1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đắk Lắk thuộc khu vực Tây Ngun là địa bàn có vị trí chiến lược quan
trọng cả về chính trị, kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh của nước ta. Là
địa bàn đa dân tộc, rất nhạy cảm về kinh tế, văn hố, dân tộc, tơn giáo cũng
như về an ninh, quốc phòng. Đắk Lắk cũng là nơi tập trung nhiều vấn đề bức
xúc về kinh tế, chính trị - xã hội và về công tác tư tưởng.
Những năm qua, triển khai thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, kinh
tế-xã hội của tỉnh Đắk Lắk có bước phát triển nhanh và ổn định, đời sống của
nhân dân được cải thiện theo hướng tích cực, quốc phịng-an ninh được giữ
vững. Đạt được những thành tựu chung đó có sự đóng góp khơng nhỏ của các
lực lượng làm cơng tác tư tưởng từ tỉnh đến cơ sở. Đội ngũ cán bộ làm cơng
tác tư tưởng của Đảng, của các ngành, đồn thể chính trị-xã hội và cán bộ,
đảng viên trong tồn bộ hệ thống chính trị bằng nhiều phương pháp, hình thức
khác nhau đã tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước; nhiệm vụ
chính trị của địa phương đến đông đảo các tầng lớp nhân dân. Biến chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hành động cách
mạng của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, các lực lượng làm cơng tác
tun truyền đã kịp thời phát hiện, cổ vũ những nhân tố mới, điển hình tiên
tiến; đồng thời đấu tranh chống lại luận điệu, chống phá cách mạng Việt
Nam, cuộc sống xây dựng và phát triển của các lực lượng thù địch trong và
ngoài nước, luận điệu phản tuyên truyền của các phần tử cơ hội lợi dụng vấn
đề dân tộc, tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết của các dân tộc Tây Nguyên
nói chung và đồng bào các dân tộc đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
2
nói riêng giữ vững mặt trận an ninh tư tưởng tạo điều kiện để phát triển kinh
tế - xã hội.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, hiệu quả cơng tác tư tưởng,
nhất là trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh còn thấp. Nhiều chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa đến
được với dân, do nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền chưa phù
hợp với đối tượng tuyên truyền. Quần chúng chưa hiểu hoặc hiểu không đầy
đủ, nên việc triển khai thực hiện cịn nhiều khó khăn, hiệu quả thấp. Thậm chí
có một bộ phận do thiếu thơng tin, nhận thức còn hạn chế nên bị các thế lực
thù địch, các phần tử xấu lợi dụng, lơi kéo, kích động tham gia vào các hoạt
động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội tại địa phương.
Hệ quả này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
hạn chế về hiệu quả của công tác tư tưởng, mà cụ thể là công tác tuyên truyền
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Đăk Lắk còn nhiều hạn chế, bất cập.
Lực lượng làm công tác tuyên truyền đông, nhưng khả năng tuyên truyền cịn
hạn chế. Cơng tác phối hợp giữa các lực lượng làm công tác tư tưởng chưa
chặt chẽ, khoa học nên chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp trong công tác
chính trị tư tưởng. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đặc
biệt quan tâm đến khu vực Tây Nguyên, trong đó địa bàn tỉnh Đắk Lắk được
các thế lực thù địch, các tổ chức phản động tăng cường các hoạt động chống
phá, mũi đột phá là lĩnh vực tư tưởng gây mất ổn định chính trị - xã hội, âm
mưu kích động tư tưởng ly khai dân tộc nhằm thực hiện chia cắt đất nước ta,
phá hoại công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Sự ổn định chính trị - xã hội ở địa bàn Tây Nguyên phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, nhưng trong đó yếu tố tư tưởng có tầm quan trọng đặc biệt. Địi
hỏi phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, văn
hố, an ninh, quốc phịng, dân tộc, tơn giáo...; trong đó cơng tác tư tưởng
(CTTT) là một trong những vấn đề cơ bản.
3
Để góp phần hiện thực hố nhiệm vụ cơng tác tư tưởng, lý luận trong
tình hình mới theo tinh thần của Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI tơi chọn
đề tài: “Công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk giai đoạn hiện nay”
làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian từ năm 1980 đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu
tổng thể về tình hình Tây Nguyên. Tập trung nhất là Chương trình cấp Nhà
nước 48-09 do Uỷ ban Khoa học xã hội (nay là Viện Khoa học xã hội Việt
Nam) thực hiện trong những năm 80. Kết quả của chương trình được xuất bản
thành 3 cuốn sách:
+ Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1986.
+ Tây Nguyên trên đường phát triển, NxB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
+ Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
Ba cuốn sách nói trên chủ yếu phân tích thực trạng tình hình kinh tế xã hội của Tây Nguyên từ sau ngày giải phóng miền Nam đến những năm 80
- 90, quá trình phát triển về kinh tế của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, đề
xuất một số giải pháp phát triển kinh tế ở Tây Nguyên; chưa đề cập đến tình
hình tư tưởng và công tác tư tưởng.
- Tiếp theo, trong những năm 90 của thế kỷ XX có một số đề tài nghiên
cứu khoa học cấp nhà nước, như: Đề tài cấp Nhà nước KX 05-11 về cơ cấu,
tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong đổi mới hệ thống chính trị hiện
nay ở Đắk Lắk (1993-1994); Đề tài cấp Nhà nước KX 09-11: “Đánh giá thực
trạng và dự báo tình hình chính trị - xã hội. Xây dựng tiềm lực chính trị tinh
thần đảm bảo cho quốc phịng an ninh”. Đề tài KHXH 05-02: “Đổi mới,
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn hiện nay”.
Trong những năm đầu thế kỷ 21 có những cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
4
như: Phát huy sức mạnh tổng hợp các binh chủng cơng tác tư tưởng - văn
hố, hướng mạnh về cơ sở; hoàn thành thắng lợi năm 2000 và những năm
tiếp theo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 do Ban Tư tưởng - Văn hoá
Trung ương biên soạn. Nhiệm vụ và giải pháp tăng cường công tác tư tưởng
trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 do Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương biên soạn. Cơng tác tư tưởng - văn hố cấp
huyện, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 của tác giả Đào Duy Qt.
- Ngồi ra cịn một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ đề cập
đến các lĩnh vực khác nhau của Tây Nguyên, một số luận án tiến sĩ, luận văn
thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề kinh tế - xã hội, hệ thống chính trị, giải
quyết điểm nóng ổn định chính trị ở Tây Ngun của các tác giả như Trung
Giang Vim, Phạm Thanh Khiết, Trương Minh Dục, Nguyễn Ngọc Hoà;
Nguyễn Mậu Linh; Đoàn Triệu Long, Trương Minh Tuấn, Trịnh Dũng...
Xuất phát từ vị trí, vai trò, tầm quan trọng và yêu cầu thực tiễn của
CTTT đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết, luận văn, luận án đề
cập dưới nhiều góc độ, phạm vi khác nhau về CTTT như:
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1999), Tiếp tục đổi mới và nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, văn hố trong tình hình mới, Nhà
xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia (CTQG), Hà Nội;
- Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb
CTQG, Hà Nội 1999;
- Trần Trọng Tân (1999), Về công tác tư tưởng - văn hố, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Đức Bình (2001), Một số vấn đề về cơng tác lý luận, tư tưởng
và văn hoá, Nxb CTQG, Hà Nội;
- Đào Duy Quát (chủ biên, 2002), Một số vấn đề về công tác tư tưởng
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội;
5
- Lê Khả Phiêu (2000), Nội dung hàng đầu của công tác tư tưởng là
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành chủ đạo
trong xã hội, Tạp chí Thơng tin Cơng tác tư tưởng, số 9;
- Nông Đức Mạnh (2001), Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư
tưởng, Tạp chí Thơng tin Cơng tác tư tưởng, số 6;
- Nguyễn Khắc Bộ (2002), Kết hợp hai chiều trong công tác tư tưởng ở
cơ sở, Tạp chí Tư tưởng - Văn hố, số 1;
- Phạm Gia Khiêm (2003), Để công tác tư tưởng - văn hoá trở thành
động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 8;
- Nguyễn Phú Trọng (2005), Về cuộc đấu tranh tư tưởng trong tình
hình hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 774, tháng 11;
- Nguyễn Thanh Tâm (2004), Chất lượng công tác tư tưởng của Đảng
bộ tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây
dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Ngọc Thuần (2001), Chất lượng cơng tác tư tưởng của Đảng
bộ quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học viện chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Quốc Minh (2002), Công tác tư tưởng của Đảng bộ xã, phường
ở tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành
xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Minh Tân (2003), Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của
Đảng bộ tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, chuyên
ngành xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh;
6
- Trịnh Thanh Tâm (2005), Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của
các Đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học
viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh;
- Hồng Quốc Đạt (2005), Cơng tác tư tưởng của Đảng bộ thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây
dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh;
- Huỳnh Thanh Hải (2005), Chất lượng công tác tư tưởng của các
Đảng bộ phường ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải
pháp, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh;
- Trịnh Ngọc Thắng (2008), Chất lượng công tác tư tưởng của các
Đảng bộ huyện đồng bằng ven biển tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh;
- Cao Thị Mai (2008), Cơng tác tuyên giáo của các Đảng bộ phường
tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành
xây dựng Đảng, Viện xây dựng Đảng, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh;
Các cơng trình khoa học trên đây, hoặc đề cập đến những khía cạnh
khác nhau, những mặt khác nhau trong việc thực hiện chính sách của Đảng,
Nhà nước ở Tây Nguyên và nhiều công trình đã đề cập đến chất lượng cơng
tác tư tưởng của Đảng ở những cấp độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có một cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy
đủ các giải pháp cụ thể trên lĩnh vực tư tưởng và công tác tư tưởng ở Đắk Lắk
nhằm góp phần với Đảng bộ tỉnh trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực
hiện công tác tư tưởng ở một địa bàn trọng yếu của Tây Nguyên cả về kinh tế,
chính trị và quốc phòng an ninh.
7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Thơng qua việc nghiên cứu làm rõ một số vấn đề về lý luận và đánh giá
thực trạng tư tưởng và công tác tư tưởng mà các cấp uỷ đảng của Đảng bộ
tỉnh Đắk Lắk triển khai trong thời gian qua, luận văn nghiên cứu đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác tư tưởng (CTTT) của
Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới nhằm góp phần vào việc phát triển
kinh tế - xã hội, ổn định an ninh chính trị Đắk Lắk nói riêng và vùng Tây
Nguyên nói chung.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như vai trị cơng tác tư tưởng
của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk.
+ Đánh giá thực trạng tình hình tư tưởng trên địa bàn nghiên cứu và
công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh ở Đắk Lắk trong thời gian qua (đặc biệt từ
sau khi xẩy ra sự kiện mất ổn định chính trị - xã hội năm 2004 đến nay) chỉ ra
nguyên nhân và rút ra các bài học kinh nghiệm.
+ Phân tích các nhân tố tác động đến tình hình tư tưởng và công tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk như tình hình đời sống, việc phát triển kinh
tế - xã hội; tình hình an ninh, chính trị; âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch.
+ Trên cơ sở dự báo tình hình ở Tây Ngun nói chung và Đắk Lắk nói
riêng trong những năm tới, đề xuất những giải pháp tăng cường công tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
8
Luận văn tập trung nghiên cứu tư tưởng của cán bộ, đảng viên và các
tầng lớp nhân dân, công tác lãnh đạo chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk.
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tư tưởng và công tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk từ năm 2005 đến nay. Những giải pháp nêu
trong luận văn có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận vdăn
5.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về
công tác tư tưởng.
Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh của Đảng về cơng tác tư
tưởng; các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về đồng bào dân
tộc thiểu số nói chung và đối với vùng Tây Ngun nói riêng.
Ngồi ra luận văn cịn sử dụng các tác phẩm và các bài phát biểu của
các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tài liệu của các cơ quan làm công
tác tư tưởng trên địa bàn Tây Nguyên nói chung, Đắk Lắk nói riêng và các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến đề tài luận văn.
Luận văn sử dụng các tài liệu tổng kết thực tiễn, các kết quả, số liệu
điều tra liên quan đến công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp lý luận của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin và sử dụng các phương pháp cụ thể như: logic - lịch sử,
phân tích - tổng hợp, thống kê, đối chiếu với so sánh, điều tra xã hội học, đặc
biệt là phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm luận giải rõ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, vai trò lãnh
đạo của Đảng bộ Đắk Lắk về công tác tư tưởng.
9
Trên cơ sở những số liệu mới nhất, luận văn đề xuất các giải pháp mới
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng đối với việc lãnh
đạo và triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng
tạo sự ổn định góp phần vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội giữ vững an
ninh chính trị ở Đắk Lắk.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiến của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho Đảng bộ Đắk Lắk trong việc hoạch định, điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tư tưởng và vai trị
của nó trong đời sống xã hội nói chung và trong việc ổn định tình hình tư
tưởng chính trị - xã hội ở Đăk Lăk .
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các tổ chức và cấp uỷ
đảng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo trên lĩnh vực tư
tưởng. Ngồi ra luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các trường
Chính trị và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị trên địa bàn Tây Nguyên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.
10
Chương 1
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK
HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐẮK LẮK, ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK LẮK
1.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk hiện nay
Đắk Lắk nằm ở vị trí trung tâm của khu vực Tây Nguyên (gồm 5 tỉnh:
Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng), có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế đối với cả nước nói chung, Tây Nguyên nói riêng.
Nằm ở trung tâm cao nguyên miền Trung Việt Nam, Đắk Lắk được xác định
trong khoảng toạ độ địa lý: 12 09’45” - 13025’06” vĩ độ Bắc và 107 028’57” 108059’37” kinh độ Đơng, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam giáp tỉnh
Lâm Đồng, phía Đơng giáp hai tỉnh Khánh Hồ và Phú n, phía Tây Nam
giáp tỉnh Đắk Nơng và phía Tây giáp với Vương quốc Campuchia.
Đắk Lắk có tổng diện tích tự nhiên 13.125,37 km 2, dân số gần 1,8 triệu
người, mật độ 132 người/km2 (năm 2010), chiếm 24% về diện tích tự nhiên và
36% về dân số của cả Tây Nguyên. Đắk Lắk, nói riêng và Tây Ngun nói
chung có vị trí chiến lược quan trọng về tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn
hố, mơi trường, qn sự và an ninh quốc phịng. Sau khi chia tách để thành
lập tỉnh Đắk Nơng, tỉnh Đắk Lắk hiện nay có 15 đơn vị hành chính cấp
huyện, thị, thành phố gồm: thành phố Bn Ma Thuột - đô thị loại I, trung
tâm tỉnh lỵ, thị xã Buôn Hồ và 13 huyện là: Ea H’Leo, Ea Súp, Buôn Đôn, Cư
M’gar, Krông Buk, Krông Năng, Ea Kar, Krơng Păk, Krơng Ana, M’Đrăk,
Lăk, Krơng Bơng, Cư Kuin. Tồn tỉnh có 152 xã và 32 phường, thị trấn; có
2.351 thơn, bn, tổ dân phố (trong đó có 584 bn đồng bào dân tộc thiểu
số); có 2 huyện, 4 xã giáp tỉnh Mondulkiri - Campuchia; có 27 xã đặc biệt khó
khăn về kinh tế - xã hội.
11
Đắk Lắk có dân số hơn 1,750 triệu người, gồm cộng đồng 44 dân tộc,
trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 30% dân số, dân tộc thiểu số tại chỗ
chiếm hơn 20%, hầu hết sống xen kẽ với người Kinh, cư trú phân bố đều khắp
trên địa bàn của tỉnh [7].
Đắk Lắk hiện có 4 tơn giáo chính là Công giáo, Phật giáo, Cao đài và
Tin lành, với 437.779 tín đồ (chiếm 25,4% dân số). Trong đó, Cơng giáo có
179.138 tín đồ; Tin lành 136.450 tín đồ; Phật giáo 117.952 tín đồ; Cao đài
4.239 tín đồ. Tín đồ là người người dân tộc thiểu số hơn 140.000, chủ yếu
theo đạo Tin lành và Công giáo [1].
Các dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk có đời sống văn hố khá phong phú, đa
dạng và độc đáo, nét nổi bật là những bản trường ca, sử thi, âm nhạc cồng
chiêng và các lễ hội dân gian. Hiện nay, qua nghiên cứu, sưu tầm đã tập hợp
được một kho tàng cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, trường ca, sử thi đồ sộ,
đa dạng, phong phú trong văn hoá nghệ thuật dân gian của đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ tỉnh Đắk Lắk. Bên cạnh văn học dân gian, âm nhạc dân gian
cũng rất đặc sắc, đặc biệt là âm nhạc cồng chiêng và đã được UNESCO cơng
nhận là di sản văn hố phi vật thể của thế giới.
Đồng bào các dân tộc ở tỉnh Đăk Lắk có truyền thống u nước, đồn
kết chống giặc ngoại xâm và xây dựng quê hương, đất nước. Trong suốt hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đồng bào
các dân tộc tỉnh Đắk Lắk cùng với nhân dân cả nước đoàn kết một lịng theo
Đảng, Bác Hồ giải phóng q hương, đất nước.
Sau gần 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đặc biệt
là qua hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát
huy truyền thống đoàn kết, cần cù lao động, vượt qua khó khăn gian khổ,
đẩy mạnh sản xuất, chiến đấu, xây dựng và đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng.
12
Trên lĩnh vực chính trị: quyền bình đẳng về chính trị của đồng bào dân
tộc thiểu số được bảo vệ và quan tâm hơn. Đội ngũ trí thức là con em đồng
bào dân tộc thiểu số ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Hiện nay,
số lượng cán bộ, cơng chức của tỉnh là 33.554 người, trong đó cán bộ dân
tộc thiểu số chiếm 14,4%. Trình độ của cán bộ dân tộc thiểu số cũng được
nâng lên qua các năm. Về chuyên môn, từ đại học trở lên ở cấp tỉnh là
25,5%, cấp huyện chiếm 12,36% [5, tr.16]. Đội ngũ cán bộ là người dân tộc
thiểu số được bố trí, sử dụng hợp lý tại các cơ quan Đảng, đồn thể, chính
quyền các cấp. Quy chế dân chủ ở cơ sở được phát huy theo tinh thần “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”… đã góp phần trong việc tập hợp,
đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước.
Trên lĩnh vực kinh tế, đời sống: thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng và Nhà nước đã có những
chủ trương, chính sách đặc biệt cho từng vùng, từng miền, nhằm đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã thu được kết
quả đáng kể. Thực hiện tốt chủ trương đẩy mạnh chương trình xố đói, giảm
nghèo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số
tại chỗ, đưa thu nhập bình quân đầu người tăng hàng năm. Tính bình qn thu
nhập đầu người giai đoạn 2005-2010 đạt 14,2 triệu đồng/năm/ người, theo giá
so sánh năm 1994 là 7,3 triệu đồng/ người tương đương 963,3USD [29]. Năm
2012 thu nhập bình quân đầu người ước đạt 25 triệu đồng/người, tăng 11,37% so
với năm 2011. Trong 5 năm (2005-2010) đã giải quyết việc làm cho hơn 12 vạn
lao động, trong 3 năm, từ năm 2010 đến năm 2013 gần 8 vạn lao động; tỷ lệ
thiếu việc làm ở khu vực nơng thơn xuống cịn 7,5% (NQ 8%); tỷ lệ thất nghiệp
ở thành thị còn 2,98. Năm 2012, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo giai đoạn
2011-2015) giảm còn 14,39% (giảm 3,43% so với năm 2011). Tồn tỉnh đã
hình thành được nhiều trung tâm cụm xã, thị trấn, thị tứ… Hầu hết các xã
13
trong tỉnh đã có đường ơ tơ đến trung tâm xã, phường, thị trấn; trong đó có
125 xã là đường nhựa, 44 xã đường cấp khối… do đó việc lưu thơng, dịch vụ,
bn bán thuận lợi, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách,
sự chênh lệch giữa các vùng nông thôn với đô thị, vùng gần với vùng sâu,
vùng xa, giữa đồng bào Kinh với đồng bào dân tộc thiểu số.
Về lĩnh vực văn hoá - xã hội: đến nay đã có 97% số xã có trạm y tế,
hơn 80% số xã có bác sĩ, các thơn, bn đều có nhân viên y tế; cơng tác chăm
sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày càng tốt hơn, thực hiện khám chữa bệnh
miễn phí cho người nghèo. Các chính sách về giáo dục con em vùng đồng bào
dân tộc thiểu số trong tỉnh đã tạo ra những chuyển biến sâu sắc cả về số lượng
và chất lượng. Tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số đi học ngày càng tăng, năm học
2008 - 2009, tổng số học sinh từ mầm non đến trung học phổ thông là
167.180 em, chiếm tỷ lệ 32,1% tổng số học sinh toàn tỉnh; học sinh dân tộc
thiểu số tăng bình quân 10%/năm. Năm 2012-2013 số học sinh đến trường
477.961 em tăng 1,2% so với năm 2011. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi đi học mẫu
giáo chiếm 74,2%, học sinh tiểu học cơ sở đúng độ tuổi chiếm 96,9%, đạt
100%. Giáo viên dân tộc thiểu số ngày càng tăng cả về số lượng và chất
lượng; hiện có trên 2.300 người, chiếm gần 10% tổng số giáo viên [36]. Hệ
thống trường lớp đã kiên cố và bán kiên cố, trên 95% ở các huyện trong tỉnh
đều có trường phổ thơng dân tộc nội trú; hàng năm tuyển sinh tiếp nhận hơn
2.500 học sinh dân tộc thiểu số vào đào tạo hệ chính quy ở các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.
Lĩnh vực văn hố - xã hội có bước phát triển khá, trình độ dân trí được
nâng lên, cơng tác y tế bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng. Hoạt
động báo chí, văn hố, văn nghệ, phát thanh truyền hình, phong trào thể dục
thể thao có những chuyển biến tích cực. Hoạt động Thơng tin - Truyền thơng,
thị trường viễn thơng có sự phát triển mạnh mẽ, đảm bảo thông tin thông suốt
đến 100% các xã trên địa bàn, thuê bao điện thoại và internet tăng nhanh, nhất
14
là th bao di động. Bình qn có 69 máy điện thoại/100 dân; 13,8 thuê bao
internet/100 dân; 154/154 xã có báo Nhân dân đọc trong ngày; 139 điểm bưu
điện văn hoá xã.Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý hành chính
được đẩy mạnh. Hệ thống truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số VTC,
truyền hình trực tiếp từ vệ tinh DTH, truyền hình từ internet ngày càng phát
triển đa dạng.
Quốc phịng được tăng cường giữ vững, an ninh chính trị và trật tự xã
hội cơ bản ổn định. Hệ thống chính trị ở các cấp được củng cố, ngày càng
vững mạnh. Những thành tựu đó đã làm thay đổi diện mạo của tỉnh, đời sống
vật chất, văn hoá tinh thần của đồng bào các dân tộc trong tỉnh thực sự được
cải thiện đáng kể.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được tỉnh Đắk Lắk vẫn cịn gặp
những khó khăn nhất định: mặc dù nền kinh tế của tỉnh trong những năm
qua tăng trưởng khá nhưng chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn
chậm, cơ sở hạ tầng còn thấp kém. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, theo thống kê
năm 2011: Tồn tỉnh có 389.322 hộ, 1.747.200 khẩu; có 29.992 hộ nghèo,
số khẩu 126.433, chiếm 7,45% trong đó dân tộc tại chỗ 10.724, các dân tộc
thiểu số khác là 7181 hộ [33]; đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn; khoảng cách giàu nghèo giữa
đơ thị và nơng thơn, nhất là vùng sâu, vùng xa cịn chênh lệch khá lớn… Là
địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phịng,
do vậy trong những năm qua và thời gian gần đây các thế lực thù địch đã
và đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” đối với nước
ta nói chung và Đắk Lắk nói riêng. Bằng nhiều thủ đoạn, chống phá trên
các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hố; lợi dụng các vấn đề “dân tộc”,
“tơn giáo”... tun truyền, kích động, lơi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc
thiểu số biểu tình, gây rối, vượt biên trái phép, gây mất ổn định an ninh
chính trị.
15
1.1.2. Vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của Đảng bộ
tỉnh Đắk Lắk
1.1.2.1. Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt
Nam là một đội ngũ thống nhất về chính trị, tư tưởng trên cơ sở chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, khoa
học. Tính tổ chức của Đảng thể hiện trước tiên ở chỗ Đảng là một hệ thống
các cấp tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, được xây dựng theo nguyên tắc tập
trung dân chủ. Trong hệ thống đó, đảng bộ tỉnh, thành phố là cơ sở, lập thành
nền tảng của Đảng. Ngun lý này chỉ rõ vị trí, vai trị của tổ chức Đảng bộ
tỉnh, thành phố trong hệ thống tổ chức và trong mọi hoạt động của Đảng.
Trong hệ thống tổ chức chính trị của đảng thì đảng bộ cấp tỉnh nói chung
và Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk nói riêng là hệ thống chân rết cực kỳ quan trọng đó
là nền tảng, nền móng, hình thành nên cả tồ nhà xã hội, nền móng có vững
thì tồ nhà mới mạnh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là một bộ phận của hệ thống ấy” [6, tr.21]. Trong hệ thống chính trị ở
tỉnh, đảng bộ tỉnh là một bộ phận lãnh đạo hệ thống chính trị.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
thông qua ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc”. “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững
quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương
lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của
nhân dân. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy
16
tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực
hiện các nguyên tắc : tự phê bình và phê bình, đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Chương II, Điều 9 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: Đảng
Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ
bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc.
Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa
hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở
mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
Chương IV, Cơ quan lãnh đạo của Đảng ở các cấp địa phương, Điều 19
Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam quy định: Cấp uỷ tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi tắt là tỉnh uỷ, thành uỷ), cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, thành uỷ) lãnh đạo
thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên.
Vị trí, vai trị, chức năng nhiệm vụ của đảng bộ tỉnh, thành phố nói
chung được thể hiện trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cũng như các tổ chức đảng bộ các địa phương, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk là
người trực tiếp đưa đường lối, nghị quyết, chủ trương của Ban Chấp hành
Trung ương đến với nhân dân và lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối, chủ trương, nghị quyết; lãnh đạo toàn bộ các hoạt động ở tỉnh
nhằm bảo đảm cho các hoạt động đi đúng với đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, Nghị quyết của tỉnh uỷ;
xây dựng Đảng bộ vững mạnh trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
17
Là hạt nhân chính trị, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk vận dụng sáng tạo đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho phù hợp
với địa phương; cụ thể thành nhiệm vụ, những mục tiêu, chương trình hành
động, bảo đảm cho các hoạt động đó đúng với đường lối, quan điểm của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng bộ tỉnh trực tiếp lãnh đạo xây dựng
chính quyền, các đồn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp,
uốn nắn kịp thời những lệch lạc trong xây dựng, tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị Đắk Lắk.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ thể hiện cụ thể trên các mặt lãnh đạo,
chỉ đạo
Thứ nhất, lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng.
Lãnh đạo thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã - xã
hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ tỉnh và Nghị quyết của Trung ương.
Lãnh đạo chính quyền thực hiện nhiệm vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp, quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn, xây dựng cơ sở hạ
tầng theo quy hoạch, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo
vệ mơi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xố đói, giảm nghèo.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ, thực hiện tốt phương
châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”, giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo
đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mở rộng dân
chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kịp thời giải quyết những vướng
mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật, khơng để
tích tụ mâu thuẫn trở thành điểm nóng, khơng để xẩy ra tình trạng khiếu kiện tập
thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị trên địa bàn .
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phịng tồn dân, và chính sách hậu
phương qn đội, giữ vững an ninh chính trị và trật an tồn xã hội, đề cao tinh
thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, tính mạng và tài sản của nhân dân, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
18
Hai là, lãnh đạo về công tác tư tưởng: Thường xuyên giáo dục bồi
dưỡng, chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh và
phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các tầng lớp nhân
dân, nhất là thanh niên, thiếu niên, xây dựng tình đồn kết gắn bó thương u
giúp đỡ lẫn nhau, xây dựng mơi trường văn hố lành mạnh ở thơn, bản, trong
từng gia đình, chú trọng, tun truyền, nhân rộng gương người tốt, việc tốt,
các nhân tố tích cực trong mọi lĩnh vực.
Lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng về tuyên truyền vận động làm cho
nhân dân hiểu và làm đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương, kịp thời nắm bắt
những tâm tư nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để giải quyết kịp thời
có hiệu quả.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chống tư tưởng cơ hội, thực dụng,
cục bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan,
phịng chống sự suy thối về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là, Đảng bộ lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ.
Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
các đơn vị kinh tế sự nghiệp vững mạnh, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ, từng bước trẻ
hố đội ngũ cán bộ cơng chức trong tồn tỉnh.
Cấp uỷ các cấp xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ, nhận xét,
đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ
thuộc quyền quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ theo
phân cấp, giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có tín nhiệm trong tổ chức đảng và
nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của hội đồng nhân dân, uỷ ban
nhân dân, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân theo luật định và quy định
trong hệ thống chính trị ở địa phương.
19
Cấp uỷ đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia
vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, các đồn thể nhân dân ở cấp
trên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cáp trên quản lý.
Bốn là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Lãnh đạo xây dựng Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở xã vững
mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của mỗi
đoàn thể. Thực hiện tốt chính sách về dân tộc, tơn giáo của Đảng và Nhà
nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của các tầng
lớp nhân dân, thi đua thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng và bảo
vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
các nhiệm vụ của địa phương, trước hết là chủ trương, chính sách về nơng
nghiệp, nơng thơn và các chính sách xã hội khác.
Năm là, lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức đảng.
Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng đảng bộ, chi bộ trong
sạch vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở. Nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng
viên, nhất là việc phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các biểu hiện tiêu cực khác, chú trọng củng cố, xây dựng và nâng cao
chất lượng lãnh đạo của các đảng bộ trực thuộc tỉnh, các đảng bộ bộ phận,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình,
thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt
chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong,
gương mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân mẫu
mực,nghiêm chỉnh chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp
hành nghị quyết của tổ chức đảng, quyết định của chính quyền và chương
trình hành động của các đồn thể nhân dân.
20
Lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho
đảng viên thực hiện nhiệm vụ học tập, khơng ngừng nâng cao trình độ về
mọi mặt; Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên, xử lý
nghiêm, kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
Xây dựng cấp uỷ và bí thư cấp uỷ bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất năng
lực,thực sự là trung tâm đồn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên và
nhân dân tín nhiệm. Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên
chấp hành Điều lệ. Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Phối
hợp với các tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn và các tổ chức cơ sở đảng có
đảng viên, cán bộ, cơng chức đang cư trú trên địa bàn thực hiện các Nghị
quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa
phương.
1.1.2.3. Đặc điểm Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk
Kể từ ngày 01/1/2004, thực hiện Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày
26/11/2003 của Quốc hội (khoá XI), tỉnh Đắk Lắk chia tách thành hai tỉnh
Đắk Lắk và Đắk Nông. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk có 21 đảng bộ trực thuộc, trong
đó 15 đảng bộ huyện, thị xã, thành phố; 02 đảng bộ khối, 03 đảng bộ lực
lượng vũ trang và 01 đảng bộ cơ sở trường Đại học Tây Nguyên; 797 tổ chức
cơ sở đảng (365 đảng bộ và 432 chi bộ); có 4 đảng bộ bộ phận và 4.898 chi
bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở. Tổng số đảng viên là 55.641 đồng chí, trong đó
đảng viên dự bị là 4.825 đồng chí, đảng viên nữ 17.618 đồng chí, tỷ lệ 31,6%;
đảng viên dân tộc thiểu số 8.194 đồng chí, chiếm tỷ lệ 14,72%; đảng viên
trong các tôn giáo 434 đồng chí, tỷ lệ 0,78% [32].
Tồn tỉnh có 184 xã, phường, thị trấn (xã 152, phường 20, thị trấn 12),
với 2.465 thôn, buôn, tổ dân phố (thôn 1.542, buôn 609, tổ dân phố 314);
trong đó có 2.433 thơn, bn, tổ dân phố có chi bộ; 2.461 thơn, bn, tổ dân
21
phố có đảng viên; chưa có đảng viên 4 thơn. Tổng số Trường học trong toàn
tỉnh là 928 trường học, tăng 23 trường so với năm 2011; trong đó có 890
trường học có chi bộ và 914 trường có đảng viên.
Qua kết quả đánh giá của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ năm 2012, tổng số Tổ
chức cơ sở đảng có đến ngày 31/12/2012 là 797 TCCS Đảng, số tổ chức cơ sở
đảng dự phân tích chất lượng năm 2012 là 788 TCCS đảng đạt 98,8%; Số
TCCS đảng đạt trong sạch vững mạnh 575 chiếm tỷ lệ 72.97%, TCCS đảng
xã, phường, thị trấn TSVM là 105/184 chiếm tỷ lệ 57.07% ; TCCS đảng hoàn
thành tốt nhiệm vụ là 166=21,07%, TCCS đảng hoàn thành nhiệm vụ là
44=5,58%, TCCS đảng yếu kém 03,38% [3].
Kết quả phân loại đảng viên năm 2012, Đảng viên đủ tư cách hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ 7.235 đạt 13,86%; Đảng viên đủ tư cách hoàn thành
tốt nhiệm vụ [4].
Các đồng chí ở trong Ban Chấp hành Tỉnh uỷ các khoá từ khoá 1 đến
15 do Đại hội Đảng bộ các nhiệm kỳ bầu ra, là những đảng viên trưởng thành,
được rèn luyện, thử thách trong đấu tranh cách mạng, nên họ vững vàng về tư
tưởng, chính trị, có năng lực, tâm huyết với Đảng với cách mạng; gương mẫu
trong lối sống, trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Nhiều đồng chí là đảng viên cựu chiến binh là
cấp tá, cấp tướng đã kinh qua trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, có kinh nghiệm cơng tác, có nhiều đóng góp trong
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của đảng bộ, chính quyền và đoàn thể.
Số cán bộ chủ chốt, đảng viên trẻ xuất thân sau năm 1975 có kiến thức,
sức khoẻ, năng động sáng tạo ln là nịng cốt trong các phong trào của địa
phương. Trình độ của Ban Chấp hành Đảng bộ đã được nâng lên qua các
nhiệm kỳ đại hội. Trong những năm gần đây, số cán bộ có trình độ tiến sĩ,
thạc sĩ ngày càng tăng. Hầu hết đã được đào tạo rình độ lý luận chính trị cao
cấp khi được bầu vào cấp uỷ.
22
Trình độ chun mơn, lý luận chính trị của đa số đảng viên được nâng
lên rõ rệt do được các cấp uỷ đảng và các cơ quan chức năng cử đi đào tạo,
bồi dưỡng tại trường Chính trị của tỉnh, của huyện hoặc thông qua những
lớp học nghị quyết, các cuộc thi tìm hiểu về Đảng.v.v.. các lớp lý luận dành
cho đảng viên trẻ, lớp lý luận cho đối tượng đảng để họ đạt trình độ khi ra
nhập Đảng.
1.2. CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐẮK LẮK - QUAN
NIỆM, VAI TRỊ, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ HÌNH THỨC TIẾN HÀNH
1.2.1. Quan niệm công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk
1.2.1.1. Khái niệm công tác tư tưởng, quan niệm về công tác tư
tưởng của Đảng
Công tác tư tưởng theo nghĩa rộng, là hoạt động có mục đích của một giai
cấp, một chính đảng nhằm hình thành, phát triển và truyền bá hệ tư tưởng trong
quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng.
Công tác tư tưởng theo nghĩa hẹp, là hoạt động truyền bá hệ tư tưởng,
đường lối, chính sách của Đảng trong quần chúng; động viên, cổ vũ quần
chúng tham gia xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm
phiến diện về công tác tư tưởng, vì đã đồng nhất cơng tác tư tưởng với công
tác tuyên truyền và công tác cổ động; không coi công tác lý luận là một bộ
phận hợp thành của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã
hội là hoạt động có mục đích của Đảng Cộng sản và Nhà nước nhằm phát
triển, truyền bá hệ tưởng xã hội chủ nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa
thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần xã hội, động
viên, cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Các yếu tố và các bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng là một hệ thống hoạt động bao gồm những yếu tố cơ
bản như: chủ thể, khách thể, mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện,
hình thức và hiệu quả.
23
Chủ thể công tác tư tưởng: Gồm các giai cấp, các tổ chức, các cộng
đồng xã hội có lợi ích gắn liền với các hoạt động tư tưởng. Nó bao gồm chủ
thể của hệ tư tưởng (một giai cấp, một chính đảng); các cơ quan và thiết chế
tư tưởng được chủ thể hệ tư tưởng tổ chức ra, các chức năng sáng tạo, truyền
bá, bảo quản, lưu giữ hệ tư tưởng và các nhà tư tưởng.
Trong xã hội ta, chủ thể cơng tác tư tưởng là tồn Đảng, là tồn bộ hệ
thống chính trị, là các cán bộ tư tưởng và cơ quan tuyên giáo các cấp, các
ngành, các đoàn thể, cơ quan chính trị trong lực lượng vũ trang và lực lượng
tham mưu giúp cấp uỷ Đảng chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác tư tưởng
trong Đảng và trong tồn xã hội. Trong đó, cơ quan tun giáo là lực lượng
trực tiếp tiến hành công tác tư tưởng trên phạm vi tồn xã hội.
Khách thể cơng tác tư tưởng: Gồm các đối tượng chịu sự tác động về
mặt tư tưởng của chủ thể, đó là ý thức, hành vi, nhận thức, thái độ, niềm tin và
hành động của cá nhân, tập thể, tầng lớp, giai cấp... trong toàn xã hội và là ý
thức xã hội. Khách thể của cơng tác tư tưởng cịn là các quan hệ xã hội của
con người, bởi vì các quan hệ xã hội là tác động gián tiếp, nhưng là cái sâu xa
làm cho ý thức, thái độ, hành vi của con người thay đổi.
Mục đích cơng tác tư tưởng: Nhằm hiện thực hoá những kết quả mong
muốn đạt tới; là sự dự báo trước về sản phẩm tương lai của hoạt động tư
tưởng. Mục đích chung, bao qt của cơng tác tư tưởng là hình thành một
kiểu ý thức hệ tương ứng với một hình thái kinh tế - xã hội hay một kiểu kiến
trúc thượng tầng nhất định và làm xuất hiện một loại hình tinh thần mang tính
tích cực xã hội của con người.
Nội dung công tác tư tưởng: Gồm nội dung các hoạt động mà chủ thể
công tác tư tưởng phải tiến hành để thực hiện mục đích. Nội dung do mục
đích và nhiệm vụ cụ thể của cơng tác tư tưởng ở mỗi giai đoạn cách mạng
quy định.
Phương pháp cơng tác tư tưởng: Đó là con đường, cách thức, biện pháp
mà chủ thể sử dụng để truyền đạt và đối tượng sử dụng để lĩnh hội, tiếp nhận
24
nội dung nhằm đạt mục đích. Phương pháp cơng tác tư tưởng trước hết do đối
tượng quy định, đồng thời cịn do mục đích và nội dung quy định.
Hình thức công công tác tư tưởng: Là những biểu hiện của nội dung
công tác tư tưởng, gồm các kiểu tổ chức hoạt động truyền bá và tiếp nhận nội
dung của chủ thể và đối tượng. Hình thức cơng tác tư tưởng rất đa dạng,
phong phú, việc lựa chọn hình thức nào là do đối tượng và nội dung quy định.
Phương tiện công tác tư tưởng: Là những vật mang nội dung và
phương pháp tác động tư tưởng, là những công cụ công tác của chủ thể sử
dụng để cho đối tượng tiếp nhận, lĩnh hội nội dung.
Hiệu quả công tác tư tưởng: Gồm những kết quả mà công tác tư tưởng
đạt được so với mục đích của cơng tác tư tưởng được đặt ra từ trước trong
một điều kiện xã hội nhất định và với một chi phí nhất định. Hiệu quả hoạt
động tư tưởng cũng là một yếu tố điều chỉnh, là kênh thông tin phản hồi, là
kết quả của chu trình tác động tư tưởng đã qua; đồng thời là xuất phát điểm
của chu trình tác động mới, tiếp theo.
Nguyên tắc công tác tư tưởng: Là những quy định cơ bản do chủ thể
công tác tư tưởng xác định để trên cơ sở đó lựa chọn nội dung, cách thức tổ
chức và phương pháp tác động đến khách thể nhằm đạt mục đích đặt ra.
Nguyên tắc cũng là cơ sở phương pháp luận để xem xét phương hướng tư
tưởng chính trị của nội dung và đánh giá chính xác hiệu quả công tác tư
tưởng. Những nguyên tắc cơ bản nhất trong cơng tác tư tưởng là: ngun
tắc tính đảng, nguyên tắc tính khoa học, nguyên tắc tính thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn. Nguyên tắc này là một thể thống nhất không tách rời; cơ
sở của sự thống nhất đó là bản chất cách mạng, khoa học của hệ tư tưởng
Mác - Lênin.
Các hình thái của cơng tác tư tưởng
Cơng tác tư tưởng là một q trình liên tục gồm nhiều khâu, nhiều bộ
phận kế tiếp nhau, trong đó có ba q trình hay ba bộ phận cơ bản: quá trình
25
sáng tạo hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối, chính sách;
q trình truyền bá hệ tư tưởng và đường lối, chính sách; quá trình biến hệ tư
tưởng, đường lối, chính sách thành hiện thực. Ba quá trình này được V.I.Lênin
gọi một cách tương ứng là công tác lý luận, công tác tuyên truyền và cơng tác
cổ động.
Cơng tác lý luận là một hình thái của công tác tư tưởng hướng vào việc
nghiên cứu, xây dựng bảo vệ và phát triển sáng tạo hệ tư tưởng, biến nó
thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội.
Xây dựng hệ tư tưởng là cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối
chính trị của giai cấp, của một chính đảng. Với cách hiểu đó, cơng tác lý luận
của Đảng ta bao gồm việc nghiên cứu nhằm xây dựng hệ thống quan điểm lý
luận và cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chính sách, các quyết
định của Đảng và Nhà nước; đấu tranh, phê phán các trào lưu tư tưởng sai
trái, thù địch; thông tin lý luận, tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận của Đảng. Trên mặt trận tư tưởng nói chung, cơng tác lý luận là
hình thái giữ vai trị trọng yếu nhất.
Cơng tác tun truyền nhằm truyền bá hệ tư tưởng và đường lối chiến
lược, sách lược trong quần chúng, xây dựng cho quần chúng thế giới quan
phù hợp với lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng, hình thành và củng cố niềm tin,
tập hợp và cổ vũ quần chúng hành động theo thế giới quan và niềm tin đó.
Cơng tác tun truyền của Đảng ta là hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng; xây dựng
niềm tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng; khơi dậy tính sáng tạo của quần
chúng, động viên lực lượng quần chúng tham gia, góp phần tổ chức các phong
trào cách mạng.
Công tác cổ động là sự tác động của chủ thể vào tâm lý, tình cảm của
đối tượng, nhằm tạo nên một ấn tượng mạnh ở đối tượng, kích thích và thúc
đẩy họ hăng hái hành động, góp phần chuyển biến hành vi của đối tượng.
Cơng tác cổ động có vai trị hết sức quan trọng, nó là hoạt động có hiệu quả