Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Công tác tư tưởng của đảng bộ tỉnh nam định hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.88 KB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln coi cơng tác tư tưởng là bộ phận trọng yếu của công tác xây
dựng Đảng, là nhân tố cấu thành quan trọng hàng đầu trong sự lãnh đạo của
Đảng đối với xã hội. Sinh mệnh của Đảng cũng như sự thành bại của cách
mạng có quan hệ trực tiếp với hoạt động tư tưởng của Đảng. Người nhấn
mạnh công tác tư tưởng là mặt trận mà mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải
là chiến sĩ xung kích trên mặt trận ấy. Trong tổ chức thực hiện, công tác tư
tưởng phải đi trước một bước, không ngừng đổi mới để phù hợp với những
điều kiện cụ thể của hoàn cảnh, đối tượng, nâng cao hiệu quả, phục vụ cho sự
nghiệp chung của cách mạng.
Thực tiễn hoạt động của Đảng ta đã cho thấy, cơng tác chính trị tư
tưởng đã góp phần định hướng nhận thức, xây dựng và củng cố niềm tin của
các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó tự giác thực hiện
thắng lợi đường lối cách mạng mà Đảng đã đề ra.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo tiến hành cơng cuộc
đổi mới tồn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều
diễn biến phức tạp khó lường: Xu thế hình thành thế giới đa cực với những
tương quan chính trị, kinh tế, quân sự mới; cuộc khủng hoảng tài chính gây
nhiều khó khăn đối với nền kinh tế thế giới, tác động mạnh vào nước ta làm
bộc lộ những yếu kém của nền kinh tế và của cả công tác quản lý, điều hành
nền kinh tế. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch trong và ngồi nước vẫn khơng
ngừng tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam... Trong bối cảnh đó, địi
hỏi cơng tác tư tưởng phải hết sức tập trung, phát huy cao độ trí tuệ, tâm
huyết, kinh nghiệm, khắc phục bằng được những yếu kém, bất cập, đổi mới
mạnh mẽ nội dung, phương pháp, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả



2
hoạt động, phấn đấu góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức,
ngày càng phát triển vững mạnh hơn. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề đối với
cơng tác tư tưởng nói riêng và của cả hệ thống chính trị.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
X) về cơng tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, đã chỉ rõ:
… Đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ; làm
cho tồn Đảng, tồn dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan
điểm, nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Kiên trì đấu tranh bảo vệ lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, thường xuyên gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng
với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
đối ngoại. Tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực,
phát huy chủ nghĩa yêu nước, năng lực thực thi dân chủ, tinh thần sáng
tạo, tự lực, tự cường, tạo ra phong trào hành động cách mạng của tồn
dân thực hiện thắng lợi cơng cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác tư tưởng, trong những
năm qua, các cấp uỷ Đảng tỉnh Nam Định đã thường xuyên quan tâm lãnh
đạo triển khai có hiệu quả cơng tác tư tưởng trong toàn Đảng bộ, tạo sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, góp phần xây dựng
Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đóng góp quan trọng
vào sự phát triển tồn diện của địa phương; phát hiện những điển hình, nhân
tố mới, cổ vũ động viên phong trào thi đua yêu nước, góp phần giải quyết
những khó khăn, bức xúc trong nhân dân, tạo niềm tin tưởng của nhân dân đối
với Đảng. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của thời kỳ mới và những vấn đề
thực tiễn nảy sinh, công tác tư tưởng của Đảng bộ Nam Định đã bộc lộ không



3
ít bất cập, chưa đáp ứng được địi hỏi thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố nơng nghiệp, nơng thơn hiện nay, thậm chí có lúc, có nơi diễn biến tư
tưởng của cán bộ, nhân dân trở thành những vấn đề phức tạp, bức xúc, có
nguy cơ gây mất ổn định ở một số địa phương, tác động tiêu cực đến việc
thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Về chủ quan, nguyên nhân của tình
trạng trên là do trong những năm qua chưa huy động được sự vào cuộc của hệ
thống chính trị với sự tham gia đóng góp của nhân dân đối với cơng tác tư
tưởng; mặt khác cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, tính chiến đấu cịn hạn
chế, chậm được khắc phục. Một số cấp uỷ Đảng, nhất là ở cơ sở chưa thực sự
quan tâm và coi trọng công tác tư tưởng.
Thực trạng trên cần được kịp thời giải quyết, chấn chỉnh trên nhiều
mặt, trong đó vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định vừa là yêu cầu mang tính bức thiết, vừa là
nhiệm vụ có ý nghĩa lâu dài. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài
“Công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định hiện nay - Thực trạng và
giải pháp" làm luận văn thạc sĩ tốt nghiệp chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về công tác tư
tưởng của Đảng, kết quả nghiên cứu được cơng bố trên các sách, báo, tạp chí và
báo cáo tại các hội thảo khoa học, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ. Cụ thể:
* Một số sách, bài viết trên các báo, tạp chí:
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tiếp tục đổi mới và nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, văn hố trong tình hình mới, Nhà
xuất bản (Nxb) Chính trị quốc gia (CTQG), Hà Nội (1999);
- Nguyễn Đức Bình, Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và văn
hóa, Nxb CTQG, Hà Nội (2001);
- Đào Duy Quát (chủ biên), Một số vấn đề về công tác tư tưởng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội 2002;



4
- Nông Đức Mạnh, Nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng,
Tạp chí Thơng tin Cơng tác tư tưởng, số 6 (2001);
- Nguyễn Phú Trọng, Về cuộc đấu tranh tư tưởng trong tình hình hiện
nay, Tạp chí Cộng sản số 774, tháng 11 (2005);
- Tô Huy Rứa, Công tác tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay,
Báo Quân đội nhân dân, tháng 8 (2009).
- Đào Duy Quát, Tăng cường công tác tư tưởng thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Trung ương 4, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ra ngày
29/4/2012.
- Nguyễn Viết Thông, Công tác tư tưởng trong quá trình đổi mới đất
nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Tuyên giáo điện tử.
- Nguyễn Bá Dương, Tránh bị lây nhiễm, mắc bệnh" thối hóa về đạo
đức, lối sống, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ra ngày 13/4/2012.
- Tự phê bình và phê bình là giải pháp hiệu quả để xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản, ra ngày 21/5/2012.
* Một số luận văn thạc sĩ bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh những năm gần đây:
- Nguyễn Minh Tân (2003), Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng
của Đảng bộ tỉnh Tiền Giang trong giai đoạn hiện nay;
- Nguyễn Thanh Tâm (2004), Chất lượng công tác tư tưởng của Đảng
bộ tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay;
- Hoàng Quốc Đạt (2005), Cơng tác tư tưởng của Đảng bộ thành phố
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay;
- Nguyễn Văn Luân (2010), Cơng tác tư tưởng của đảng uỷ cấp xã ở
Bình Thuận hiện nay;
- Nông Đức Ngọc (2011), Công tác tư tưởng của Đảng ở Lào Cai hiện
nay - Thực trạng và giải pháp.

Nhìn chung, qua phân tích kết quả nghiên cứu của các tác giả trên cho
thấy các cơng trình, bài viết được thực hiện dưới nhiều góc độ khác nhau, các


5
tác giả tập trung đi sâu phân tích các quan điểm, giải pháp về công tác tư
tưởng một cách chung nhất; các quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp… Tuy nhiên, nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về công
tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định thì chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách tồn diện, có hệ thống từ góc độ chính trị học. Chính vì vậy,
trên cơ sở nghiên cứu, tìm tịi với việc kế thừa, chọn lọc một số cơng trình
nghiên cứu đã được công bố, tác giả mong muốn sẽ góp phần làm cho vấn đề
này được nghiên cứu một cách có chọn lọc, hệ thống hơn, cụ thể hơn đáp ứng
với yêu cầu thực tiễn của Nam Định.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu
Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về cơng tác tư tưởng,
khảo sát đánh giá tình hình và thực trạng công tác tư tưởng ở Nam Định, luận
văn đưa ra quan điểm và đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao
chất lượng cơng tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về công tác tư tưởng liên quan
đến chủ đề luận văn.
- Đánh giá thực trạng chất lượng, chỉ rõ ưu, khuyết điểm, nguyên
nhân và kinh nghiệm công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định.
- Đưa ra các quan điểm và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động liên quan đến công tác tư

tưởng ở tỉnh Nam Định, bao gồm cấp tỉnh, các huyện, thành, đảng uỷ trực
thuộc và cấp cơ sở.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng tình
hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân và công tác tư tưởng
của Đảng bộ tỉnh Nam Định từ đầu nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng đến nay.


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về công tác tư tưởng,
được thể hiện qua các Văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần
thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khố X) về “Cơng tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước u cầu mới”. Đồng thời tham khảo có chọn lọc một số
cơng trình khoa học, các luận văn của một số tác giả đã nghiên cứu có liên
quan đến công tác tư tưởng; sử dụng các nghị quyết, văn bản chỉ đạo, các báo
cáo sơ kết, tổng kết, đánh giá thực tiễn có liên quan đến cơng tác tư tưởng của
tỉnh Nam Định những năm gần đây.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng lý luận và phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; kết hợp chặt chẽ giữa
lý luận và thực tiễn. Sử dụng các phương pháp khảo sát, thống kê, lơgíc và
lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh và một số phương pháp chuyên ngành và
liên ngành khác.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
Trên cơ sở tiếp cận từ góc độ Chính trị học, Luận văn đánh giá đúng
tình hình tư tưởng và thực trạng chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ
tỉnh Nam Định hiện nay, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần
nâng cao chất lượng công tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Nam Định, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị thời kỳ mới.

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực
tiễn, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ Đảng trong việc tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận thực tiễn tại địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CÔNG TÁC
TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

1.1.1. Khái niệm tư tưởng và công tác tư tưởng
* Khái niệm tư tưởng
Thuật ngữ tư tưởng (idea - tiếng Anh) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
idéa (hình tượng). Cho đến nay, đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về
khái niệm này. Từ điển triết học định nghĩa: tư tưởng “là phản ánh của hiện
thực trong ý thức, là biểu hiện của sự quan hệ của con người đối với thế giới
xung quanh” [61, tr.734]. Theo Đại từ điển Tiếng Việt, tư tưởng là những
“quan điểm và ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã
hội” [25, tr.1757]. Nhìn chung, tư tưởng là suy nghĩ, là quan điểm và ý nghĩ
chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội. Trong mục “Tìm
hiểu khái niệm” của Tạp chí Cộng sản (số 1/1993) cho rằng: “Tư tưởng là
những suy nghĩ, những ý niệm về các sự vật, hiện tượng được phản ánh trong
ý thức, là biểu hiện các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh. Tư
tưởng do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết định.

Thực chất và nguồn gốc tư tưởng ở trong cơ sở kinh tế, trong điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội, trong tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, đời sống xã hội có hai loại nhu cầu
cơ bản: nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần; do đó, có hai lĩnh vực sản xuất
là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần để đáp ứng các nhu cầu đó. Tư tưởng
và quan điểm tư tưởng thuộc lĩnh vực tinh thần, ý thức xã hội; chịu sự tác
động mang tính quyết định của tồn tại xã hội, của lĩnh vực vật chất. Khi tồn
tại xã hội thay đổi thì sớm hay muộn ý thức xã hội cũng thay đổi theo. C.Mác


8
đã khẳng định: “Không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ mà
chính tồn tại của họ quyết định ý thức của họ” [36, tr.15]. Bất cứ tư tưởng nào
cũng đều do chế độ xã hội, điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quyết
định. Nhưng, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, tác động tích cực trở lại
tồn tại xã hội, góp phần cải tạo thế giới khách quan thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội, mỗi
người không ngừng nhận thức thế giới, hình thành những khái niệm trong ý
thức của họ. Nhưng, do mục đích của q trình nhận thức là nhằm cải tạo
hiện thực khách quan, nên ý thức của con người không chỉ dừng lại ở các
khái niệm, mà từ các khái niệm đó hình thành nên những chủ kiến, dự định,
kế hoạch hành động của họ. Vì vậy, tư tưởng là hình thức cao của nhận
thức, là những mục tiêu, kế hoạch nhằm tiếp tục nhận thức và cải tạo thế
giới khách quan.
Tư tưởng là sản phẩm chủ quan của con người, nhưng tư tưởng của mỗi
người lại phụ thuộc chặt chẽ vào đối tượng phản ánh và trình độ nhận thức
của họ. Sự vận động và phát triển của thực tại khách quan tác động vào tư
tưởng và làm thay đổi nhận thức, tư tưởng của con người. Như vậy, tư tưởng
là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực thơng qua trí óc con người.
Tư tưởng xuất hiện trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định,

ln có tác động trở lại cơ sở kinh tế làm nảy sinh ra nó và có thể làm thay
đổi cơ sở kinh tế trong những giới hạn nhất định, thông qua hoạt động của
những lực lượng xã hội. Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng khác
nhau: thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tư tưởng tiến bộ, cách mạng, khoa học mang
tính vượt trước trên cơ sở nắm bắt được quy luật khách quan có vai trị to lớn,
tác động tích cực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội. Tư tưởng lạc
hậu, lỗi thời, phản động sẽ tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của xã
hội. Tính chất, hậu quả tác động của ý thức xã hội nói chung và tư tưởng nói
riêng phụ thuộc vào vai trị lịch sử của giai cấp thống trị xã hội, thể hiện ở


9
trình độ của sự phù hợp giữa ý thức, tư tưởng đối với hiện thực, mức độ
truyền bá, sự thâm nhập của ý thức, tư tưởng vào các tầng lớp nhân dân.
Tư tưởng của con người luôn gắn liền với lợi ích; quan hệ lợi ích tác
động trở lại tư tưởng, chi phối quá trình nhận thức và hoạt động của con
người. Theo V.I.Lênin, “những lý tưởng cao cả nhất cũng không đáng giá một
xu nhỏ, chừng nào mà người ta khơng biết kết hợp chặt chẽ những lý tưởng
đó với lợi ích của chính ngay những người đang tham gia cuộc đấu tranh kinh
tế” [29, tr.510-511].
Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của
giai cấp thống trị. Trong xã hội có giai cấp ln có sự đấu tranh tư tưởng giữa
các giai cấp để truyền bá, thu phục, lôi kéo các tầng lớp nhân dân theo quan
điểm tư tưởng của giai cấp mình, nhằm biến tư tưởng thành sức mạnh hành
động nhằm giành thắng lợi trong đấu tranh giai cấp. Đấu tranh tư tưởng là
một trong những hình thức đấu tranh giai cấp trong xã hội. Trong lịch sử các
giai cấp thống trị xã hội đã phát triển tư tưởng của giai cấp mình thành hệ tư
tưởng. Hệ tư tưởng là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (về chính trị, triết
học, đạo đức, khoa học, nghệ thuật, tơn giáo...) phản ánh lợi ích của các giai

cấp, tầng lớp trong xã hội.
Tư tưởng và hệ tư tưởng trong xã hội có giai cấp là sự phản ánh lợi ích
của các giai cấp thơng qua lăng kính của các nhà tư tưởng. Họ có thể khơng
thuộc giai cấp mà họ tự nguyện đứng ra bảo vệ lợi ích, nhưng chắc chắn tư
tưởng của họ bị quy định bởi lợi ích vật chất và địa vị xã hội của giai cấp ấy.
Nói cách khác, họ tự nguyện đứng vào hàng ngũ giai cấp được phản ánh
trong tư tưởng, và lợi ích của bản thân họ cũng gắn liền với lợi ích của giai
cấp đó. Chẳng hạn, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đều xuất thân từ các giai
cấp khác, nhưng các ông lại là những nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp vơ
sản. Hình thức của tư tưởng và hệ tư tưởng được biểu hiện thông qua các


10
hình thái ý thức xã hội như: triết học, chính trị, tôn giáo, văn học - nghệ
thuật, khoa học...
Sự ra đời và tồn tại của tư tưởng và hệ tư tưởng gắn liền với tồn tại xã
hội, với lợi ích của con người. Muốn xây dựng, truyền bá hay giải quyết các
vấn đề về tư tưởng có hiệu quả phải căn cứ tồn tại xã hội, quan tâm đến lợi
ích thiết thân, chính đáng của con người. Mặt khác, tư tưởng và hệ tư tưởng
cịn có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ tư
tưởng và hệ tư tưởng có khi tiên tiến, vượt trước lại có khi lạc hậu so với tồn
tại xã hội. Do vậy, tư tưởng và hệ tư tưởng đều địi hỏi khơng ngừng được bổ
sung, hồn thiện để phản ánh đúng khuynh hướng không ngừng vận động,
phát triển của tồn tại xã hội.
Tư tưởng và hệ tư tưởng tác động trở lại hiện thực thông qua vai trị chỉ
đạo của nó đối với hành động con người. Muốn có hành động thống nhất
trong tồn xã hội, trước hết, cần phải tạo được sự thống nhất về tư tưởng. Chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Để
phát huy vai trò của con người, của quần chúng nhân dân, góp phần thúc đẩy
sự nghiệp cách mạng tiến lên phải làm cho tư tưởng và hệ tư tưởng vô sản

ngày càng hoàn thiện và thâm nhập vào quần chúng để trở thành “lực lượng
vật chất”. Đó chính là do sự ra đời và tồn tại công tác tư tưởng của các Đảng
Cộng sản trong cách mạng XHCN.
* Khái niệm công tác tư tưởng
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động cách mạng của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản. Công tác tư
tưởng là bộ phận quan trọng hàng đầu của công tác cách mạng. Lênin trong
bài báo “Những bài học của cuộc khởi nghĩa Mát-xcơ-va” đã nhấn mạnh:
“Nâng cao sự giác ngộ của quần chúng, hiện nay cũng như bất cứ lúc nào, vẫn
là nền tảng và nội dung chủ yếu của tồn bộ cơng tác của chúng ta” [34,
tr.472]. Hồ Chí Minh cũng đã đánh giá: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh
đạo tư tưởng” [40, tr.466].


11
Công tác tư tưởng là khái niệm khá quen thuộc trong xã hội ta, song
khơng phải ai cũng hiểu nó một cách tường tận, đầy đủ. Có nhiều cách tiếp
cận khác nhau để đi đến khái niệm về công tác tư tưởng, chẳng hạn:
- Cách tiếp cận CTTT theo quá trình hình thành, phát triển và truyền bá
hệ tư tưởng của các giai cấp giữ vị trí thống trị trong lịch sử: “Cơng tác tư
tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một chính đảng nhằm hình
thành và phát triển hệ tư tưởng, truyền bá hệ tư tưởng trong quần chúng, thúc
đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể hệ tư tưởng” [45, tr.11-12]. Một
số tác giả quan niệm CTTT nói chung: “Là việc sử dụng tổng hợp các thành
quả của khoa học, nghệ thuật và phương pháp tác động vào ý thức, tình cảm,
hành động của con người và của xã hội để hình thành, củng cố hoặc làm
chuyển biến tư tưởng con người một cách có chủ định, đồng thời qua đó để
định hướng hoạt động của con người” [26, tr.38].
- Cách tiếp cận CTTT theo quá trình hình thành, phát triển và truyền bá
hệ tư tưởng chỉ của giai cấp vô sản: “Công tác tư tưởng là hoạt động đa dạng

và quan trọng vào bậc nhất của Đảng Mác - Lênin và Nhà nước xã hội chủ
nghĩa nhằm xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, hình
thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp phần xây dựng thế giới quan
khoa học cho con người, thúc đẩy con người hành động tích cực và sáng tạo
để thực hiện thắng lợi tư tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội” [44, tr.23].
Theo tác giả Đào Duy Tùng: “Công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành
rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng. Công tác tư
tưởng cùng với công tác tổ chức góp phần xây dựng Đảng thành đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Nó có nhiệm vụ giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương, đường
lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng, nhằm nâng cao tính tự
giác, chủ động, sáng tạo của họ trong việc thực hiện những nhiệm vụ chính
trị cụ thể do Đảng đề ra; đồng thời nó cũng góp phần vào việc hình thành


12
chủ trương, đường lối của Đảng... góp phần quan trọng vào việc xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa, vào việc hình thành thượng tầng kiến trúc
mới về mặt hình thái ý thức” [59, tr.7-8].
- Gắn liền với CTTT của Đảng Cộng sản Việt Nam, có một số quan
niệm sau: Tác giả Trần Trọng Tân quan niệm: “Công tác tư tưởng của Đảng
Cộng sản Việt Nam chúng ta là nhằm xây dựng cho con người có tư tưởng
đúng để hành động đúng, thúc đẩy con người tiến bộ, xã hội phát triển và đấu
tranh chống lại những tư tưởng sai, dẫn đến những hành động sai, làm cản trở
hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội; làm cho con người lạc hậu, thối hóa”
[48, tr.162]. Tác giả Hữu Thọ có quan niệm: “Cơng tác tư tưởng - văn hóa là
hoạt động quan trọng của Đảng và Nhà nước XHCN nhằm xác lập, phát triển
hệ tư tưởng XHCN, hình thành niềm tin, định hướng giá trị đúng đắn, góp
phần xây dựng thế giới quan khoa học và tư tưởng, tình cảm, nhân cách, đạo
đức, lối sống, tri thức bảo đảm con người có hành động tích cực và chủ động,

sáng tạo để thực hiện thắng lợi tư tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; trong giai đoạn này là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xă hội công bằng, văn minh theo
định hướng XHCN” v.v... [6, tr.1]
Các cách tiếp cận CTTT từ nhiều góc độ khác nhau, đều có yếu tố hợp
lý nhất định. Về cơ bản, nội hàm của khái niệm công tác tư tưởng đề cập đến
chủ thể, đối tượng công tác tư tưởng; vị trí, vai trị cơng tác tư tưởng đối với
giai cấp, chính đảng; các hình thái hoạt động của công tác tư tưởng; các
nhiệm vụ để đạt mục tiêu công tác tư tưởng.
Các khái niệm về CTTT đề cập ở trên cho thấy, bản chất công tác tư
tưởng của các Đảng Cộng sản theo quan điểm Mác - Lênin là hoạt động có
chủ đích do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm làm cho tư tưởng
và hệ tư tưởng của giai cấp đó chi phối tồn bộ xã hội, góp phần vào sự
thành cơng của cách mạng XHCN vì lợi ích giai cấp vơ sản và lợi ích dân tộc.


13
Từ các cách định nghĩa nêu trên, có thể cho rằng, công tác tư tưởng ở
nước ta hiện nay là hoạt động chính trị quan trọng do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, có nhiệm vụ bảo vệ, phát triển và truyền bá chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước; thơng tin có định hướng của Đảng trên tất cả mọi mặt của đời sống
xã hội. công tác tư tưởng nhằm xây dựng ý thức XHCN; định hướng giá trị
xã hội đúng đắn; góp phần xây dựng thế giới quan khoa học và nhân cách
con người phù hợp yêu cầu cách mạng hiện nay, thúc đẩy họ tự giác, tích
cực tham gia vào sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước tiến
tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh” theo
định hướng XHCN.
1.1.2. Các yếu tố của công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng bao gồm các yếu tố sau: Chủ thể, khách thể của cơng
tác tư tưởng, mục đích, nội dung, ngun tắc, phương pháp, phương tiện, hình

thức tổ chức và hiệu quả cơng tác tư tưởng.
- Chủ thể công tác tư tưởng: Bao gồm chủ thể của hệ tư tưởng là giai
cấp và chính đảng của nó; các cơ quan và thiết chế công tác tư tưởng, thường
gắn liền với hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền; các
nhà tư tưởng của chủ thể đó và đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng. Do
công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích, có chủ định của một chính đảng
của một giai cấp, nên vai trị của chủ thể cơng tác tư tưởng có ý nghĩa quyết
định đến sự thành cơng của nó.
Trong cách mạng dân tộc, dân chủ và xây dựng CNXH, khi Đảng Cộng
sản trở thành Đảng cầm quyền thì chủ thể cơng tác tư tưởng là toàn Đảng
(trước hết là tổ chức đảng, bí thư cấp uỷ và tồn thể cán bộ, đảng viên); cơ
quan tuyên giáo các cấp, các ngành, cơ quan chính trị các cấp trong lực lượng
vũ trang là lực lượng tham mưu giúp cấp uỷ chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra
cơng tác tư tưởng trong đảng và tồn xã hội. Cán bộ tuyên giáo và các cơ


14
quan có chức năng giáo dục tư tưởng là lực lượng trực tiếp tiến hành công tác
tư tưởng trên phạm vi tồn xã hội.
- Khách thể cơng tác tư tưởng: Là các đối tượng chịu sự tác động về mặt
tư tưởng của chủ thể (bao gồm cá nhân, tập thể, tầng lớp, giai cấp…). Khách
thể của công tác tư tưởng còn là các quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với
người trong xã hội. Nói tóm lại, khách thể của công tác tư tưởng là các cá
nhân, tập thể mà chủ thể tư tưởng chọn để tác động. Vì vậy, xét trong mối
quan hệ này, có thể là chủ thể của cơng tác tư tưởng; cịn trong mối quan hệ
khác, có thể là đối tượng của cơng tác tư tưởng. Cho nên, công tác tư tưởng
phải được tiến hành cả trong Đảng và ngoài xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên
CNXH tồn tại nhiều thành phần kinh tế và trong điều kiện tồn cầu hố, bùng
nổ thơng tin hiện nay, khách thể của công tác tư tưởng chịu sự tác động của
nhiều luồng tư tưởng khác nhau; chịu sự tác động của các yếu tố lợi ích kinh

tế, thái độ được đối xử, quan hệ giao tiếp, trạng thái tâm lý, đức tin, sự quan
tâm và chăm lo đến đời sống hàng ngày của họ…
- Nội dung công tác tư tưởng: Là các hoạt động mà chủ thể xác định
nhằm thực hiện mục đích đặt ra. Nội dung công tác tư tưởng bao gồm việc
xây dựng, xác lập, phát triển hệ tư tưởng của giai cấp, biến nó thành tư tưởng
chủ đạo trong xã hội; giáo dục ý thức tự giác chính trị, hình thành niềm tin.
“Nội dung do mục đích cơng tác tư tưởng và nhiệm vụ cụ thể của mỗi giai
đoạn cách mạng quy định” [45, tr.15].
- Phương pháp công tác tư tưởng: Là con đường, cách thức mà chủ thể
công tác tư tưởng sử dụng để tác động vào khách thể của công tác tư tưởng
nhằm làm chuyển biến tư tưởng của khách thể theo mục tiêu xác định.
Phương pháp công tác tư tưởng trước hết do nội dung và khách thể của công
tác tư tưởng quy định.
- Nguyên tắc công tác tư tưởng: Là những quy định cơ bản do chủ thể
công tác tư tưởng xác định, trên cơ sở đó lựa chọn nội dung, cách thức tổ


15
chức và phương pháp tác động đến khách thể nhằm đạt mục đích đặt ra.
Nguyên tắc cũng là cơ sở phương pháp luận để xem xét phương hướng tư
tưởng chính trị của nội dung giáo dục và đánh giá chính xác hiệu quả công tác
tư tưởng. Những nguyên tắc cơ bản nhất của cơng tác tư tưởng là: ngun tắc
tính đảng, nguyên tắc tính khoa học, nguyên tắc tính thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Những nguyên tắc này là một thể thống nhất không thể tách rời;
cơ sở của sự thống nhất đó là bản chất cách mạng, khoa học của hệ tư tưởng
Mác - Lênin.
- Hình thức cơng tác tư tưởng: Là biểu hiện bề ngồi của nội dung, là
hình thức tổ chức hoạt động truyền bá và tiếp nhận nội dung của chủ thể và
khách thể. Hình thức cơng tác tư tưởng rất đa dạng, phong phú, gắn chặt với
phương pháp công tác tư tưởng. Việc lựa chọn hình thức nào là do khách thể

và nội dung quy định.
- Phương tiện công tác tư tưởng: Là những vật để truyền đạt nội dung và
đáp ứng cho phương pháp tác động tư tưởng, là những công cụ công tác của chủ
thể và những công cụ mà nhờ nó đối tượng tiếp nhận, lĩnh hội nội dung.
- Hiệu quả công tác tư tưởng: Là sự so sánh giữa kết quả mà công tác tư
tưởng đạt được với mục đích cơng tác tư tưởng được đặt ra từ trước, sau một
chu trình tác động tư tưởng trong một điều kiện nhất định và với một chi phí
nhất định. Trong công tác tư tưởng hiệu quả được đánh giá bằng sự cố gắng
của chủ thể công tác tư tưởng và những chuyển biến của nhận thức, tư tưởng
của mỗi giai cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện trong những kết quả kinh
tế, chính trị, xã hội, phong trào.
1.1.3. Các bộ phận hợp thành công tác tư tưởng
Về cấu trúc, công tác tư tưởng bao gồm nhiều mặt công tác liên quan
chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau, làm tiền đề của nhau, tạo thành một
quá trình liên tục, từ việc xây dựng hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để
đề ra đường lối chiến lược, sách lược của một giai cấp, một chính đảng đến


16
việc truyền bá hệ tư tưởng và đường lối trong quần chúng, thúc đẩy quần
chúng thực hiện đường lối trong thực tiễn. V.I.Lênin cho rằng: “Cơng tác tư
tưởng có 3 hình thái là: Cơng tác lý luận, cơng tác tun truyền và công tác
cổ động” [31, tr.28].
- Công tác lý luận: là công tác quan trọng hàng đầu trong công tác tư
tưởng, nhằm phát triển và làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận, tổng kết
thực tiễn, phản ánh đúng bản chất của các hiện tượng và xu thế vận động của
xã hội, từ đó hình thành chủ trương, tìm ra con đường, bước đi, những giải
pháp và phương hướng hành động theo mục tiêu đã định. Lênin đánh giá rất
cao vai trị của lý luận và cơng tác lý luận, Người cho rằng công tác lý luận
phải đi tiên phong, phải “đi trước phong trào tự phát, chỉ đường cho nó... biết

giải quyết trước người khác tất cả các vấn đề từ lý luận chính trị, sách lược và
các vấn đề về tổ chức mà “những yếu tố vật chất” của phong trào húc phải
một cách tự phát” [33, tr.445-446]
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đánh giá rất cao vai trị của cơng tác lý luận.
Người viết: “khơng có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”, “có kinh nghiệm
mà khơng có lý luận thì cũng như một mắt sáng một mắt mờ” [38, tr.234].
- Công tác tuyên truyền: là lịch sử truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
trong xã hội nhằm đạt mục tiêu của giai cấp. Cơng tác tun truyền của Đảng
ta có nhiệm vụ truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
những chuẩn mực về đạo đức, lối sống, về xây dựng con người mới, nhân
cách mới, nền văn hóa mới và những giá trị truyền thống của dân tộc..., làm
cho chúng trở thành những nhân tố chi phối, thống trị trong đời sống tinh thần
của xã hội; nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước... một cách có căn cứ khoa học, trên cơ sở đó, xây dựng và củng cố niềm
tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng và hành động một cách tự giác, sáng


17
tạo trong công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Cơng tác tun
truyền phải làm rõ vì sao Đảng đặt vấn đề như thế; nội dung, quan điểm của
Đảng như thế nào; tiến hành thực hiện, giải pháp phải thực hiện ra sao? Cơng
tác tun truyền có thể được tiến hành bởi các kênh thông tin chuyển tải khác
nhau như: bài giảng, báo cáo chuyên đề, các tài liệu sách báo, các hoạt động
văn hóa - nghệ thuật, phát thanh, truyền hình... Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định
nghĩa rất cô đọng: “Tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân hiểu, dân
nhớ, dân theo, dân làm” [38, tr.162].
- Công tác cổ động: là tác động của chủ thể CTTT vào tư tưởng, tình
cảm của đối tượng thơng qua việc giải thích một sự việc cụ thể, thiết thực

nhằm tạo nên ấn tượng mạnh ở đối tượng, kích thích và thúc đẩy họ hăng hái
hành động thực hiện cơng việc đó. Cơng tác cổ động có vai trị hết sức quan
trọng trong nhiệm vụ thơng tin, giải thích cụ thể cho dân chúng hiểu biết kịp
thời những sự kiện đang diễn ra trong đời sống; giải thích đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cổ vũ, động viên mọi người hành
động tích cực, tự giác và sáng tạo. Công tác cổ động được thực hiện dưới
nhiều hình thức như: băng rơn, áp phích, khẩu hiệu, tranh ảnh, các bài viết
mang tính cổ động, chủ yếu là thơng tin giải thích những nhiệm vụ cụ thể,
nhiệm vụ chính trị trước mắt, những vấn đề và sự kiện đang diễn ra ở địa
phương, cơ sở và cổ vũ quần chúng thực hiện những nhiệm vụ ấy. V.I.Lênin
đánh giá cao vị trí, vai trị của công tác cổ động trong giải quyết nhiệm vụ cụ
thể của cách mạng. Theo Người, mỗi cán bộ cổ động phải cố gắng “ảnh
hưởng một cách tốt nhất đến một thính giả nhất định, làm cho một chân lý nào
đó đối với họ trở nên có sức thuyết phục mạnh nhất, dễ hiểu nhất, để lại ấn
tượng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất” [35, tr.28].
Ba bộ phận công tác tư tưởng tuy có khác nhau về mục tiêu, phương
thức tiến hành, song có quan hệ gắn bó với nhau, cùng tác động đến nhận thức
tư tưởng, tâm lý, tình cảm của quần chúng, tạo sự thống nhất về ý chí và hành


18
động, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng. Do vậy,
trong công tác tư tưởng, phải kết hợp ba bộ phận đó để có nội dung, hình
thức, phương pháp, phương tiện phù hợp với đối tượng, trong từng thời điểm
cụ thể, mới nâng cao hiệu quả cơng tác này.
1.2. VAI TRỊ CƠNG TÁC TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Thực tiễn nước ta cho thấy, trong hoạt động của công tác tư tưởng,
những cơ hội và thách thức tuy có khác nhau ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn
cách mạng, nhưng lúc nào cơng tác tư tưởng cũng có vai trị, vị trí quan trọng

hàng đầu. u cầu của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị địi hỏi cơng tác tư
tưởng phải bám sát quá trình tổ chức, triển khai, đi trước, đi cùng và đi sau để
đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu đã xác định. Lịch sử cách mạng
nước ta cho thấy rõ, khi đất nước chưa được độc lập, mục tiêu của công tác tư
tưởng là động viên sức mạnh toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để giành
chính quyền; khi Nhà nước công nông non trẻ mới ra đời, công tác tư tưởng
lại hướng tới mục tiêu tập trung cao độ cho việc bảo vệ chính quyền, chống
thù trong giặc ngồi, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc cho đến khi đất nước
hoàn tồn độc lập, non sơng thu về một mối; đất nước bước vào giai đoạn đổi
mới và phát triển, công tác tư tưởng lại trực tiếp góp phần quan trọng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những chặng đường đó, một số
đóng góp cơ bản của cơng tác tư tưởng cần khẳng định rõ nét, đó là:
Thứ nhất, đã cung cấp những luận cứ khoa học, cơ sở lý luận và thực
tiễn, góp phần hình thành hệ thống các luận điểm mới trong đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện sự bổ sung, phát triển và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta.
Thứ hai, đó là việc giáo dục, tuyên truyền có hiệu quả chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, những thành quả đã đạt được về sự ổn định và phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực trong thơng tin đối nội và đối


19
ngoại, tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ ba, góp phần quan trọng trong việc xây dựng con người mới ở nước
ta, xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, đòi
hỏi phải chú trọng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước.
Thứ tư, là lực lượng quan trọng trong việc tham mưu xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hoá là

nền tảng tinh thần của xã hội, giới thiệu với bạn bè quốc tế hình ảnh đất nước,
con người, văn hóa Việt Nam.
Thứ năm, trực tiếp tham gia giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội về
tư tưởng, định hướng tuyên truyền, nắm bắt dư luận xã hội. Tăng cường củng
cố khối đoàn kết trong Đảng và sự đồng thuận của toàn xã hội, đồng thời,
nâng cao khả năng phát hiện những vấn đề mới, nhạy cảm, phát sinh và khả
năng dự báo xu hướng phát triển.
Thứ sáu, đi đầu trong việc đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái,
thù địch của các thế lực cơ hội, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối đổi mới của Đảng…
1.2.1. Công tác tư tưởng với việc tuyên truyền hệ tư tưởng của Đảng
Hệ tư tưởng Mác - Lênin là hệ tư tưởng cách mạng và khoa học. Đó là
hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân, giai cấp đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến, đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động. Vì vậy, để hệ tư
tưởng tiến bộ đó chi phối tồn xã hội thì trước hết hệ tư tưởng đó phải thâm
nhập vào quần chúng, giữ vai trò thống trị trong đời sống tinh thần nhân
dân. Muốn vậy, giai cấp công nhân và chính đảng của mình phải tổ chức
lực lượng để thực hiện tốt việc truyền bá hệ tư tưởng Mác - Lênin vào phong
trào quần chúng.


20
Cùng với quá trình truyền bá hệ tư tưởng là q trình đưa chủ trương
đường lối, chính sách của Đảng đến với quần chúng. Đường lối chính sách
của Đảng, Nhà nước chính là việc cụ thể hố lý luận vào thực tiễn cuộc
sống, chính là việc biến ý chí của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản
đối với xã hội, thực hiện việc lãnh đạo xã hội vận động theo đúng quy luật
phát triển, đúng mục đích yêu cầu mà giai cấp công nhân và Đảng Cộng
sản đang hướng tới.

Ngày nay, bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, thời kỳ phát triển mới của
cách mạng Việt Nam, lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường, thực tiễn đất nước ta hiện nay đã và đang đặt ra những khó
khăn, thử thách, thuận lợi mới trong nhận thức của Đảng về CNXH ở nước ta,
nền kinh tế thị trường có những mặt tích cực và tiêu cực, cán bộ đảng viên và
quần chúng đang phải chịu tác động của nhiều hệ tư tưởng khác nhau, cả tích
cực và tiêu cực. Điều đó địi hỏi công tác tư tưởng của Đảng cần phải làm tốt
vai trị định hướng tư tưởng xã hội. Chính vì vậy, việc tuyên truyền có hiệu
quả hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, sẽ tạo sự ổn định và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung và cách làm cũng yêu cầu
phải kiên trì, thuyết phục và sắc bén, nhất là trong bối cảnh thế giới có nhiều
biến động hiện nay. Có thể thấy, tuy cịn nhiều vấn để cần đổi mới, tổng kết
kinh nghiệm, nhưng cho đến nay, cơng tác tư tưởng đã có những đóng góp
quan trọng đưa nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng nhanh
chóng đi vào cuộc sống, biến thành niềm tin, thành hành động cách mạng của
quảng đại quần chúng nhân dân lao động.
1.2.2. Công tác tư tưởng tham gia định hướng nhận thức đường lối
cách mạng, tạo sự thống nhất trong tồn Đảng, sự đồng thuận xã hội
Vai trị cơng tác tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo
là góp phần xây dựng cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng;


21
góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng; mang lại nhân tố
tự giác cho quần chúng tham gia sự nghiệp cách mạng. Nói cách khác, cơng
tác tư tưởng có vai trị xây dựng và trau dồi tri thức cách mạng, hun đúc tình
cảm cách mạng, thúc đẩy hành động cách mạng. Nghị quyết 09 (khóa VII)
của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ vai trị cơng tác tư tưởng trong sự
nghiệp đổi mới là: Tăng cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng, sự thống

nhất về chính trị và tinh thần trong nhân dân, nâng cao ý chí phấn đấu thực
hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đấu tranh chống diễn biến hịa bình, giữ
vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào
cách mạng của nhân dân. Cung cấp luận cứ khoa học cho việc cụ thể hóa
và phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ
mới phù hợp với đặc điểm của nước ta và của thế giới, góp phần làm rõ con
đường đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam đang chịu những tác động
của tiến trình tồn cầu hố, có nhiều thời cơ thuận lợi cũng như thách thức
đan xen, đặc biệt đối với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ
quyền an ninh quốc gia. Tham gia vào tiến trình tồn cầu hố, là thành viên
của các định chế kinh tế, tài chính thế giới, Việt Nam phải tuân thủ những quy
định ràng buộc của các tổ chức này, cùng với áp lực cạnh tranh kinh tế, yêu
cầu cải cách hệ thống pháp luật. Đây là điều kiện thuận lợi để tạo thế đứng
của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời là cơ hội cho các thế lực thù địch
gia tăng các hoạt động chống phá nhằm thay đổi bản chất nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta. Khi tham gia vào tiến trình tồn cầu
hố, nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển, tiềm lực chưa mạnh, năng lực
sức cạnh tranh thấp, trình độ quản lý cịn nhiều hạn chế, dẫn tới nguy cơ dễ bị
lệ thuộc vào nước ngồi, khả năng phải đối phó với những biến động của nền


22
kinh tế thế giới, cùng với những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố - xã hội là rất lớn.
Trong bối cảnh chung đó, lĩnh vực đảm bảo an ninh quốc gia cho thấy,
lĩnh vực tư tưởng đang có những diễn biến hết sức phức tạp, đó là sự gia tăng
âm mưu của các thế lực thù địch, hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập quốc

tế chống phá Việt Nam, mục tiêu của chúng là tác động, chuyển hoá, đẩy lùi
hệ tư tưởng XHCN ra khỏi đời sống chính trị - xã hội, địi xố bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Để thực
hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch đang ráo riết đẩy mạnh các hoạt động.
Tăng cường các hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng bằng nhiều hình
thức, thủ đoạn khác nhau. Trong đó, chúng đặc biệt chú ý sử dụng các phương
tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền các luận điệu phản động, phản bác
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trị lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta; truyền
bá hệ tư tưởng tư sản, cổ suý cho các “giá trị” của “văn minh - văn hoá” của
phương Tây và đề cao các vấn đề “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân
tộc” và “tôn giáo”… từ đó cổ vũ, kích động các phần tử phá hoại trong nước
đẩy mạnh hoạt động chống đối chế độ. Bên cạnh đó, lợi dụng cuộc khủng
hoảng của CNXH kéo theo sự khủng hoảng về lý luận để tác động đến tư
tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, làm cho một bộ phận
dao động, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên
CNXH ở nước ta.
Mặt khác, mặt trái của cơ chế thị trường đã tác động tiêu cực tới lĩnh
vực văn hoá, làm xuất hiện trong xã hội xu hướng thương mại hố, tư nhân
hố, xa rời tơn chỉ mục đích trong hoạt động văn hố, văn nghệ. Trong khi đó
cơng tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ và hoạt động văn hố cũng cịn
nhiều bất cập, yếu kém, ảnh hưởng tới an ninh trên lĩnh vực văn hoá - tư
tưởng. Xuất hiện một số tác phẩm văn hố, các bài báo, những ấn phẩm có


23
nội dung nhạy cảm về chính trị, thậm chí trái với quan điểm, chủ trương chính
sách của Đảng; nhiều tác phẩm có nội dung khơng lành mạnh, kích động bạo
lực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bên cạnh đó, cơng tác đấu tranh
chống các quan điểm sai trái cịn thụ động và thiếu sắc bén, cơng tác nghiên

cứu lý luận chưa theo kịp với thực tiễn, đó là điều kiện để các quan điểm, tư
tưởng sai trái, thù địch nảy sinh lan truyền, tác động xấu đến các giai tầng xã
hội, nhất là lớp trẻ.
Tình hình trên đặt ra cho cơng tác tư tưởng vai trị và nhiệm vụ hết sức
quan trọng trong việc góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển
kinh tế, xây dựng nhân tố con người, giải quyết những vấn đề về lý luận do
thực tiễn đặt ra, góp phần hình thành ý chí, nhiệt tình cách mạng của quần
chúng, hiện thực hoá từng bước lý tưởng XHCN sẽ là động lực cơ bản của sự
nghiệp đổi mới. Làm tốt cơng tác tư tưởng sẽ góp phần vạch trần âm mưu
xuyên tạc và bôi nhọ hệ tư tưởng của Đảng ta, làm rõ chính sách đại đồn kết
dân tộc của Đảng và Nhà nước; định hướng mọi thành phần trong xã hội
hướng tới mục tiêu chung là đưa đất nước phát triển, xã hội ổn định, nhân
dân no đủ, hạnh phúc làm điểm tương đồng, lấy đại đoàn kết dân tộc làm
trung tâm cho sự phát triển của xã hội, mọi thành phần trong xã hội cùng
chấp nhận những điểm khác nhau nhưng khơng trái với lợi ích chung của
dân tộc, cùng nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai
với tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau, tất cả vì tự do, ấm no,
hạnh phúc của nhân dân.
1.2.4. Công tác tư tưởng góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội
Thực hiện phương châm của Đảng phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm của toàn Đảng, toàn dân ta. Công tác tư tưởng đã thực hiện tốt nhiệm vụ
tuyên truyền phát triển kinh tế - xã hội, coi đây là nhiệm vụ quan trọng nhất
của thời kỳ quá độ lên CNXH. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng về


24
đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, cơng tác tư tưởng đã góp
phần tạo ra sự chuyển biến quan trọng về nhận thức trong Đảng và toàn xã hội
khắc phục tư tưởng quan liêu bao cấp, ỷ lại vào nhà nước, khơi dậy và phát

huy ý chí tự lực tự cường, tính năng động và sáng tạo, quyết tâm đưa đất nước
thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu. Để giải quyết được vấn đề này, công tác tư
tưởng của Đảng đã tập trung khẳng định các nguyên tắc của đổi mới, chống
lại các biểu hiện dao động, bi quan; đồng thời nỗ lực tìm tịi, tổng kết lý luận
kết hợp chặt chẽ với thực tiễn đời sống, góp phần quan trọng phát triển đường
lối, xây dựng những luận cứ khoa học cho những quyết sách lớn của Đảng và
Nhà nước; hình thành những quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về thực hiện cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước; chủ trương thực hiện chính sách “mở cửa”, phát huy
yếu tố nội lực, chủ động hội nhập tranh thủ nguồn lực bên ngoài để thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế, đồng thời giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.
Thực tiễn và những thành tựu đã đạt được sau hơn 25 năm đổi mới đã
chứng minh, đất nước ta đã có sự phát triển mạnh mẽ, từ một nước nghèo đã
vươn lên trở thành nước có tốc độ phát triển nhanh của khu vực và trên thế
giới; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao; đời
sống nhân dân không ngừng được cải thiện, điều đó đã tạo sự tin tưởng của
các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, từ đó đã huy động được mọi nguồn lực của
xã hội phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.5. Cơng tác tư tưởng với vai trị quyết định trong đấu tranh chống
“Diễn biến hồ bình” bạo loạn lật đổ
Cơng cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
diễn ra trong sự tác động đan xen của những thời cơ và thách thức lớn. Một
trong những thách thức đã được Đảng ta xác định là nguy cơ từ sự chống phá


25
chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) bởi âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hịa
bình” (DBHB) của các thế lực thù địch. Tháng 1-1994, Báo cáo Chính trị của

Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ của Đảng đã chỉ ra 4 nguy cơ là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế,
nguy cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu,
nguy cơ DBHB. Điều đó đã được các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng tiếp tục
đề cập. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu rõ: “Các thế lực
thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu DBHB, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng
các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở
nước ta” [22, tr.75]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã tiếp
tục khẳng định: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
DBHB của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán
những biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ ta” [24, tr.109]. Những nhận định
nêu trên của Đảng, cùng với diễn biến thực tế tình hình chính trị, xã hội của
đất nước trong những năm gần đây là cơ sở để cán bộ, đảng viên và nhân dân
nhận thức sâu sắc hơn DBHB là một nguy cơ thực tế, không thể xem thường;
trực tiếp đe dọa sự ổn định và phát triển của đất nước trên con đường đi lên
CNXH. Đồng thời, chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và
thủ đoạn DBHB là một nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa thiết yếu của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta hiện nay.
Nền tảng tư tưởng thống nhất và vững vàng là đảm bảo quan trọng tạo
nên sự đồng thuận xã hội, mối quan hệ gắn bó giữa nhân dân ta đối với Đảng
và chế độ XHCN. Âm mưu và thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch đối
với nước ta diễn ra trên nhiều lĩnh vực, song chủ yếu và trước hết trên lĩnh
vực Tư tưởng-Văn hóa (TT-VH). Chúng đã và đang đẩy mạnh nhiều hoạt
động thâm độc, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây chia rẽ,
mất đoàn kết từ bên trong nội bộ Đảng và Nhà nước ta; khi thời cơ đến chúng
sử dụng tổng hợp các biện pháp cả vũ trang và phi vũ trang; kết hợp “nội


×