Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Hội liên hiệp phụ nữ trong công tác vận động phụ nữ công giáo ở đồng nai hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.25 KB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà cịn là một thực
thể xã hội, ln biến động theo thời gian và theo điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội mà nó phản ánh. Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức
tín ngưỡng, tơn giáo và các tơn giáo đang có xu hướng phát triển, ảnh hưởng
mạnh đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chính trị, văn hóa, phong tục
tập qn, đạo đức, lối sống của con người.
Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công
tác tơn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Từ Đại hội VI của
Đảng, năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Đến năm 1990, với Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-10-1990 của Bộ
Chính trị đã đánh dấu bước tiến quan trọng về sự nhận thức và đổi mới của
Đảng về vấn đề tơn giáo. Tiếp đó, sau 13 năm thực hiện chính sách đổi mới
đối với tơn giáo, ngày 12-3-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
IX) đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo và Đảng ta
tiếp tục xác định “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đồn kết
tồn dân tộc”. “Nội dung cốt lõi của cơng tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng” và là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Hoạt động tôn giáo
và công tác tôn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm tăng cường đồn kết đồng
bào các tơn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đồng Nai là một tỉnh trọng điểm về tơn giáo, có nhiều tơn giáo cùng
tồn tại, với hơn 1,6 triệu tín đồ, chiếm 62% dân số tồn tỉnh, các tín đồ tôn


2


giáo cùng sinh sống xen kẽ với nhau. Vì vậy, cơng tác vận động quần chúng
nói chung, vận động quần chúng có đạo nói riêng được các cấp, các ngành
quan tâm và đã đạt được nhiều thành quả lớn lao. Phần lớn các tín đồ tơn
giáo đều phấn khởi trước những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước
và những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo; tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, yên tâm lao động,
sản xuất, tích cực tham gia phong trào hành động cách mạng, thi đua yêu
nước ở địa phương.
Ở Đồng Nai, phụ nữ là tín đồ các tơn giáo có số lượng rất lớn, tới gần
nửa triệu người, trong đó phụ nữ theo đạo Cơng giáo có số lượng đơng nhất.
Có thể nói, cộng đồng phụ nữ Cơng giáo ở Đồng Nai ln chấp hành tốt chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện phương
châm “tốt đời, đẹp đạo”. Tinh thần đoàn kết trong các tầng lớp phụ nữ có đạo
ngày càng được củng cố, tăng cường, hướng về lợi ích chung của đất nước.
Vai trị tích cực của phụ nữ Công giáo ngày càng được phát huy trong các
chương trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Vì vậy, cơng tác vận động phụ
nữ là tín đồ tơn giáo thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng,
Nhà nước được các cấp Hội LHPN trong tỉnh xác định là nội dung quan trọng
để xây dựng, củng cố tổ chức Hội vững mạnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác vận động quần chúng phụ
nữ có đạo của các cấp Hội LHPN trên địa bàn tỉnh vẫn cịn khơng ít hạn chế.
Đó là: phong trào phụ nữ phát triển chưa đồng đều; trình độ, học vấn, chun
mơn, nghề nghiệp của phụ nữ có đạo tuy có được nâng lên nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH; đời sống của một bộ phận
phụ nữ Cơng giáo cịn nhiều khó khăn, một bộ phận khác có lối sống thực
dụng, sa sút phẩm chất đạo đức, vi phạm pháp luật, sa vào tệ nạn xã hội.
Trong sinh hoạt tôn giáo, một bộ phận giáo dân bị ràng buộc, chi phối nặng
bởi thần quyền, giáo quyền; có những nhóm tín đồ, nhất là tín đồ cao tuổi,
phụ nữ sùng đạo đến cuồng tín, ln luôn vâng phục các chức sắc (kể cả chức



3
sắc cực đoan) một cách mù quáng. Những năm trước đây đã từng xảy ra việc
một nhóm giáo dân mà phần lớn là phụ nữ ở các xã Gia Tân 1, Gia Tân 2
huyện Thống Nhất bị xúi giục ra ngăn quốc Lộ 20 gây ách tắc giao thông
trong nhiều ngày nhằm thực hiện cái gọi là “chống tiêu cực, tham nhũng, địi
lại đất” hoặc tung tin “đức mẹ khóc”, “đức mẹ chảy máu mắt” gây cản trở
giao thông, mất trật tự công cộng.
Công tác nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tư tưởng của phụ nữ cũng cịn
hạn chế; cơng tác tuyên truyền chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước chưa được tổ chức sâu rộng. Việc đổi mới nội dung
và phương thức hoạt động của Hội chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; một
số hoạt động cịn mang tính hình thức, chưa thiết thực và tính hiệu quả chưa
cao. Trình độ, năng lực, kiến thức về tôn giáo và kỹ năng tập hợp quần chúng
của một số cán bộ Hội còn hạn chế; công tác phối hợp giữa các cấp, các
ngành chưa được thường xuyên và thiếu chặt chẽ; nhận thức của một số cấp
ủy Đảng, chính quyền về cơng tác phụ nữ cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến
cơng tác vận động phụ nữ nói chung và phụ nữ đạo Cơng giáo nói riêng.
Việc phát huy những thành cơng và khắc phục những hạn chế của Hội
Liên hiệp phụ nữ trong công tác vận động tín đồ đạo Cơng giáo ở Đồng Nai
đã và đang đặt ra một yêu cầu cấp bách và trực tiếp với các cấp Hội LHPN
trên địa bàn tỉnh. Là một cán bộ Hội công tác tại địa phương có đơng đồng
bào Cơng giáo, tơi chọn đề tài “Hội Liên hiệp phụ nữ trong công tác vận
động phụ nữ Công giáo ở Đồng Nai hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cao
học của mình với mong muốn đáp ứng một phần yêu cầu về lý luận và thực
tiễn của công tác vận động phụ nữ Công giáo ở Đồng Nai hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị, Nghị
định về công tác tơn giáo:
Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 về tăng

cường cơng tác tơn giáo trong tình hình mới; Nghị định 69-HĐBT ngày


4
21/3/1991 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về hoạt động
tôn giáo; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị về cơng tác tơn
giáo trong tình hình mới và được cụ thể ở Nghị định 26/1999/NĐ-CP về các
hoạt động tôn giáo; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về công tác tôn giáo. Ngày 29/6/2004 chủ tịch nước
Trần Đức Lương đã ký lệnh cơng bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tơn giáo đã được
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18/6/2004 và được hướng dẫn
thi hành tại Nghị định số 22/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/3/2005.
Ngày 04/2/2005, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, về một
số cơng tác đối với đạo Tin Lành. Gần đây nhất, ngày 08/11/2012 Chính phủ
đã ban hành Nghị định 92/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi
hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Nghị định này được thay thế cho Nghị
định 22/2005/NĐ-CP. Đây là những văn bản thể hiện rõ nhất chính sách tơn
giáo của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới.
* Một số cuốn sách tham khảo:
1. GS, TS Đỗ Quang Hưng, "Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt
Nam - lý luận và thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Cuốn sách theo trình tự thời gian đã hệ thống lại những vấn đề chủ yếu
về lý luận và thực tiễn công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước từ năm 1920
đến nay. Tác giả đã giới thiệu những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và làm rõ nhận thức về vấn đề tôn
giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ, xem đây là cái gốc để giải
quyết các vấn để khác; làm rõ quá trình hình thành, phát triển của chính sách tơn
giáo ở Việt Nam, nhất là phương diện quản lý nhà nước về tôn giáo; đồng thời
vạch ra những nét chủ yếu trong quá trình thực hiện các chính sách đó trong giai
đoạn cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2. GS, TS Lê Hữu Nghĩa và PGS, TS Nguyễn Đức Lữ (đồng chủ

biên), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo và công tác tôn giáo", Nxb Tôn
giáo, 2003.


5
Cuốn sách đã tập hợp gần 20 bài viết của các nhà khoa học và nhà
quản lý tôn giáo tiêu biểu ở nước ta. Các bài viết với nhiều nội dung đã nêu
bật lên các vấn đề:
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về tơn giáo và sự khác biệt giữa tôn
giáo phương Đông với tôn giáo phương Tây.
- Làm rõ thêm tư tưởng đồn kết tơn giáo và phương pháp để thực
hiện sự đồn kết này.
- Hồ Chí Minh và vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
3. PGS, TS Ngô Hữu Thảo, Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác Lênin đến thực tiễn Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, 2012.
Cuốn sách đã làm rõ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tơn giáo, cơng tác vận động quần chúng tín
đồ tơn giáo của hệ thống chính trị Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị về
công tác tôn giáo của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn tới.
Trong cơng tác vận động quần chúng tín đồ, tác giả cũng định hướng
những nhiệm vụ đối với các tổ chức chính trị - xã hội là nên phát động các
phong trào kinh tế - xã hội - văn hóa, triển khai những việc làm cụ thể, qua đó
thu hút, vận động tín đồ, chức sắc tơn giáo tham gia.
* Các đề tài khoa học:
1. Ban Tổ chức Tỉnh ủy Đồng Nai, Nâng cao chất lượng lãnh đạo chính
trị của các tổ chức cơ sở Đảng trong vùng có đơng đồng bào theo đạo Thiên
Chúa ở Đồng Nai, đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, 2000.
Đề tài đã nêu khái qt q trình du nhập Cơng giáo vào Việt Nam, đặc
điểm Công giáo trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; đánh giá chất lượng lãnh đạo
chính trị của các tổ chức cơ sở Đảng (cấp xã, phường) trong vùng có đơng
đồng bào Công giáo; đánh giá những yếu kém trong công tác vận động

quần chúng của một số cấp ủy đảng, MTTQ, các đoàn thể ở một số địa
phương và về những hạn chế, nhược điểm trong thực hiện phương thức
lãnh đạo của Đảng. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng


6
lãnh đạo chính trị của các cơ sở Đảng trong vùng có đơng đồng bào Cơng
giáo như: xây dựng các quy định về chức năng, nhiệm vụ của chi, đảng bộ
xã, phường, thị trấn có đơng đồng bào Cơng giáo; đào tạo, bồi dưỡng
những kiến thức cơ bản về tôn giáo, Công giáo, những quan điểm, chủ
trương đổi mới của Đảng về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở,
ấp, thôn, khu phố; bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng vận động quần chúng,
vận động chức sắc, tu sĩ và đồng bào theo đạo công giáo.
2. TS Ngô Hữu Thảo (chủ nhiệm), Công tác tổ chức quần chúng và xây
dựng lực lượng chính trị cách mạng trong các vùng có tơn giáo tập trung ở
nước ta hiện nay, thuộc đề tài cấp nhà nước “Xu hướng phát triển tôn giáo
hiện nay ở nước ta và những vấn đề đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý”,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003.
Đề tài đã làm rõ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng về vấn đề quần chúng và công tác vận động quần
chúng, xây dựng lực lượng chính trị trong các vùng tơn giáo tập trung. Đề tài
đã đánh giá thực trạng công tác tổ chức quần chúng, chỉ rõ những thành tựu
và hạn chế trong công tác vận động, tập hợp quần chúng tín đồ, xây dựng lực
lượng chính trị ở những vùng tơn giáo tập trung của hệ thống chính trị. Từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm làm tốt cơng tác tổ chức quần chúng, xây dựng lực
lượng chính trị vùng có tơn giáo tập trung thời kỳ CNH, HĐH.
* Các luận văn, luận án liên quan:
Võ Thị Mộng Thu (2001), Công tác quản lý nhà nước đối với đạo
Công giáo ở Đồng Nai, luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo; Hồ Xuân Định
(2004), Công tác vận động đồng bào có đạo Cơng giáo ở Nam Định, luận văn

thạc sĩ khoa học tôn giáo; Lê Thanh Tiến (2010), Công giáo ở Đồng Nai và
ảnh hưởng của nó đối với đội ngũ cơng nhân lao động có đạo trên địa bàn
Tỉnh hiện nay, luận văn cử nhân chính trị tơn giáo; Đặng Mạnh Trung (2011),
Công tác vận động đồng bào Công giáo của Đảng bộ một số tỉnh ở miền
Đông Nam bộ từ năm 1986 đến năm 2006, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.


7
Các cơng trình nghiên cứu nói trên chủ yếu đề cập đến những khía
cạnh sau đây:
- Phân tích quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cơng tác
vận động tín đồ các tơn giáo ở Việt Nam, trong đó có tín đồ Cơng giáo; nêu
lên những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra.
- Tìm hiểu cơng tác vận động tín đồ Cơng giáo ở một số địa bàn cụ thể
ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích ảnh hưởng của đạo Cơng giáo trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của cơng tác
vận động tín đồ các tơn giáo nói chung, tín đồ Cơng giáo nói riêng.
Từ nhiều góc độ và mục đích khác nhau, các cơng trình trên đã tiếp cận
và nghiên cứu sâu sắc về công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta và vận
dụng vào tình hình cụ thể ở địa phương và ngành mình cơng tác.
Tuy nhiên, cho đến nay có thể khẳng định, chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống và tồn diện về cơng tác vận động phụ nữ Công
giáo của Hội LHPN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Các cơng trình nghiên cứu
nói trên là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị cho q trình nghiên cứu luận
văn của tơi.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích

Trên cơ sở phân tích thực trạng, đặc điểm và những vấn đề đang đặt ra
của công tác vận động phụ nữ là tín đồ đạo Cơng giáo ở Đồng Nai hiện nay
của Hội Liên hiệp phụ nữ, luận văn nêu ra một số kiến nghị nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả cơng tác này ở Đồng Nai trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào một số nhiệm
vụ sau đây:
- Phân tích, làm rõ chủ trương cơng tác vận động quần chúng tín đồ tơn
giáo của Đảng, Nhà nước ta.


8
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơng tác vận động phụ nữ Công giáo
của Hội LHPN ở tỉnh Đồng Nai hiện nay và vấn đề đặt ra.
- Đề ra phương hướng, giải pháp và một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả công tác vận động phụ nữ Công giáo ở Đồng Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác vận động quần chúng phụ nữ
Công giáo của Hội LHPN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về tơn giáo và cơng tác vận động tín đồ
tơn giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu liên ngành và chuyên
ngành như: Sử học, triết học, xã hội học, dân tộc học, các phương pháp phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

- Luận văn góp phần đánh giá đúng tình hình phụ nữ là tín đồ đạo Cơng
giáo; thực trạng của công tác vận động phụ nữ Công giáo của các cấp Hội
LHPN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay.
- Luận văn nêu ra phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả trong công tác vận động phụ nữ Công giáo ở Đồng Nai thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cấp Hội
LHPN, tài liệu phục vụ giảng dạy ở các trung tâm Bồi dưỡng Chính trị về
cơng tác vận động quần chúng phụ nữ có đạo nói chung, phụ nữ đạo Cơng
giáo nói riêng.


9
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần nâng cao hiệu quả
cơng tác vận động phụ nữ Cơng giáo.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 07 tiết.


10
Chương 1
NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
TÍN ĐỒ TÔN GIÁO VÀ VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ CÔNG GIÁO
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH ĐỒNG NAI
1.1. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG TÍN ĐỒ TƠN
GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA

1.1.1. Quan điểm của Đảng về công tác vận động quần chúng tín đồ
Quần chúng nhân dân là một khái niệm mang tính lịch sử, tùy theo từng

chế độ xã hội và tùy từng sự kiện lịch sử khác nhau mà trong khái niệm “quần
chúng nhân dân” bao hàm những thành phần người và những tầng lớp xã hội
khác nhau. Khái niệm quần chúng nhân dân được dùng để chỉ một khối đông
đảo người trong xã hội, là tất cả nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ
trong xã hội mà thông qua hoạt động của họ, lịch sử sẽ biến đổi. Quần chúng
nhân dân là lực lượng to lớn, mà cách mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi
lâu dài cần phải tranh thủ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, quần chúng tín đồ các tơn giáo là một
bộ phận nằm trong tồn bộ khối quần chúng nhân dân, nhưng là bộ phận quần
chúng đặc thù, có tình cảm, đức tin tơn giáo và đó là nhu cầu khơng thể thiếu
trong đời sống tâm linh của họ như những nhu cầu về đời sống tinh thần khác.
Điều đó lý giải tại sao tuyệt đại bộ phận quần chúng tín đồ các tơn giáo tự
nguyện tham gia sinh hoạt tôn giáo và chịu sự chi phối của thần quyền, giáo
lý. Đức tin tôn giáo là lý tưởng sống của các tín đồ nhằm hướng tới cái tốt đẹp
với mong muốn được giải thoát, được lên thiên đường sau khi chết.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã rất quan tâm đến tính đặc thù
của quần chúng tín đồ tơn giáo và thường xun nhắc nhở những người cộng
sản phải hết sức lưu tâm đến đặc tính này. Các cuộc đấu tranh ấy trước hết và
trên hết là chống lại các giai cấp thống trị bóc lột lợi dụng tơn giáo vào các
mục đích chính trị, sử dụng nó như một cơng cụ để áp bức quần chúng nhân


11
dân lao động chứ khơng phải là đả kích vào tơn giáo, tấn cơng xúc phạm đến
niềm tin, tình cảm thiêng liêng của họ. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng đây là
cuộc đấu tranh hết sức phức tạp, những người cộng sản phải hết sức thận
trọng, phải hết sức tránh khơng được xúc phạm đến tình cảm tơn giáo của tín đồ,
khơng được có hành động thơ bạo đối với tôn giáo. Theo C.Mác và Ăngghen,
những người Cộng sản: “Khơng thể đả kích vào tơn giáo dưới mọi hình thức thù
địch cũng như dưới hình thức khinh bạo chung cũng như riêng, nghĩa là nói

chung khơng được đả kích vào tôn giáo” [37, tr.23]. V.I Lênin cho rằng “Hết sức
tránh khơng xúc phạm đến tình cảm tơn giáo của các tín đồ trong quần chúng và
tránh làm tăng thêm lịng cuồng tín tơn giáo” [32, tr.121].
Mục tiêu cao nhất mà cơng tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo phải
đạt đến đó là đồn kết quần chúng nhân dân thực hiện một cuộc cách mạng xã
hội nhằm xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ áp bức, bất công để xây
dựng một xã hội mới mà ở đó con người thật sự có hạnh phúc, được tự do,
bình đẳng, bác ái.
Để đạt được mục tiêu đó, phải thực sự tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng
tơn giáo của nhân dân; tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục thế giới
quan duy vật khoa học, nâng cao trình độ dân trí cho quần chúng, làm cho họ
hiểu được nguồn gốc sâu xa của mọi bất công, đau khổ là do chế độ người
bóc lột người gây ra và hướng họ vào cuộc đấu tranh để giải phóng xã hội,
giải phóng con người. Đồng thời, phải hướng tới xây dựng một xã hội mới tốt
đẹp hơn. Mặt khác, để vận động quần chúng tín đồ tơn giáo có hiệu quả, cần
phải thu hút họ vào các tổ chức chính trị của cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng một cách sáng tạo những
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác vận động quần chúng tôn
giáo vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Quan điểm về vận động đồng bào
tôn giáo là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng,
tơn giáo. Đồn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại đồn kết tồn dân, là
cơ sở để hình thành sức mạnh tổng hợp hướng vào mục tiêu cách mạng dân


12
tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là tư tưởng chiến lược nhất
quán của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Người đã khẳng định: “cách
mệnh là phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức
mình”, làm cách mệnh giải phóng là “việc chung của dân chúng, chứ không

phải việc một hai người”. Vì vậy, vận động đồng bào các tơn giáo cùng tham
gia kháng chiến, kiến quốc và xây dựng đất nước là một trong những nội dung
trọng tâm của công tác dân vận.
Để làm tốt công tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo thì một trong
những vấn đề cốt lõi là phải thực sự tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo của nhân dân. Vì tự do tín ngưỡng, tơn giáo là quyền con
người, quyền công dân, là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của một bộ phận
nhân dân, không ai được xâm phạm hay làm tổn hại đến điều đó.
Phải biết khai thác những giá trị tích cực, nhân bản của các tơn giáo để
vận động quần chúng tín đồ, phát huy các giá trị tích cực đó vào cơng cuộc
bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Đó là những điểm tương đồng giữa tôn giáo với lý
tưởng cách mạng mà ngày nay Đảng ta có u cầu phát huy trong cơng cuộc xây
dựng xã hội mới. Hồ Chí Minh đã viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của
nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lịng
nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp
với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những
điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi
cho xã hội. Nếu hơm nay họ cịn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi
tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn
thân thiết. Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy [40, tr.15].
Bên cạnh đó, phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao
nhận thức, đồng thời chăm lo xây dựng đời sống kinh tế, vật chất cho quần
chúng nhân dân ngày càng phát triển.


13
Với quan điểm đúng đắn về công tác vận động quần chúng tín đồ tơn
giáo nên trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đồn kết rộng rãi đồng bào các tôn giáo.

Người lấy mục tiêu cách mạng là giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước làm
điểm tương đồng để vận động các tầng lớp nhân dân tham gia kháng chiến.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về cơng tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo, Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định rõ ràng nội dung cốt lõi, cơ bản và có tầm quan
trọng đặc biệt của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng: Nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng; xây
dựng hệ thống chính trị và lực lượng chính trị cơ sở; xây dựng chính sách
và mơi trường văn hố đối với tôn giáo; xây dựng lực lượng cốt cán cách
mạng trong đồng bào tơn giáo. Đó là một quan điểm đúng đắn và có tầm
nhìn chiến lược của Đảng ta.
Trong giai đoạn hiện nay, sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý
của Nhà nước là nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
có đạo hay khơng có đạo, theo tơn giáo này hay theo tôn giáo khác. Nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là phải thật sự đảm bảo nghĩa vụ và
quyền lợi công dân, chăm lo giải quyết những lợi ích thiết thân cho đồng
bào, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo; tạo điều kiện cho đồng
bào các tơn giáo tích cực tham gia đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của
dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Cùng với công tác vận động quần chúng tôn giáo, phải tăng cường
quản lý nhà nước đối với các tôn giáo nhằm bảo đảm cho các tôn giáo
được sinh hoạt bình thường và chống âm mưu của các thế lực thù địch lợi
dụng tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước đã chứng minh vai trò quan
trọng của quần chúng nhân dân, trong đó có quần chúng tín đồ các tơn giáo.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chủ


14
trương về công tác dân vận như: Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung

ương Đảng lần thứ VIII (số 8B-NQ/HNTW khố VI) ngày 27/3/1990 về đổi
mới cơng tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa đảng và nhân dân, đã
được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội, đã khẳng định: “Quan hệ mật
thiết giữa Đảng và nhân dân đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền thống
vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam” [1, tr.12]. Và gần đây nhất là
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Nghị quyết
này đã kế thừa những nội dung cốt lõi của Nghị quyết 8B (khóa VI) về đổi
mới công tác quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa đảng và nhân dân,
vừa bổ sung một số quan điểm, vừa đưa ra những quan điểm chỉ đạo mới về
công tác dân vận.
Quan điểm của Đảng về đổi mới công tác dân vận đã tiếp tục khẳng
định vị trí, vai trị to lớn của nhân dân đối với đất nước, đề ra mục tiêu, nhiệm
vụ, giải pháp về cơng tác dân vận. Quan điểm đó được thể hiện ở các nội
dung sau đây:
- Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân
dân là chủ, nhân dân làm chủ.
- Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,
đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hịa các lợi ích; quyền lợi
phải đi đơi với nghĩa vụ cơng dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân;
huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân
thì hết sức làm; những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.
- Phương thức lãnh đạo cơng tác dân vận của Đảng phải gắn liền với
công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm,
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên
chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.



15
- Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ,
đảng viên, cơng chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân,
cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ
chức thực hiện, Mặt trận, đồn thể làm tham mưu, nịng cốt.
- Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ” thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống
chính trị; các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học
và hiệu quả.
Quần chúng tín đồ các tơn giáo là một bộ phận trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; cơng tác vận động tín đồ tơn giáo là vận động một bộ
phận nhân dân có tín ngưỡng, tơn giáo. Vì vậy, nội dung cốt lõi của cơng
tác tơn giáo là cơng tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo
thực hiện quyền và nghĩa vụ của người cơng dân; tăng cường khối đại
đồn kết tồn dân, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào
cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Nội dung và phương pháp vận động quần
chúng tín đồ tơn giáo
1.1.2.1. Nội dung vận động quần chúng tín đồ tơn giáo
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, công tác vận động quần chúng có
đạo cần tập trung chủ yếu vào những nội dung sau:
Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, hướng
dẫn về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước nói chung và về tơn giáo nói riêng làm cho đồng bào hiểu
rõ quyền lợi và nghĩa vụ cơng dân của mình.
Cơng tác vận động quần chúng tín đồ cần tập trung tuyên truyền sâu
rộng chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo và tự do khơng tín ngưỡng tôn giáo. Nội dung vận động
trước hết cần tăng cường, phát huy việc đa dạng hoá các phương thức vận



16
động quần chúng tín đồ: có thể vận động thơng qua tổ chức Giáo hội các tơn
giáo, các hình thức lồng ghép các nội dung tuyên truyền, hoặc thông qua các
buổi sinh hoạt tôn giáo của các chức sắc; vận động thơng qua chức sắc và
người có uy tín, có ảnh hưởng lớn trong quần chúng tín đồ.
Vận động thơng qua các phong trào phát triển kinh tế; vận động thơng
qua các phong trào mang tính chính trị xã hội, các phong trào thi đua yêu
nước mang tính chất cộng đồng, dân tộc thể hiện sự đồn kết tơn giáo, đoàn
kết dân tộc như: hướng về cội nguồn, từ thiện nhân đạo, đền ơn đáp nghĩa,
ủng hộ đồng bào bị thiên tai lũ lụt...
Mặt khác, phải kiên trì thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Quy chế dân
chủ cơ sở là việc cụ thể hoá phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra, kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở là động lực thúc đẩy nhân dân, theo và khơng theo
tơn giáo, tích cực tham gia phong trào, các mặt công tác ở cơ sở với ý thức
trách nhiệm của người làm chủ, củng cố và tăng cường sự đồn kết nhất trí
giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể và nhân dân.
Đảng và chính quyền các cấp cần quan tâm lãnh đạo và tổ chức thực
hiện, làm cho quy chế dân chủ cơ sở đi vào cuộc sống và thành nền nếp; kiên
quyết đấu tranh chống tư tưởng chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng, vốn là
những lực cản của việc thực hiện quy chế dân chủ.
Hai là, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của quần chúng có đạo
Nội dung cốt lõi của công tác vận động quần chúng tín đồ là phải hướng
tới đáp ứng những lợi ích thiết thân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo, giúp đồng bào tơn giáo nâng cao trình độ mọi mặt và đóng góp tích cực
vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Cần có chính sách phát triển kinh tế - xã hội lâu dài ở vùng tôn giáo
tập trung. Việc thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở địa

phương các vùng tôn giáo tập trung sao cho hiệu quả, đảm bảo không để
thất thốt vốn đầu tư. Đồng thời khơng được coi nhẹ công tác giáo dục


17
chính trị, tư tưởng; cơng tác phổ biến, quảng bá các kiến thức khoa học,
kinh tế cho quần chúng tín đồ.
Đảm bảo cho tín đồ được sinh hoạt tơn giáo bình thường, tham gia sinh
hoạt và hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần lành mạnh.
Ba là, tập hợp quần chúng có đạo tham gia vào các tổ chức đồn thể
chính trị-xã hội; chăm lo bồi dưỡng, đào tạo cán bộ là người có đạo, nhất là
đối với cán bộ cơ sở nơi có đơng đồng bào theo đạo.
Cần tạo điều kiện thuận lợi cho quần chúng tín đồ tơn giáo được sinh
hoạt một cách bổ ích, hồ nhập xã hội bằng các tổ chức đoàn thể quần chúng,
qua đó nâng cao trình độ mọi mặt cho tín đồ. Trong đó, quan tâm chọn lựa,
bồi dưỡng những nhân tố cốt cán ở cơ sở vùng giáo. Vấn đề chăm lo tập hợp
giáo dục lớp trẻ là tín đồ tơn giáo phải được xem là nội dung hoạt động
thường xuyên của các cấp uỷ Đảng. Đây chính là lực lượng, cùng với các tầng
lớp thanh niên khác sẽ là nhân tố nòng cốt, liên quan đến sự phát triển của đất
nước hiện nay và mai sau.
Bên cạnh đó, cần đấu tranh thẳng thắn và uốn nắn đối với các hội đồn tơn
giáo có xu hướng hoạt động lệch lạc, lơi kéo tín đồ tơn giáo các lứa tuổi khác
nhau xa rời mục tiêu của cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể quần chúng, cần phát triển
nhiều hình thức tập hợp theo nghề nghiệp và nhu cầu cuộc sống; các loại hình
câu lạc bộ, quỹ sinh hoạt tập thể. Đặc biệt hình thức tự quản trên địa bàn thơn
ấp, tổ dân phố, các hội đồng hương, đồng ngũ, đồng niên, đồng mơn, các lễ
hội truyền thống do các đồn thể làm nịng cốt có sự phát triển lành mạnh và
tiết kiệm. Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đối với các hình thức tổ chức của nhân dân.

Bốn là, tuyên truyền, hướng dẫn quần chúng tín đồ Cơng giáo thực hiện
nếp sống văn hoá, nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với những hủ tục
và các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng.


18
Trước hết, cần hướng dẫn cho các địa phương có đông đồng bào tôn
giáo xây dựng các quy ước, hương ước văn hố của thơn, xóm, khu phố. Có
biện pháp đấu tranh ngăn chặn việc lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền mê tín
chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vận động quần chúng tín đồ
đấu tranh, giáo dục những người lợi dụng tôn giáo.
Năm là, vận động chức sắc, tu sĩ Công giáo.
Trong công tác vận động cần quan tâm đến việc thăm hỏi, tranh thủ xây
dựng mối quan hệ hợp tác trên cơ sở tôn trọng, thật sự tin tưởng và hiểu biết
lẫn nhau giữa cán bộ và các chức sắc; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và những
nhu cầu chính đáng của đội ngũ chức sắc, tạo điều kiện giúp đỡ họ trong cả
việc đời lẫn việc đạo.
Tuyên truyền và phổ biến các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước nói chung, về tơn giáo nói riêng, để họ hiểu biết và thực
hiện đúng. Đồng thời, có kế hoạch định kỳ truyền đạt các thông tin về đời
sống kinh tế, văn hoá - xã hội của đất nước, địa phương cho họ biết; vận động
và tạo điều kiện thuận lợi cho chức sắc tham gia các tổ chức chính trị và cơng
tác xã hội, chăm lo đến lợi ích cộng đồng.
Sáu là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể với cơng
tác vận động quần chúng tín đồ Cơng giáo.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc cho
phù hợp với từng đối tượng quần chúng tín đồ các tơn giáo. Mặt trận Tổ quốc
phải đảm bảo cao nhất công tác thực hiện chính sách đại đồn kết tồn dân
tộc, tập hợp mọi lực lượng, trong đó có đồng bào các tơn giáo, vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng, văn minh.

Coi trọng vai trị của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể trong cơng tác
tổ chức quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị trong vùng giáo. Các tổ
chức đó phải được đầu tư về cơ sở vật chất, được cung cấp thông tin cần thiết
và có con người cụ thể làm cơng tác tơn giáo.


19
Các tổ chức xã hội theo nghề nghiệp là những tổ chức tập hợp rộng rãi
quần chúng hoạt động đáp ứng những lợi ích thiết thân, những nhu cầu, sở
thích của các tầng lớp nhân dân, đồng thời qua đó góp phần xây dựng con
người mới và tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Công tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo chỉ thành cơng khi đội
ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị có sự
hiểu biết về lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo; nắm vững chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước. Trong hoạt động của mình, đội ngũ cán bộ phải giúp
đỡ người theo đạo, đưa lại lợi ích thiết thực cho quần chúng tín đồ Cơng giáo
đúng với chính sách tự do tín ngưỡng, tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
1.1.2.2. Phương pháp vận động quần chúng
Cơng tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo là cơng việc vừa mang
tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật, điều đó địi hỏi sự cố gắng vươn lên
với tinh thần cách mạng rất cao của người làm cơng tác vận động quần chúng
tín đồ tơn giáo trong tình hình hiện nay.
Thơng thường có hai cách vận động: vận động tập trung và vận động cá
biệt. Vận động tập trung có thể thơng qua tổ chức chính quyền địa phương cơ sở,
các đồn thể chính trị xã hội mà tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, có thể làm theo từng đợt và theo từng u cầu đề ra. Ngồi ra, cịn
cách vận động cá biệt có ý nghĩa quan trọng, mà bản thân cán bộ làm công tác
vận động quần chúng tôn giáo cần phải am hiểu cách vận động này.
Trong công tác vận động, cần hết sức tranh thủ sự ủng hộ và tham gia
của những người có trách nhiệm trong tổ chức tơn giáo. Trong quần chúng tín

đồ cũng cần phân loại các đối tượng để vận động. Những người có uy tín
trong dịng họ, trong các thơn xóm, trong các xứ đạo, họ đạo, những người
trước đây đã từng tham gia Ban Hành giáo, phụ trách các hội đoàn. Những
người làm kinh tế giỏi, họ hàng với giám mục, linh mục, những người cao
tuổi, những gia đình chính sách, người có cơng với cách mạng.


20
Có thể vận động theo tính chất nghề nghiệp, sở thích, tuổi tác của tín đồ
tơn giáo. Một trong những phương thức vận động có tầm quan trọng và đang
có hiệu quả thiết thực là vận động theo giới tính, thơng qua các tổ chức chính
trị xã hội như: Đồn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh và một số tổ chức khác.
Đáng lưu ý là, trong nội dung vận động, cũng như cách thức vận động
tín đồ tơn giáo cần phải phù hợp với đối tượng, nếu không sẽ hạn chế đến kết
quả cơng tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng đồng tình với cách: "Đối với nơng
dân Cơng giáo, có đội đã đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra giải thích, nhiều cán
bộ hễ nói đến Cha cố, khơng phân biệt tốt xấu, cứ gọi là thằng, làm cho nông
dân Công giáo khó chịu" [39, tr.332]. Người phê bình những cán bộ hay "đao
to búa lớn", thích nói "khách quan, chủ quan", nào "tích cực", nào "khoa học
hố", "gì gì hố" mà tốt nhất là nên miệng nói, tay làm, làm gương cho người
khác bắt chước từ đạo đức đến tác phong: "Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân mình phải làm mực
thước cho người ta bắt chước" [38, tr.552]. Nhấn mạnh đến phương pháp vận
động quần chúng của cán bộ, Người khẳng định: "Đồng bào thiểu số hay đa
số, lương hay giáo, cán bộ biết cách làm thì đều vận động được" [39, tr.57].
Phải duy trì và sáng tạo các hình thức tổ chức, phong trào hoạt động ở
cơ sở nhằm phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, thu hút sự tham gia, hồ
nhập của tín đồ, chức sắc các tôn giáo vào mọi hoạt động chung phát triển địa
phương, đất nước thơng qua các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị và các

tổ chức xã hội-nghề nghiệp khác. Trong mọi trường hợp, phải có lịng tin vào
quần chúng, không thể để họ xa rời Đảng, dẫn đến mất quần chúng; càng không
thể đẩy quần chúng vào thế đối lập với Đảng và với toàn bộ hệ thống chính trị, vì
như thế là mắc mưu kẻ thù, để chúng có cớ can thiệp vào nội bộ của ta.
Như vậy, cơng tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo, ngồi những
nội dung nói chung, cịn có nội dung cụ thể, phù hợp với mỗi tôn giáo ở mỗi
địa bàn khác nhau. Trong đó, cần phải có quan điểm toàn diện, vừa coi trọng


21
nhân tố vật chất, vừa coi trọng nhân tố tinh thần, như những lợi ích thiết thân
của quần chúng tín đồ.
Trong tình hình hiện nay, tơn giáo đã và đang có nhiều diễn biến phức
tạp về nhận thức tư tưởng và thái độ, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn
định chính trị xã hội. Với chiến lược “Diễn biến hồ bình”, các thế lực thù
địch ln lợi dụng nhân quyền và tơn giáo cho những mục đích chính trị
đen tối. Bằng chiêu bài tự do tơn giáo, dân chủ, nhân quyền, chúng tìm mọi
thủ đoạn lừa bịp, lơi kéo, kích động quần chúng các tơn giáo gây ra những
cuộc bạo loạn nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết tồn dân tộc, gây mất ổn định
tình hình an ninh, chính trị, trật tự an tồn xã hội. Vì vậy, hơn bao giờ hết,
thực hiện nghiêm túc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các chủ
trương, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước là điều kiện cơ bản để
đảm bảo thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tín đồ tơn giáo nhằm
thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, chống lại và làm thất bại âm mưu lợi
dụng tôn giáo của các thế lực thù địch phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ CÔNG GIÁO CỦA
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ TỈNH ĐỒNG NAI

Công tác vận động phụ nữ tôn giáo là một bộ phận quan trọng của công

tác vận động phụ nữ dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề tôn
giáo và vấn đề công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhằm
động viên, phát huy vai trò, khả năng của phụ nữ tơn giáo đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của các cấp Hội Liên hiệp phụ nữ ở
Đồng Nai
* Hội Liêp hiệp phụ nữ Việt Nam (còn được gọi là Hội) là tổ chức
chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; phấn đấu vì sự phát triển


22
của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội có mạng lưới tổ chức 4 cấp từ trung ương
đến tỉnh, huyện và cơ sở.
Về hội viên, tại Điều 3, chương II của Điều lệ Hội LHPN Việt Nam
khóa XI, quy định: “Phụ nữ Việt Nam từ 18 tuổi trở lên không phân biệt dân
tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, nơi cư trú; tán thành Điều lệ Hội và tự nguyện
tham gia tổ chức Hội thì được cơng nhận là hội viên”.
* Chức năng của các cấp Hội LHPN Đồng Nai:
Các cấp Hội LHPN ở Đồng Nai là những tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc,
hoạt động vì sự bình đẳng và phát triển của phụ nữ; có chức năng đại diện chăm
lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam
sống trên địa bàn tỉnh, trong đó có đơng đảo các tầng lớp phụ nữ có đạo; tham
gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước, chính quyền địa phương.
Đồn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ là tín đồ các
tôn giáo thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới.
* Nhiệm vụ của các cấp Hội LHPN Đồng Nai:
- Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm

chất đạo đức, lối sống; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước đến các tầng lớp phụ nữ sống trên địa bàn tỉnh.
- Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng
Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vận động, hỗ
trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, đặc biệt đối với phụ nữ dân
tộc, phụ nữ tôn giáo.
- Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát
việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà


23
nước có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia
đình và trẻ em.
- Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh, đặc biệt chú trọng việc
phát triển tổ chức Hội ở vùng có đơng đồng bào có đạo.
Thơng qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cấp Hội
Liên hiệp phụ nữ tỉnh Đồng Nai thực hiện công tác tôn giáo bằng việc tổ chức
tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước cho quần chúng, hội viên, phụ nữ tín đồ các tơn giáo, đồng thời
nắm bắt kịp thời và phản ánh với Đảng, Nhà nước tâm tư, nguyện vọng chính
đáng của quần chúng phụ nữ các tôn giáo; Hội phối hợp cùng các cơ quan
chức năng thực hiện tốt chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước.
Công tác tôn giáo của Hội LHPN ở Đồng Nai là các hoạt động của Hội
trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình cơng tác để đưa các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nói chung và các chính sách,
pháp luật về tơn giáo nói riêng đến với quần chúng, hội viên phụ nữ, phụ nữ
là tín đồ các tơn giáo. Với chức năng, nhiệm vụ của Hội Liên hiệp phụ nữ là
vận động, tuyên truyền, tạo điều kiện cho phụ nữ các giới, trong đó có nữ tu

và phụ nữ các tơn giáo tích cực học tập, nâng cao trình độ mọi mặt. Bên cạnh
đó, các cấp Hội phụ nữ trên địa bàn tỉnh cịn căn cứ vào tính chất đặc thù của
các tôn giáo để tổ chức nhiều loại hình hoạt động phù hợp, phong phú để
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ các giới; giúp nữ tu và phụ
nữ có đạo nắm được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các nhiệm vụ của Hội, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của
địa phương; vận động họ tham gia vào tổ chức Hội, thực hiện quyền và nghĩa
vụ của người cơng dân góp phần vào cơng cuộc xây dựng tỉnh Đồng Nai ngày
càng phát triển, giàu đẹp, văn minh.
1.2.2. Nội dung và phương pháp vận động phụ nữ Công giáo của Hội
Liên hiệp phụ nữ ở Đồng Nai


24
1.2.2.1. Nội dung công tác vận động phụ nữ Công giáo của Hội Liên
hiệp phụ nữ
Đồng Nai là tỉnh có đơng đồng bào có đạo. Dân số của tỉnh là
2.569.400 người, trong đó nữ có 1.301.100 người, chiếm 50,6% dân số toàn
tỉnh. Phụ nữ từ 18 tuổi trở lên 651.814 người, trong đó, phụ nữ có đạo là
411.488 người, phụ nữ theo đạo Công giáo là 231.547 người, chiếm 35,5%
tổng số phụ nữ trên địa bàn tỉnh và chiếm 56,27% tổng số phụ nữ có đạo [25,
tr.1]. Với hơn 35% dân số theo đạo Công giáo, đây là một lực lượng lao động
đông đảo, tham gia trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của tỉnh
như công nghiệp, nơng nghiệp, dịch vụ… có nhiều đóng góp cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Những năm gần đây, các xứ đạo trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chuyển
biến tích cực, đa số giáo dân thực hiện đúng phương châm “tốt đời, đẹp đạo”,
“Kính Chúa, yêu nước”, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường. Tuy
nhiên, trong hàng ngũ chức sắc phần lớn hiện nay được trẻ hóa, bên cạnh
những người có thái độ tương đối tiến bộ, hợp tác với chính quyền để giải

quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng, vẫn cịn một số ít cực
đoan, q khích có những việc làm, hành động vi phạm chính sách, pháp luật,
gây căng thẳng giữa giáo hội với tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận.
Trong sinh hoạt tơn giáo thường xảy ra những việc làm vi phạm pháp
luật, đặc biệt là những vi phạm về sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự, thậm chí
xây dựng cả nhà nguyện, dựng tượng đài trái phép trên đất nông nghiệp, đất
quy hoạch quốc phòng. Một bộ phận giáo dân bị ràng buộc, chi phối nặng bởi
thần quyền, giáo quyền, nhất là tín đồ cao tuổi, phụ nữ sùng đạo đến cuồng
tín, ln vâng phục các chức sắc, kể cả chức sắc cực đoan một cách mù
quáng. Những đối tượng này dễ bị xúi dục tham gia vào những vụ việc chống
đối chính quyền hoặc tung tin đồn nhảm.
Bên cạnh đó, Tịa Giám mục Xuân Lộc và các giáo xứ trên địa bàn tỉnh
mô phỏng các hình thức tập hợp quần chúng của các đoàn thể trong hệ thống


25
chính trị của Nhà nước ta đã thành lập và tổ chức các hội đồn gần như sóng
đơi, tương ứng để tranh giành, tập hợp quần chúng, phát triển đạo, truyền bá
giáo lý và củng cố đức tin. Các loại hội đồn này có cơ cấu chặt chẽ, có linh
mục phụ trách hướng dẫn sinh hoạt định kỳ ở các xứ, họ đạo. Tất cả các tầng
lớp phụ nữ Công giáo đều có thể gia nhập vào một hay nhiều hội đồn thích
hợp với mình tùy theo tâm lý, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp. Việc gia nhập
các hội đồn Công giáo vừa đáp ứng nhu cầu sống đạo của mỗi tín đồ, vừa thể
hiện được sự liên kết, gắn bó cao trong sinh hoạt tơn giáo, phù hợp với phong
tục tập quán, vừa đáp ứng được với những đặc điểm của nghi lễ Công giáo là
phải được biểu hiện ra ngồi bằng các hình thức phụng tự khác nhau.
Theo số liệu khảo sát của các ngành, các địa phương và số liệu đăng ký
hoạt động hội đồn của Tịa Giám mục Xuân Lộc và của các giáo xứ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai, tồn tỉnh có hơn 45 tổ chức, hội đồn với hơn 780 nghìn
tín đồ tham gia, chiếm 86% tín đồ Cơng giáo tồn tỉnh. Trong đó, có hơn 93%

phụ nữ Cơng giáo tham gia các loại hình tổ chức, hội đồn từ cấp giáo phận
đến cấp giáo xứ do Giáo hội tổ chức như: tham gia vào nhóm hội đồn phục
vụ lễ nghi tơn giáo: ca đồn, nhạc đồn, dâng hoa; tham gia vào nhóm hội
đồn theo lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, gồm có: giới trẻ, giới hiền mẫu, giới
cao niên, giáo chức Công giáo, bác sĩ Công giáo, doanh nhân Công giáo, công
nhân Công giáo; nhóm hội đồn chun biệt suy niệm, cầu nguyện, bác ái
như: hội con cái đức mẹ, hiệp hội thánh mẫu, gia đình cùng theo Chúa, gia
đình phúc âm, thăng tiến hơn nhân và gia đình, nữ vương đồng trinh, bác ái, ái
hữu; các hội đồn liên quan đến chính trị xã hội như: giáo lý viên, con đức mẹ,
gia đình Khơi Bình, đạo binh đức mẹ, lịng thương xót chúa, gia đình tận hiến…
Các nhóm hội đồn chun biệt, hội đồn liên quan đến chính trị xã hội
được thành lập tùy theo từng giáo xứ (có xứ thành lập, có xứ khơng thành lập)
nhưng nhóm các hội đồn phục vụ lễ nghi tơn giáo, hội đồn tập hợp theo lứa
tuổi, giới tính là những hội đồn được tổ chức ở tất cả các giáo xứ Công giáo.
Đặc biệt là hội đồn tập hợp theo lứa tuổi, giới tính là những hội đồn quy mơ


×