tha
phương cầu thực, mà còn nhiều loại người khác như: thợ thủ công,
thầy thuốc, thầy đồ, nhà buôn, số thuộc tầng lớp khá giả bị phá sản
trong thời loạn lạc…Chính lực lượng di dân đông đảo và đa thành
phần này… là nhân tố quan trọng tạo nên sự phát triển kinh tế hàng
hóa của Đàng Trong ở thế kỷ XVII và các thế kỷ sau đó [32, tr.34].
Các luồng di dân từ miền Bắc vào xứ Quảng, sự phát triển sầm uất của
thương cảng Hội An chính là điều kiện thúc đẩy các ngành nghề, các làng nghề thủ
công ở Hội An nói chung và Kim Bồng nói riêng ra đời: “... vào thời kỳ thịnh
vượng này, quanh Hội An đã hình thành những làng nghề: gốm Thanh Hà, mộc
Kim Bồng làm đồ gỗ gia dụng, đóng ghe bầu đi sơng và đi biển” [32, tr.656]. Trong
Phủ biên tạp lục, nhà bác học Lê Quý Đôn cũng đã nhắc đến địa danh Kim Bồng.
Trong những đoàn người di dân ấy, các vị thủy tổ của làng Kim Bồng
cũng vào khai khẩn vùng đất này từ thế kỷ XVI-XVII. Ban đầu gồm các tộc
Nguyễn, Huỳnh, Phan, Trương. Về sau có thêm các tộc Đỗ, Bùi, Lê… đến tụ
cư, cùng chung lưng đấu cật xây dựng xóm làng. Phần lớn họ là người gốc
Thanh - Nghệ. Trong buổi đầu khai khẩn, người làng Kim Bồng sinh sống
bằng các nghề nông nghiệp, đánh bắt thủy - hải sản, nghề buôn bán, nghề nề
(xây, đắp vẽ) nhưng thu hút nhiều hộ tham gia nhất là nghề mộc. Cơ hội phát
triển của làng mộc Kim Bồng được tạo ra bởi nhu cầu xây dựng các cơng

trình kiến trúc đơ thị, tơn giáo - tín ngưỡng, làm đồ mộc dân dụng, đóng
thuyền bè. Giao lưu văn hóa ở cảng thị quốc tế Hội An phản ánh rõ nét trong
hoạt động của làng nghề Kim Bồng: “…có sự kế thừa kỹ thuật đóng thuyền
của người Chăm, tiếp thu kiến trúc dân dụng, tín ngưỡng của người Hoa,


25
Nhật. Những yếu tố đó được chắt lọc, hịa quyện nhuần nhuyễn để tạo nên
một phong cách, một sắc thái riêng của nghề mộc Kim Bồng” [36, tr.153].
Từ đầu thế kỷ XIX, với sự phát triển của cách mạng công nghiệp ở
phương Tây, tàu hơi nước xuất hiện, kỷ nguyên thuyền buồm chấm dứt. Cảng
Đà Nẵng hình thành, cộng với sự bồi lấp của sông Thu Bồn khiến Hội An mất
dần vai trò cảng thị trung tâm, giao thương quốc tế vì thế suy giảm. Tuy vậy,
Hội An vẫn là tỉnh lỵ Quảng Nam, là đầu mối thương mại chủ yếu của xứ
Quảng. Do nhu cầu của cư dân Hội An và các vùng lân cận nên hoạt động của
làng nghề Kim Bồng vẫn duy trì. Đặc biệt, từ đầu thế kỷ XX, chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp thúc đẩy các đô thị lớn ở miền Nam như Đà
Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn ra đời, phát triển, nhu cầu xây dựng tăng
cao. Một bộ phận thợ mộc Kim Bồng đã đến các đô thị này để làm nghề; một
số định cư hẳn, một số làm theo mùa vụ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng
đất Hội An nói chung, Kim Bồng nói riêng bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Hoạt động của làng nghề bị đình trệ. Thợ thủ công tản mát đi làm ăn khắp
nơi. Sau năm 1975, nền kinh tế kế hoạch hóa, bao cấp khiến đời sống nhân
dân khó khăn; hoạt động sản xuất, thương mại ở Đơ thị Hội An ngưng đọng
khơng kích thích nhu cầu xây dựng, sản xuất đồ mộc nên làng nghề Kim
Bồng rơi vào nguy cơ mai một.
Tuy nhiên từ sau năm 1986, đặc biệt sau khi tái lập tỉnh Quảng Nam, rồi Đô
thị cổ Hội An được UNESCO công nhận Di sản văn hóa thế giới, làng nghề Kim
Bồng từng bước được hồi phục, các chính sách khuyến cơng của Nhà nước cũng

có tác dụng thúc đẩy làng nghề phát triển. Kim Bồng hiện có 27 hộ sản xuất lớn
nhỏ với tổng số 134 lao động [27], trong đó có hai nghệ nhân và nhiều thợ trẻ có
tay nghề cao. Có thể khẳng định, làng nghề đã thốt khỏi nguy cơ mai một,
nhưng vẫn gặp khơng ít khó khăn trong sản xuất, mở rộng thị trường.
1.2.1.3. Chủ nhân của hệ thống giá trị làng nghề Kim Bồng


×