Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Văn hoá công sở ở huyện mỹ đức, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.02 MB, 116 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại, vai trị của văn hóa ngày càng được khẳng định.
Văn hóa được xem là động lực, hệ điều tiết, thúc đẩy quá trình phát triển theo
hướng nhân văn, bền vững. Các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam, đặc biệt là từ Đại hội VI đến nay đã thể hiện một tầm nhìn chiến
lược và nhất qn khi ln khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nhằm phát huy hơn nữa vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt
Nam chỉ rõ:
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt
chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển [18].
Để văn hóa thực sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như
tinh thần Nghị quyết của Đảng, đòi hỏi phải có sự triển khai đồng bộ của các
cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội. Xây dựng văn hóa cơng sở chính
là sự hiện thực hố chủ trương, nghị quyết của Đảng về việc đưa nhân tố văn
hóa vào trong cuộc sống.
Văn hóa cơng sở là một hình thức của văn hóa tổ chức, thể hiện những
giá trị nhân văn, phù hợp với tơn chỉ, mục đích của các cơ quan hành chính
nhà nước, đồng thời phát huy sức mạnh nội lực, góp phần quan trọng nâng
cao hiệu quả hoạt động và uy tín của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay


2
việc nhận thức cũng như triển khai Quy chế văn hóa cơng sở [52] tại các cơ
quan hành chính nhà nước cịn bộc lộ nhiều điểm bất cập. Chính vì thế, vấn


đề xây dựng văn hóa cơng sở hiện nay có ý nghĩa cấp thiết cả về phương diện
lý luận và thực tiễn.
Mỹ Đức là huyện nằm ở tận cùng phía Tây Nam của Thành phố Hà Nội.
Trong giai đoạn phát triển mới, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, huyện Mỹ
Đức đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức như: sự gia tăng khoảng
cách về kinh tế- xã hội của Huyện đối với các quận, huyện khác của thành phố
Hà Nội, sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ, sự suy giảm về uy tín và vị thế của một bộ
phận không nhỏ, cán bộ, đảng viên… Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy - Thường trực Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, huyện Mỹ Đức đã và
đang chủ động, tích cực thực hiện các giải pháp đổi mới toàn diện, nhằm tạo nên
sức mạnh mới để phát triển. Năm 2013, Thành phố Hà Nội xác định là “Năm kỷ
cương hành chính”, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về kỷ luật, kỷ cương hành
chính nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công
chức. Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện Mỹ Đức cũng đã có nhiều biện pháp
nhằm cải cách thủ tục hành chính, đưa nhân tố văn hóa thấm sâu vào từng lĩnh
vực công tác, từng cán bộ công chức trong Huyện. Trong bối cảnh đó, việc thực
hiện văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ Đức có ý nghĩa hết sức quan trọng cho sự phát
triển của Huyện trong giai đoạn mới. Được sự gợi mở và khích lệ của các thầy,
cơ giáo ở Viện Văn hố và phát triển, em mạnh dạn chọn đề tài “Văn hố cơng
sở ở huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp hệ
cao học chuyên ngành văn hóa học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, vấn đề văn hoá tổ chức, cụ thể hơn là văn hóa doanh
nghiệp, văn hố xí nghiệp, văn hóa cơng ty đã được bàn đến từ những thập kỷ
60 - 70 của thế kỷ XX. Tổng kết kinh nghiệm phát triển của các tập đoàn kinh


3
tế, các công ty lớn trên thế giới các nhà khoa học và quản lý đều nhận thấy

một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công là do các công ty này đã
quan tâm đến đội ngũ nhân sự, đến việc tạo dựng một môi trường làm việc
hiệu quả, đến đạo đức kinh doanh, đến việc xây dựng những triết lý kinh
doanh... hay nói cách khác, họ thành cơng bởi họ đã biết khai thác tốt mối
quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, đã biết xây dựng văn hóa kinh doanh.
Khởi đầu từ Mỹ, khái niệm văn hoá kinh doanh đã được người Nhật
tiếp nhận và phát triển. Các nhà kinh tế học của Nhật Bản đã có nhiều cơng
trình tổng kết kinh nghiệm của các cơng ty lớn như Sony, Mitsusita, Honda...
và xây dựng lý thuyết về văn hóa doanh nghiệp, văn hóa xí nghiệp của Nhật
Bản. Khái niệm văn hóa cơng sở có được bàn tới với tư cách là một loại văn
hóa tổ chức, ở một góc độ nhất định, nó có nhiều nét tương đồng với văn hóa
doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, vấn đề văn hóa tổ chức, văn hóa doanh nghiệp, văn hố
kinh doanh được đề cập muộn hơn. Năm 1995, lần đầu tiên, cuộc Hội thảo
”Văn hoá và kinh doanh” do Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia
phối hợp với Uỷ ban Quốc gia UNESCO được tổ chức. Cho đến nay, có khá
nhiều các cơng trình nghiên cứu được cơng bố dưới dạng sách hoặc bài đăng
trên tạp chí, bài báo có liên quan đến vấn đề này. Tiêu biểu như các cơng trình
Văn hố kinh doanh và triết lý kinh doanh của tác giả Đỗ Minh Cương, Môi
trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh do GS.TS. Ngơ Đình Giao chủ
biên, Tinh thần doanh nghiệp - giá trị định hướng văn hoá kinh doanh Việt
Nam của Trần Quốc Dân,..., cùng hàng loạt các bài báo của các tác giả Đỗ
Huy, Phạm Xuân Nam, Hoàng Vinh, Lê Quý Đức... Bên cạnh đó là một số
luận văn thạc sĩ như: Xây dựng văn hóa doanh nghiệp của Trần Thuý Vân,
Văn hóa doanh nghiệp (qua khảo sát tại một số Công ty ở Hà Nội) của tác giả
Trương Thanh Cần...
Cùng với việc quan tâm tới văn hóa tổ chức của các cơng ty, xí nghiệp,


4

những đơn vị kinh doanh... thì vấn đề văn hóa cơng sở trong các cơ quan hành
chính nhà nước cũng đã được các nhà khoa học, các nhà quản lý bàn tới.
Tháng 4/2008 Trường Đại học Ngoại thương phối hợp với một số công
ty (FPT, UNILVER) tổ chức Hội thảo Văn hóa cơng sở.
PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung đã tổ chức nghiên cứu đề tài khoa học
cấp Thành phố Văn hóa công sở ở thành phố Hà Nội, đề tài nghiệm thu năm
2009. Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu đã bước đầu xây dựng khung lý
thuyết về văn hóa cơng sở và dành nhiều công sức đánh giá thực trạng xây
dựng văn hóa cơng sở của thành phố Hà Nội đồng thời đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao văn hóa cơng sở của Thủ đơ trong thời gian tới.
TS. Lê Văn Lợi có đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở văn hóa cơng
sở ở Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh
hiện nay - thực trạng và giải pháp đã đi sâu làm rõ thực trạng văn hóa cơng
sở tại một cơ quan là Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ những mặt đã làm được và cả những hạn chế trong xây dựng và
thực hiện văn hóa cơng sở tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, đề tài đã đề xuất các giải pháp để xây dựng văn hóa cơng sở tại hệ
thống Học viện trong thời gian tới.
Cuốn sách Cẩm nang văn hóa ứng xử và giao tiếp công sở của Võ Bá
Đức, Nhà Xuất bản Văn hóa thơng tin, năm 2012 đã đề cập đến các vấn đề
văn hóa doanh nghiệp, văn hóa ứng xử học đường, văn hóa ứng xử bệnh viện
và các kỹ năng ứng xử, giao tiếp.
Có một số luận văn cao học bàn về vấn đề văn hóa cơng sở như : Yếu
tố văn hóa trong việc nâng cao hiệu quả quản lý công sở, Luận văn Thạc sĩ,
năm 2002, của Hồng Xn Tuyền, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh; văn hóa cơng sở ở quận Tây Hồ hiện nay, Luận văn Thạc sĩ văn hóa
học, năm 2010, của Nguyễn Thị Ngân, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh; Văn hóa cơng sở tại các cơ quan hành chính nhà nước ở



5
thành phố Đà Nẵng hiện nay-Luận văn Thạc sĩ văn hóa học, năm 2012, của
Nguyễn Thị Tuyền, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh…
Ngồi ra, cịn có một số bài viết nghiên cứu về văn hóa cơng sở đăng
trên các tạp chí như: Văn hố tổ chức và một số giải pháp phát triển văn hố
cơng sở của Mơi trường văn hóa nơi cơng sở của tác giả Lê Như Hoa (Tạp chí
Văn hóa doanh nhân), 6 bài học từ giá trị văn hóa cơng sở của người Nhật
(Tiền Phong online), Trần Thị Thanh Thủy, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số
tháng 9 năm 2006; Văn hóa cơng sở và giải pháp xây dựng văn hóa cơng sở
của TS. Nguyễn Thị Thu Vân, Tạp chí Quản lý nhà nước, số tháng 6 năm
2008; Xây dựng môi trường văn hóa cơng sở của Hương Ly, Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, số tháng 11 năm 2008; Văn hóa công sở trong bối cảnh truyền
thông đa phương tiện, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 12 năm 2011;....
Như vậy, tại Hà Nội, vấn đề văn hố cơng sở bước đầu đã có sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu và các cấp, các ngành. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có cơng trình nào nghiên cứu về văn hố cơng sở ở huyện Mỹ Đức, thành phố
Hà Nội. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu đi trước,
chúng tôi làm sáng tỏ vấn đề văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về văn hóa cơng sở, luận văn đi
sâu khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ Đức đồng thời
đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục nâng cao văn hóa cơng sở ở
huyện Mỹ Đức trong thời gian tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về văn hóa cơng sở, vai trị của văn
hóa cơng sở đối với việc cải cách hành chính, xây dựng người Hà Nội thanh
lịch, văn minh hiện nay.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng văn hóa cơng sở ở huyện



6
Mỹ Đức trong những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ Đức
trong giai đoạn mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Khảo sát cơng sở hành chính thuộc khối
quản lý nhà nước, bao gồm:
- Một số phòng chức năng thuộc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức.
- Ủy ban nhân dân một số xã, thị trấn thuộc huyện Mỹ Đức.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đánh giá thực trạng văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ Đức từ khi thực hiện
Quy chế văn hóa cơng sở tại các cơ quan hành chính nhà nước (2007 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong việc xây dựng văn hóa cơng sở.
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là:
Phương pháp lơgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp; phương pháp điều tra và
phỏng vấn sâu, khảo sát thực tế và tổng kết thực tiễn để làm rõ thực trạng, lấy
đó làm căn cứ đề ra giải pháp nhằm nâng cao văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ
Đức trong thời kỳ mới.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa cơng sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa cơng sở ở huyện Mỹ Đức hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao và thực hiện tốt văn hóa cơng sở
ở huyện Mỹ Đức.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu và giảng dạy về văn hóa cho các cơ quan quan tâm đến vấn đề xây
dựng văn hóa cơng sở hiện nay.


7
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.


8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HĨA CƠNG SỞ
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1.1. Khái niệm văn hóa
Ở Phương Tây, thuật ngữ văn hóa vốn bắt nguồn từ tiếng Latinh
“colere”, sau trở thành “culture” với nghĩa là hoạt động cày cấy và vun trồng.
Từ nghĩa hạn hẹp ban đầu gắn với hoạt động nông nghiệp cổ xưa, dần dần
cùng với thời gian nghĩa của thuật ngữ này đã phát triển thành ý nghĩa vun
trồng, bồi đắp hoạt động tinh thần của con người.
Ở Phương Đông, thuật ngữ văn hóa xuất hiện rất sớm. Tại Trung Quốc
thời Tây Hán, nhà văn Lưu Hướng có nhắc tới cụm từ văn hóa trong sách
Thuyết uyển, bài Chi vũ: văn hóa là cách giáo hóa để đem đối lập với vũ lực,
văn hóa là văn trị giáo hóa, dùng văn để cảm hóa con người, hướng con người
tới ba giá trị vĩnh hằng là: chân - thiện - mỹ.
Như vậy, văn hóa là khái niệm xuất hiện đã từ lâu trong lịch sử, tồn tại
và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của lịch sử. Điều này chứng
minh rằng hoạt động văn hóa là hoạt động có tính bản chất của con người, gắn
bó với lịch sử hình thành và phát triển của con người và xã hội loài người.

Trong đời sống của xã hội đương đại, từ “văn hóa” được sử dụng trong
rất nhiều ngữ cảnh khác nhau. Chẳng hạn, người ta có thể nói: văn hóa ứng
xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa tranh luận, văn hóa phê bình…, từ văn hóa ở
đây nói về phép lịch sự, sự lễ độ, sự khiêm nhường biết kiềm chế bản năng cá
nhân trong các mối quan hệ ứng xử xã hội. Gần đây người ta còn nói đến: văn
hóa chính trị, văn hóa quản lý, văn hóa kinh doanh…, từ văn hóa trong ngữ
cảnh này chỉ khía cạnh thành thục, lão luyện của con người trong các lĩnh vực
hoạt động này. Thuật ngữ văn hóa cịn được ghép với các nhóm cộng đồng
người, văn hóa Thái, văn hóa Việt Nam… Thuật ngữ văn hóa ở đây chỉ một


9
phức thể những đặc điểm vật chất và tinh thần làm nên bản sắc văn hóa của
một cộng đồng xã hội nhất định. Chính bởi cách sử dụng như vậy nên khái
niệm văn hóa trở thành đa nghĩa.
Trên đây là nói tới thuật ngữ văn hóa vận dụng trong đời sống hàng
ngày, cịn trong hoạt động khoa học thì thuật ngữ văn hóa trỏ thành một đối
tượng nghiên cứu của một số ngành như: khảo cổ học, dân tộc học, nhân học,
xã hội học, triết học, văn hóa học, lịch sử… Mỗi ngành khoa học kể trên lại
bao gồm nhiều trường phái lý thuyết khác nhau cho nên mỗi nhà khoa học khi
triển khai công việc nghiên cứu đều phải đưa ra quan niệm của mình về văn
hóa. Năm 1952 hai nhà nhân loại học người Hoa Kỳ là A.L Kroeber và C.
Kluckhohn đã làm một bản kiểm kê như sau: từ năm 1971, năm ra đời cuốn
sách “Văn hóa nguyên thủy” của nhà nhân học người Anh E.B.Tylor đến năm
1919 có 7 định nghĩa, từ năm 1920 đến năm 1950 có thêm 157 định nghĩa,
cộng là 164 định nghĩa văn hóa; năm 1967, nhà văn hóa người Pháp Abraham
Moles cho biết có 250 định nghĩa; năm 1994, giáo sư Phan Ngọc cho rằng con
số định nghĩa văn hóa lên tới 400. Con số định nghĩa đến nay không hề dừng
lại, cho nên nhà nghiên cứu triết học người Pháp Jaques Derrida phải thốt lên:
văn hóa chính là cái tên mà chúng ta đặt cho điều bí ẩn khơng cùng với những

ai ngày nay đang tìm cách suy nghĩ về nó.
Và cho đến nay có khoảng hàng ngàn định nghĩa về văn hóa. Tuy là
diễn đạt khác nhau, nhưng có một điểm chung mà mọi người đều thừa nhận
rằng: “văn hóa” là phương thức tồn tại đặc hữu của lồi người, khác về cơ bản
với tổ chức đời sống các quần thể sinh vật trên trái đất. Văn hóa là cái do con
người học được mà có, chứ khơng phải là cái bẩm sinh do di truyền sinh học.
Quan niệm văn hóa trên đây tương đối phù hợp với định nghĩa văn hóa
do nguyên Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor đưa ra nhân dịp phát
động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” (1988-1997). Ơng viết: “Văn hóa
là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và cộng đồng)


10
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên hệ thống các giá trị, truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt ở mọi hoạt động sản xuất vật chất cũng
như sản xuất tinh thần của con người, trong mọi quan hệ ứng xử xã hội hay
thái độ đối với thiên nhiên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi suy ngẫm về văn hóa, Người đưa ra quan
niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Trong cuốn ”Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước
ta” của GS,TS. Hồng Vinh, khái niệm văn hóa đã được ơng trình bày một
cách thấu đáo. Sau khi đưa ra hệ thống các định nghĩa về văn hóa dưới các

góc nhìn khác nhau, ông chốt lại ở tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen và cho
rằng lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm của văn hóa. Từ đó, ơng đi
đến định nghĩa về văn hóa như sau:
Văn hóa là tồn bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong q
trình hoạt động thực tiễn - xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ
ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành
tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, nó có
khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi hoạt động của những con
người sống trong cộng động xã hội ấy [63].
Như vậy, có thể thấy rằng văn hóa có một số đặc trưng cơ bản sau đây:


11
+ Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở lồi người và
do con người sinh ra. Văn hóa là dấu hiệu chỉ phẩm chất tinh thần của con
người, nó hiện diện trong tất cả các mối quan hệ người, trong hoạt động, trong
sản phẩm và hoạt động của con người.
+ Đối với một cộng đồng xã hội, văn hóa thường thể hiện ra như một
lối sống, một kiểu ứng xử riêng biệt và tương đối ổn định; được trao truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
+ Yếu tố cốt lõi của văn hóa một cộng đồng người, là hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội, thể hiện như là bản sắc của cộng đồng, nó có chức năng
điều tiết hành vi của các thành viên, tạo nên sự thống nhất hành động trong
cộng đồng xã hội ấy.
Các nhà nghiên cứu đã chia văn hóa thành hai hình thái: văn hóa cá
nhân và văn hóa cộng đồng.
Văn hóa cá nhân là tồn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ vào mỗi
cá nhân, biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của cá nhân ấy trong đời
sống thực tiễn.

Văn hóa cộng đồng là văn hóa của một nhóm xã hội, nó khơng phải là
số cộng giản đơn của những văn hóa cá nhân - thành viên trong cộng đồng lại.
Văn hóa cộng đồng là toàn bộ tri thức, kinh nghiệm, giá trị, phương thức ứng
xử… mà cả cộng đồng cùng chia sẻ và chấp nhận, đã trở thành truyền thống
của cộng đồng ấy.
Sự phân tích ở trên là cơ sở giúp chúng ta có cơ sở khoa học tiếp cận
những vấn đề mới, đó là văn hóa doanh nghiệp, văn hóa cơng sở,… Đó chính
là những dạng, kiểu của văn hóa, mang đầy đủ trong nó những đặc điểm, đặc
trưng, thuộc tính của văn hóa tổ chức cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm cơng sở
Cơng sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước, có
tư cách pháp nhân, được pháp luật nhà nước điều chỉnh để tiến hành quản lý
các cơng việc có tính chun ngành và phục vụ lợi ích cơng.


12
Nội dung công việc của các công sở là những hoạt động hướng ra bên
ngoài, nhằm thoả mãn các lợi ích chung của nhân dân, được nhà nước bảo vệ
và có cơ chế kiểm tra của nhà nước. Bên cạnh đó, hoạt động của cơng sở cũng
mang tính hướng nội, nó phải đảm bảo nhu cầu làm việc của cán bộ, công
chức, người lao động, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của họ, tạo mọi điều kiện
cho cán bộ, công chức hồn thành trách nhiệm của mình.
Về hình thức tổ chức, công sở là một tổ chức được nhà nước đảm bảo
về nguồn lực (vật chất và con người) để thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhà
nước qui định hình thức tổ chức của công sở và hoạt động của công sở bị lệ
thuộc vào phương thức điều hành của bộ máy nhà nước. Hiện nay ở nước ta
có các loại công sở như công sở sự nghiệp, công sở hành chính…
Như vậy, có thể hiểu cơng sở là nơi để tổ chức các hoạt động và kiểm
sốt cơng việc hành chính, quản lý các mặt của đời sống xã hội, là nơi soạn
thảo và xử lý các văn bản để phục vụ cho công việc chung, đảm bảo các thông

tin cho hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước, nơi phối hợp các bộ phận
cán bộ, công chức theo một cơ chế nhất định để thực hiện một nhiệm vụ được
Nhà nước giao. Do đó, cơng sở là một bộ phận hợp thành tất yếu của thiết chế
bộ máy quản lý Nhà nước.
Trong cuốn Thuật ngữ hành chính do Viện nghiên cứu khoa học hành
chính thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh biên
soạn và ấn hành năm 2009 thì thuật ngữ cơng sở được biểu hiện như sau:
Theo nghĩa rộng, nói đến cơng sở là nói đến các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước nói chung, bao gồm các cơ quan trong hệ thống quyền lực Nhà
nước (Văn phòng Quốc hội, Hội đồng nhân các cấp); các cơ quan trong hệ
thống hành chính Nhà nước (Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
trực thuộc Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các
cơ quan hành chính Nhà nước trực thuộc Bộ, các Uỷ ban nhân dân và các tổ
chức Nhà nước phục vụ cơng ích cho tồn xã hội); các cơ quan Tịa án, Viện
kiểm sát Nhân dân các cấp…


13
Theo nghĩa hẹp, công sở được hiểu là các cơ quan hành chính Nhà
nước, chỉ bao gồm các cơ quan thuộc bộ máy hành chính Nhà nước đứng đầu
là Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước.
Trong một phạm vi hẹp hơn nữa, công sở được dùng đồng nghĩa với
thuật ngữ “trụ sở” chỉ một địa điểm cụ thể, một thực thể hiện hữu về kiến trúc
và các phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động của một cơ quan Nhà nước
nói chung.
Trong Luận văn này, xin được đề cập khái niệm cơng sở theo nghĩa hẹp,
đó là các cơ quan hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương (bao gồm
Chính phủ; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ; Ủy ban
nhân dân các cấp và các cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân). Hay nói cách
khác, cơng sở được đề cập trong Luận văn gọi là công sở hành chính.

Nhiệm vụ chung đối với mọi cơng sở là quản lý (trong nội bộ công sở)
và thực thi công vụ hoặc cung cấp dịch vụ công. Nhiệm vụ chung này có thể
được cụ thể hố thành các nhiệm vụ cụ thể cơ bản sau đây:
- Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch hoạt động;
- Xây dựng và vận hành một cơ cấu tổ chức hợp lý;
- Xây dựng và tổ chức thực hiện Quy chế hoạt động
- Quản lý và phát triển đội ngũ nhân viên.
- Giám sát và kiểm tra hoạt động của đơn vị và cá nhân;
- Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin quản lý;
- Tổ chức hoạt động giao tiếp (trong nội bộ cơng sở và với bên ngồi,
đặc biệt là hoạt động tiếp dân).
- Quản lý việc chi tiêu ngân sách;
- Cung cấp điều kiện vật chất cho thực thi chức trách, nhiệm vụ;
- Bảo vệ chính trị nội bộ; an tồn và an ninh trật tự trong công sở;
- Xây dựng văn hóa cơng sở tích cực và xây dựng cơng sở thành một tổ
chức học tập.


14
- Tham gia nghiên cứu và xây dựng hệ thống chính sách cơng, đặc biệt là
các chính sách liên quan trực tiếp đến ngành, lĩnh vực mà công sở hoạt động.
Cơng sở hành chính có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Một là: công sở là đơn vị cơ bản cấu thành hệ thống hành pháp hoạt
động thường xuyên, liên tục. Cơng sở có địa vị pháp lý, có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn theo luật định;
- Hai là: công sở hoạt động để thực thi quyền lực Nhà nước. Các cơng sở
quản lý hành chính Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước để hoạch định và
quản lý q trình thực thi các chính sách cơng, trong khi các công sở sự nghiệp
chịu trách nhiệm về việc cung cấp các dịch vụ công như giáo dục, y tế,…;
- Ba là: cơng sở có địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về

thực thi công vụ (các chính sách và các dịch vụ cơng) và cơ cấu tổ chức được
quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật và được hệ thống pháp luật đảm bảo
thi hành;
- Bốn là: cơng sở có mối quan hệ mang tính thứ bậc (khái niệm “cấp”
trong cơ cấu thứ bậc) để đảm bảo nguyên tắc tập trung, dân chủ trong điều hành
và có mối quan hệ mang tính phối hợp (khái niệm “hệ”) để đảm bảo nguyên tắc
phối hợp (đồng bộ) trong hành động với các công sở khác trong hệ thống;
- Năm là: công vụ được thực hiện bởi một đội ngũ cán bộ, công chức;
- Sáu là: cơng sở có trụ sở xác định, có kinh phí hoạt động và các công
sản để thực thi công vụ;
- Bảy là: công sở hoạt động để phục vụ lợi ích công, lợi ích của nhân dân.
Trong các đặc điểm trên, đặc điểm thứ hai, thứ năm và thứ bảy là đặc
điểm nổi bật nhất, giúp chúng ta dễ dàng nhận dạng và phân biệt công sở với
các loại tổ chức khác trong xã hội.
1.1.3. Khái niệm văn hóa cơng sở
Văn hóa cơng sở là một khái niệm tương đối mới. Tuy cịn nhiều quan
niệm khác nhau về văn hóa công sở nhưng không thể phủ nhận được mối liên


15
quan mật thiết giữa văn hóa cơng sở và văn hóa tổ chức. Văn hóa tổ chức
được thể hiện dưới các hệ thống giá trị, niềm tin, sự mong đợi của các thành
viên trong tổ chức, trong đó mọi hoạt động tuân theo những chuẩn mực mang
tính truyền thống và những thói quen có khả năng mang bản sắc riêng mà mọi
thành viên trong tổ chức tuân theo một cách tự nguyện. Văn hóa tổ chức giúp
chúng ta nhìn thấy được sự khác nhau giữa các tổ chức khác nhau. Văn hóa
cơng sở được tìm hiểu và giải thích trên những nghĩa tương đồng với văn hóa
tổ chức, có tính đến đặc thù riêng của công sở.
Trong từ điển tra cứu về quản lý Nhà nước và quản lý địa phương của
Học viện Công vụ Liên bang Nga, khái niệm văn hóa cơng sở (hay văn hóa cơ

quan) được nhận biết theo một quan niệm rộng hơn, đó là:
Tập hợp các định hướng và giá trị, chuẩn mực do truyền thống hay
thói quen tạo nên, đặc trưng riêng của hoạt động công vụ tại các cơ
quan Nhà nước, thể hiện ở mục tiêu của tổ chức, quan điểm, thái độ
của con người đối với công việc, cách xử lý các xung đột… [25].
Ở nước ta hiện nay, cụm từ “văn hóa cơng sở” được sử dụng khá nhiều
trong cuộc sống, cũng như trong một số văn bản quản lý Nhà nước, tuy nhiên
xác định về văn hóa cơng sở cịn nhiều ý kiến khác nhau.
Khái niệm “văn hóa cơng sở” được các nhà nghiên cứu giải thích theo
quan niệm rộng hẹp khác nhau. Có ý kiến cho rằng văn hóa cơng sở đồng
nghĩa với văn hóa giao tiếp ứng xử trong cơng sở:
Văn hóa cơng sở được hiểu là những quy tắc, các chuẩn mực ứng
xử của cán bộ, công chức nhà nước với nhau và với đối tượng giao
tiếp là công dân, nhằm phát huy tối đa năng lực của những người
tham gia giao tiếp để đạt hiệu quả cao nhất trong công việc tại
công sở [24].
PGS, TS Vũ Thị Phụng (Khoa lưu trữ học và Quản trị văn phòng) đưa
ra quan niệm:


16
Văn hóa cơng sở là tổng hịa những giá trị hữu hình và vơ hình, bao
gồm trình độ nhận thức, phương pháp tổ chức, quản lý, môi trường
- cảnh quan, phương tiện làm việc, đạo đức nghề nghiệp và phong
cách giao tiếp ứng xử của cán bộ, công chức nhằm xây dựng một
công sở văn minh, lịch sự, hoạt động đúng pháp luật và hiệu quả
cao [37].
Theo PGS, TS Nguyễn Đăng Dung - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, khái niệm văn hóa cơng sở được hiểu là:
Tồn bộ những giá trị tạo nên nền nếp, hiệu quả hoạt động của cơ

quan, bao gồm những giá trị văn hóa vật thể (cơ sở vật chất, môi
trường làm việc ở công sở, quần áo, trang phục, phù hiệu của công
chức làm việc tại cơng sở…) và văn hóa phi vật thể (văn hóa ứng xử,
giao tiếp, văn hóa lãnh đạo, văn hóa nghe và trả lời điện thoại...) [7].
Quy chế Văn hóa cơng sở tại các cơ quan hành chính nhà nước do Thủ
tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg, thì
văn hóa cơng sở bao gồm các yếu tố được quy định trong Quy chế, như: trang
phục, giao tiếp và ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành
nhiệm vụ và vấn đề bài trí cơng sở tại các cơ quan hành chính nhà nước.
Quy chế này còn nêu những nguyên tắc và mục đích thực hiện văn hóa
cơng sở, cụ thể:
- Về ngun tắc:
Việc thực hiện văn hóa cơng sở tn thủ các nguyên tắc sau đây:
1. Phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc và điều kiện
kinh tế - xã hội.
2. Phù hợp với định hướng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức chuyên nghiệp, hiện đại;
3. Phù hợp với các quy định của pháp luật và mục đích, yêu cầu cải cách
hành chính, chủ chương hiện đại hóa nền hành chính Nhà nước [52].


17
- Về mục đích:
Việc thực hiện văn hóa cơng sở nhằm các mục đích sau đây:
1. Bảo đảm tính trang nghiêm và hiệu quả hoạt động của các cơ
quan hành chính Nhà nước;
2. Xây dựng phong cách ứng xử chuẩn mực của cán bộ, công chức,
viên chức trong hoạt động công vụ, hướng tới mục tiêu xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao [52].

Tựu trung lại, văn hóa cơng sở được nhìn nhận ở đây như một dạng của
văn hóa tổ chức của các cơ quan công quyền chịu trách nhiệm thực thi nhiệm
vụ tổ chức và quản lý xã hội gắn với chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ mà Nhà
nước và nhân dân giao phó.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những quan niệm trên, có thể hiểu khái
niệm văn hóa cơng sở như sau: văn hóa cơng sở là các hoạt động văn hóa của
cơ quan nhà nước diễn ra theo hệ thống các giá trị và chuẩn mực nhất định
nhằm liên kết và tổ chức các cán bộ, công chức, viên chức hướng tới thực
hiện những mục tiêu và nhiệm vụ nhất định theo những phương thức nhất
định tạo nên bản sắc riêng phản ánh sức sống, sức sáng tạo của mỗi công sở.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm này, chúng ta cần tìm hiểu thêm các yếu tố
cấu thành nên văn hóa cơng sở.
1.2. CẤU TRÚC CỦA VĂN HĨA CƠNG SỞ

1.2.1. Hệ thống giá trị văn hóa cơng sở
Giá trị là một thuật ngữ xã hội học, theo C.Kluckhohn, nhà nhân loại
học Hoa Kỳ thì “giá trị là những quan niệm thầm kín hay bộc lộ về các điều
ao ước riêng của cá nhân hay của nhóm. Những quan niệm ấy chi phối sự lựa
chọn các phương thức, phương tiện và mục tiêu của hành động” [64].
Điều đó có nghĩa: giá trị là cái cao cả, đại diện cho những gì được coi
là tốt đẹp nhất, khiến mọi người có thể phân biệt được thiện - ác, đúng - sai,


18
tốt - xấu. Trong hệ thống giá trị, không phải mọi thành tố đều quan trọng
ngang nhau, mà có cái chính, cái phụ, cái phát sinh. Giá trị chính đóng vai trò
chủ đạo, tức giá trị định hướng. Giá trị định hướng có khả năng liên kết, chi
phối các giá trị khác, tạo nên động lực tinh thần cho một xã hội.
Các cơng sở hành chính muốn đạt được mục tiêu hoạt động cần phải
xác định giá trị định hướng cho mình.

Giá trị định hướng chính là lý tưởng xã hội của cộng đồng. Nó thuộc
phạm trù các giá trị đạo đức, được thể hiện dưới dạng trách nhiệm đối với
cơng việc chung, khơng tham ơ, lãng phí của cơng, không mưu hại đồng
nghiệp để tiến thân, không ganh đua đố kị chà đạp lên người khác vì mưu cầu
lợi ích của mình. Trong cơng sở mọi thành viên phải cùng nhau xây dựng một
bầu khơng khí tinh thần lành mạnh, đùm bọc thương yêu lẫn nhau, trân trọng
khả năng của nhau, cùng hợp tác làm việc.
Giá trị định hướng còn biểu hiện như “phương châm” hoạt động của
một ngành nào đó. Để xây dựng giá định hướng cho các cơng sở hành chính
hiện nay, xin trở lại với tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng của mình đã có nhiều bài
viết, bài phát biểu mang tính tổng kết, có ý nghĩa sâu sắc về những giá trị định
hướng của các ngành, các giới.
Với mỗi chiến sĩ trong quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất các phẩm
chất đạo đức và cũng chính là những giá trị mang tính định hướng như sau:
Trung với nước, hiếu với dân
Nhiệm vụ nào cũng hồn thàn
Khó khăn nào cũng vượt qua
Kẻ thù nào cũng đánh thắng
Với phụ nữ, Người nêu tám chữ: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Với cán bộ, công chức nhà nước, Người nêu lên tám chữ: Cần, Kiệm,
Liêm, Chính, Chí cơng, Vơ tư.


19
Trong tác phẩm Đời sống mới (với bút danh Tân Sinh), Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã cảnh báo: “Những người trong các cơng sở đều có nhiều hoặc ít
quyền hành. Nếu khơng giữ đúng Cần. Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ
bại, biến thành sâu mọt của dân” [36, tr.104].
Tháng 6- 1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh

viết tác phẩm Cần, kiệm, liêm, chính để tiếp tục huấn luyện cán bộ, đảng viên.
Một lần nữa, Người chỉ rõ: Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của đời sống
mới, nền tảng của thi đua ái quốc. Người coi Cần, Kiệm, Liêm, Chính là bốn
đức chủ yếu của một con người, như bốn mùa của trời (Xuân, Hạ, Thu,
Đông), như bốn phương của đất (Đông, Tây, Nam, Bắc) và kết luận “Thiếu
một mùa, thì khơng thành trời. Thiếu một phương, thì khơng thành đất. Thiếu
một đức, thì khơng thành người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ ra mối quan
hệ giữa bốn điều đó rằng: “Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính. Nhưng một
cây cần có gốc, rễ lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người
phải Cần, Kiêm, Liêm nhưng cịn phải Chính mới là người hồn tồn” [36,
tr.643]. Người chỉ rõ: “Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm),
Chính là Thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam là tà, là ác” [36, tr.643].
Mặc dù mỗi đức tính đều có những nội dung riêng, nhưng chúng lại
liên quan mật thiết với nhau và tạo thành một chỉnh thể, là thước đo văn minh
tiến bộ của một dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “một dân tộc
biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là
một dân tộc văn minh tiến bộ” [36, tr.642].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cơng sở có người cán bộ, giữ được
Cần, Kiệm, Liêm, Chính là người chí cơng, vơ tư, tức là chính tâm, thân dân.
Mà một người chính tâm, thân dân là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt
lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc và Đảng lên trên hết.
Để thực hiện di huấn của Người, Điều 15, Luật cán bộ, cơng chức được
Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4


20
thông qua ngày 13/11/2008 cũng chỉ rõ: “Cán bộ, công chức phải thực hiện
cần, kiêm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư trong hoạt động cơng vụ” [39].
Sự hình thành giá trị định hướng liên quan đến vấn đề nhân cách của
đội ngũ cán bộ, công chức, bởi hơn ai hết họ chính là hạt nhân trong xây dựng

văn hóa cơng sở, đồng thời là tấm gương phản ánh văn hóa cơng sở. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã viết: mn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém. Người cịn dạy: có tài mà khơng có đức là đồ vơ dụng, có đức mà
khơng có tài thi làm việc gì cũng khó.
Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ đổi mới hiện
nay được Đảng ta quan tâm sâu sắc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa
VIII và các Nghị quyết Đại hội IX, X, XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ “xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực” và “hồn thiện chế độ cơng
vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo đức”. [15, tr.135].
Như vậy, có thể thấy giá trị định hướng của văn hóa cơng sở là hướng
tới xây dựng và hồn thiện đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ đức và tài.
Tài là chỉ người cán bộ, cơng chức có trình độ trong thời kỳ mới phải
toàn diện, vừa rộng, vừa sâu. Phải giỏi về chuyên môn; hiểu biết những kiến
thức liên quan đến nghiệp vụ lãnh đạo, quản lý, điều hành, vận động quần
chúng; có khả năng nắm bắt và xử lý được các thông tin… Tổng hợp những
mặt đó, chúng ta sẽ có những cán bộ, công chức giỏi và đội ngũ cán bộ, cơng
chức mạnh.
Bên cạnh những giá trị về trí tuệ, tài năng, thì những giá trị đạo đức
đóng vai trị rất quan trọng. Các giá trị đạo đức là hệ giá trị dành cho sự phân
biệt cái đúng, cái sai, hay yêu cầu cái tốt, ghét cái xấu, quý trọng con người,
luôn làm những điều tốt, không tham nhũng, đầu cơ trục lợi của công, luôn
hướng theo giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Đạo đức công chức là thước đo các giá
trị văn hóa trong hoạt động cơng sở. Giá trị đạo đức hình thành lâu đời và đã
trở thành truyền thống của dân tộc ta như lòng yêu nước nồng nàn, tình u
thương đồng bào, đồng chí, lá lành đùm lá rách, tôn sư trọng đạo…


21
Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại các cơng sở hành chính hiện
nay phải ln ni dưỡng những giá trị đạo đức ấy. Thiếu chất liệu cơ bản đó,

các cơng sở khơng thể vươn tới hồn thành sứ mệnh của mình là xây dựng
một Nhà nước Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân, văn minh, hiện đại.
1.2.2. Chuẩn mực ứng xử của văn hóa cơng sở
Chuẩn mực ứng xử của văn hóa cơng sở là các quy tắc, cách thức cụ thể
quy định rõ các thành viên trong công sở nên ứng xử như thế nào trong các tình
huống cụ thể để phù hợp với các giá trị văn hóa mà cơng sở đã lựa chọn.
Chuẩn mực ứng xử làm nên kỷ cương của cộng đồng, thể hiện trình độ
văn minh của cơng sở. Cơng sở là nơi diễn ra thường xuyên các mối quan hệ
giữa người và người trong nội bộ và ngồi cơng sở. Đó là các mối quan hệ hết
sức đa dạng và phức tạp:
+ Quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới (ví như quan hệ giữa lãnh đạo với
nhân viên);
+ Quan hệ giữa thành viên và thành viên trong công sở - hay quan hệ
đồng nghiệp trong cơng sở (ví như quan hệ giữa lãnh đạo, giữa nhân viên với
nhân viên);
+ Quan hệ giữa tổ chức công sở với công dân (ví như quan hệ giữa cán
bộ, cơng chức với người dân)…
Các mối quan hệ này được thể hiện qua thái độ và hành vi ứng xử, giao
tiếp của cán bộ, cơng chức với những người có liên quan đến hoạt động cơng
quyền. Thơng qua những mối liên hệ đó, cán bộ công chức nơi công sở bộc lộ
bản chất của mình vì bản chất con người thường bộc lộ trong quá trình giao tiếp.
Về mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới:
Các cán bộ lãnh đạo quản lý cần có những tố chất và kỹ năng của người
lãnh đạo, cần phải gần gũi mọi người, phát huy cao độ tài năng của tất cả các
cán bộ, công chức trong cơng sở, tạo ra được khối đồn kết, đồng lịng với
tinh thần tập thể cao, hướng đến mục tiêu của hoạt động chung trong công sở.


22
Mối quan hệ này được xây dựng trên cơ sở sự bình đẳng, dân chủ và tơn trọng

lẫn nhau.
Về mối quan hệ giữa thành viên và thành viên trong công sở:
Trong hoạt động của công sở hàng ngày, quan hệ hợp tác với đồng
nghiệp là một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công. Mối quan hệ dựa trên
tinh thần hợp tác, tôn trọng, cùng giúp đỡ nhau để hoàn thành mục tiêu đặt ra
là một mối quan hệ mà bất cứ tổ chức, đơn vị nào cũng cần. Ứng xử tốt trong
quan hệ với đồng nghiệp không những tạo ra hịa khí tốt trong mơi trường
cơng sở mà từ đó cịn tạo ra được niềm tin giữa các đồng nghiệp.
Ngoài những mối quan hệ ứng xử giao tiếp đã nêu trên thì đội ngũ cán
bộ cơng chức cơng sở cịn có mối quan hệ với người dân đến cơng sở giải
quyết các cơng việc liên quan đến họ.
Đó là, mối quan hệ giữa tổ chức công sở với công dân:
Người dân sẽ tin tưởng vào cơ quan công quyền khi các cán bộ, cơng
chức có cách thức ứng xử lịch sự, tôn trọng người dân. Cách thức ứng xử,
giao tiếp ấy cần phải tuân theo nguyên tắc bất di bất dịch, đó là “lấy dân làm
gốc”, “xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân”, phục vụ cộng
đồng, phục vụ lợi ích của nhân dân.
Các mối quan hệ trong hoạt động ứng xử giao tiếp được thực hiện
thông qua các công cụ truyền tải. Công cụ giao tiếp thể hiện dưới nhiều dạng:
ngôn ngữ lời nói và ngơn ngữ cử chỉ hành vi.
Trong giao tiếp, ngơn ngữ lời nói là tiêu chuẩn để định vị nhân cách của
cá nhân, nhân cách của gia đình, phong trào nhóm xã hội và các sinh hoạt
của xã hội. Thơng qua nội dung và hình thức biểu lộ của ngơn ngữ lời nói,
người ta có thể cảm nhận, đánh giá một con người nào đó về mặt tư cách,
tính khí và cả phẩm chất đạo đức, như thanh cao hay thơ bạo, tục tằn, sống
có lễ nghĩa hay vơ lễ, có lịng tự trọng hay thiếu lịng tự trọng… Lời nói
bao giờ cũng biểu lộ bản chất của con người bởi nói là cơng cụ truyền tải ý


23

thức, tình cảm… của mỗi người đến với người khác, của bộ phận này đến
với bộ phận khác.
Ngôn ngữ lời nói đa dạng như sự đa dạng của con người và cuộc sống
xã hội. Nhưng ngơn ngữ lời nói nó cũng cần có sự định hướng đúng đắn, tuân
theo những định chuẩn, quy ước về cách ăn nói, thưa gửi, chào hỏi từ trong
gia đình đến người xung quanh, láng giềng, tộc họ và xã hội. Có tuân theo
định hướng giá trị xã hội trong ngơn ngữ lời nói, con người mới đạt đến tiêu
chuẩn con người thanh lịch về lời nói, tránh được thói nói năng thiếu lịch sự,
lễ độ và tránh tình trạng ơ nhiễm ngơn từ ngay trong bản thân từng con người,
từng gia đình, từng nhóm xã hội, từng cộng động và toàn bộ xã hội.
Con người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp bằng ngôn ngữ
cử chỉ hành vi. Ngôn ngữ cử chỉ hành vi đóng vai trị rất quan trọng trong
đời sống sinh hoạt, giao tiếp nhóm và cộng đồng xã hội. Có những ngơn
ngữ cử chỉ đã trở thành những biểu trưng, quy tắc ước lệ để nhận biết đặc
trưng dân tộc, đặc trưng của những tình huống giao tiếp. Dân tộc ta từ ngàn
xưa rất tôn trọng lời chào hỏi thân tình. Dân gian thường có câu “Lời chào
cao hơn mâm cỗ”.
Vấn đề đặt ra là mỗi cán bộ công chức ở cơng sở trong q trình thực
hiện hành vi giao tiếp, ứng xử phải lịch sự, nhã nhặn, hợp đạo lý và pháp luật
cũng như phong tục, tập quán tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc.
1.2.3. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của công sở
Nhóm yếu tố này bảo đảm hiệu quả tối ưu cho các hoạt động thực tiễn
của con người, nhằm cải thiện và không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu
quả hoạt động nơi công sở.
Tổ chức bộ máy của công sở:
Bất kỳ một cơ quan, công sở, tổ chức nào, muốn hoạt động thì đều
phải xây dựng bộ máy làm việc. Việc xây dựng tổ chức bộ máy làm việc có
đạt chất lượng và hiệu quả đến đâu là thể hiện thước đo trình độ văn hóa ở



24
cơng sở đó. Thước đo trình độ văn hóa cơng sở ấy biểu hiện ở những khía
cạnh như: việc xây dựng tổ chức bộ máy của công sở phải tuân theo những
ngun tắc nào? Mục đích xây dựng là gì? Nhiệm vụ và quyền hạn của
cơng sỏ đó ra sao?
Tổ chức nhân sự trong công sở:
Tổ chức nhân sự cũng là một bộ phận để đánh giá trình độ văn hóa của
cơng sở, bởi lẽ, một cơng sở muốn hoạt động khơng chỉ có tổ chức bộ máy mà
phải có những con người cụ thể làm việc trong đó. Cách thức tổ chức nhân sự
ở công sở được nhận biết qua những yếu tố như: công tác tuyển dụng ra sao?
Cách phân chia thiết kế công việc như thế nào để xác định nhiệm vụ cụ thể và
trách nhiệm của cán bộ, công chức được tuyển dụng? phân công công việc thế
nào cho hợp lý?...
Xây dựng các quy định, quy chế làm việc:
Quy chế là văn bản được xây dựng nhằm quy định cụ thể các quyền và
nghĩa vụ của những người giữ chức vụ phải làm, quan hệ làm việc trong công
sở khi giải quyết một công việc nhất định; chịu trách nhiệm của mỗi cán bộ,
mỗi bộ phận trong công sở; cách thức phối hợp để hoạt động có hiệu quả; tiêu
chuẩn để đánh giá cơng việc…
Thực tế cho thấy, ở những công sở quy chế được xây dựng tốt, nghĩa là
có các quy định cụ thể phù hợp với thực tế, với thẩm quyền được giao, thì ở
đó, mục tiêu hoạt động sẽ đạt được thuận lợi. Trái lại, ở các cơng sở khơng có
quy chế hoặc quy chế xây dựng qua loa, thì ở đó, việc tổ chức điều hành cơng
việc ln gặp khó khăn, kém hiệu quả.
Khi đã có quy chế tốt, mỗi cán bộ, công chức trong công sở sẽ xác định
rõ nội dung cơng việc mình phải làm, trách nhiệm và u cầu đối với công
việc và đối với bản thân để phấn đấu thực hiện tốt. Từ đó văn hóa cơng sở ở
cơ quan đó sẽ được nâng cao hơn.



25
1.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động và các hình
thức ngoại hiện của văn hóa công sở
Về cơ sở vật chất kỹ thuật:
Về khung cảnh làm việc: Khung cảnh làm việc do cách bố trí nơi làm
việc, môi trường và các thiết bị được sử dụng tại công sở tạo nên. Khung cảnh
nơi làm việc cùng với điều kiện nghỉ ngơi, giải trí ln ảnh hưởng đến tình
trạng thể lực, tâm lý và hiệu suất lao động của cán bộ, cơng chức. Nếu bố trí
nơi làm việc không hợp lý, các phương tiện làm việc khơng đầy đủ thì chắc
chắn năng suất lao động sẽ bị giảm sút, cán bộ sẽ nhanh chóng mệt mỏi và
chán nản với cơng việc, gây ra tình trạng thiếu gắn bó với cơng sở. Bởi vậy,
khi đề cập đến vấn văn hóa cơng sở thì một trong những yếu tố quan trọng
cần được quan tâm là phải tạo được khung cảnh làm việc thuận lợi, hợp lý.
Những yếu tố tạo nên khung cảnh làm việc thuận lợi tại các cơng sở có
thể gồm những nội dung:
+ Có diện tích phù hợp với u cầu cơng việc và các phịng làm việc
được bố trí hợp lý;
+ Có mơi trường khơng bị ô nhiễm để đảm bảo sức khỏe cho cán bộ,
cơng chức;
+ Có đủ ánh sáng cho phịng làm việc;
+ Có các phương tiện làm việc đầy đủ và phù hợp với u cầu cơng việc.
Về bố trí và sắp xếp các bộ phận làm việc trong công sở:
Cần bố trí và sắp xếp một cách khoa học các bộ phận làm việc trong
công sở bởi đây cũng là cơ sở để tạo điều kiện cho cán bộ làm việc tốt. Nếu
phịng làm việc bố trí khơng hợp lý thì năng suất lao động trong công sở sẽ bị
hạn chế. Ví vụ như: nếu các đầu mối trong cơ quan vẫn có quan hệ chặt chẽ
với nhau nhưng lại bố trí ở những nơi xa nhau, đi lại khơng thuận tiện thì việc
chuyển giao văn bản, trao đổi cơng việc sẽ bị cản trở và do đó sẽ gây khó
khăn cho kiểm tra, chỉ đạo khi cần thiết. Hơn nữa, việc bố trí khơng hợp lý



×