1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề cán bộ và cơng tác cán bộ ln chiếm một vị trí hết sức quan
trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người viết: “Muôn việc thành công hoặc
thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” [53, tr.280]. Chính Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta trong q trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng chế độ dân chủ mới đã dày công đào tạo, huấn luyện, xây
dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ qua các giai đoạn cách mạng, đội ngũ cán bộ đó đã góp phần cùng toàn
đảng, toàn dân ta đem lại những thành quả cách mạng hết sức vẻ vang và to
lớn của dân tộc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, cơng tác cán bộ mang tính hệ thống,
được kết tinh thành các giá trị bền vững, có sức lan tỏa và rất cần được nghiên
cứu chuyên sâu nhằm vận dụng có hiệu quả qua các thời kỳ cách mạng, ở
nhiều cấp độ khác nhau, nhất là ở cơ sở.
Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, với yêu cầu của sự nghiệp đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta trên cơ sở vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, xem cơng tác cán bộ là khâu then chốt nhất
trong công tác then chốt của Đảng và khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và chế độ.
Trong quá trình đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đội ngũ cán bộ nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều
mặt, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong thời kỳ mới đẩy mạnh CNH,
HĐH và chủ động hội nhập quốc tế; là lực lượng nịng cốt cùng tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Số đông cán bộ giữ vững được bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân.
2
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ còn những mặt yếu; cơ cấu đội
ngũ cán bộ vẫn mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý; thiếu cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao, có khả năng dự
báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh; tình trạng suy thối về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng,
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện,
phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đang
diễn ra nhưng chậm có giải pháp ngăn chặn khắc phục kịp thời, đã làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa sự tồn vong đối với chế độ, kìm
hãm sự phát triển của dân tộc.
Vì thế, để khắc phục những hạn chế trên, nhằm mục tiêu xây dựng đội
ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ
cấu hợp lý đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ
đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc,
ngoài việc khai thác những yếu tố của thời đại trong xây dựng đội ngũ cán bộ
thì việc trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ đang
được coi là những giải pháp hữu hiệu trong xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, phải triển khai vận dụng
vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, đơn vị để xây dựng đội ngũ cán bộ
của mỗi địa phương có phẩm chất đạo đức, có năng lực cơng tác, phong cách
làm việc phù hợp với yêu cầu thời kỳ mới, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của
mỗi địa phương đơn vị đang là yêu cầu cấp bách đặt ra cần giải quyết.
Đối với Đảng bộ Thị xã Bỉm Sơn (Thanh Hóa), trong nhưng năm qua, cơ
bản đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của Thị xã. Tuy nhiên, bước vào thời
kỳ mới với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH đất
nước; yêu cầu phát triển của Thị xã cơng nghiệp trong điều kiện và tình hình
mới đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức cấp bách trong xây dựng đội ngũ cán bộ
3
chủ chốt của Thị xã vừa có phẩm chất, năng lực, trình độ, vừa có bản lĩnh và
phương pháp, phong cách khoa học trong làm việc để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị mà Đảng bộ và nhân dân thị xã giao phó. Vì vậy, hơn lúc
nào hết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là về cán bộ và công tác
cán bộ vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt thị xã đang là những
địi hỏi từ chính sự phát triển của Thị xã Bỉm Sơn nhằm khắc phục những hạn
chế, bất cập trong đội ngũ cán bộ thị xã; đồng thời góp phần ngăn ngừa sự suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong đội ngũ cán bộ chủ chốt
của thị xã góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” xây dựng Thị xã Bỉm
Sơn ngày một giàu đẹp, văn minh.
Xuất phát từ suy nghĩ trên, để vận dụng sáng tạo những luận điểm của
Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ vào thực tiễn địa phương đang
công tác, tác giả lựa chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở Đảng
bộ Thị xã Bỉm Sơn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí Minh học với
mong muốn đề ra được những giải pháp nhằm xây dựng được đội ngũ cán bộ
Thị xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cho cả trước mắt và lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong nhiều năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Mình về cán bộ và cơng tác cán bộ nói riêng ln được nhiều nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm nghên cứu xem xét cả dưới góc độ giá trị tư
tưởng, ý nghĩa của vấn đề; đồng thời nhiều nghiên cứu đã đi từ lý luận đến sự
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ vào từng lĩnh
vực, từng ngành, từng địa phương, cụ thể:
2.1. Về sách chuyên khảo, chuyên đề, đề tài khoa học, kỷ yếu hội thảo
khoa học, tiêu biểu là các công trình
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ”, chun đề khoa học cấp Nhà nước
KX.02 do GS Đặng Xuân Kỳ làm chủ biên. Trong chuyên đề này, các tác giả
4
đã đi sâu nghiên cứu những mặt hợp thành nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, cơng tác cán bộ, vai trò cán bộ, tiêu chuẩn của cán bộ, quy trình cơng
tác cán bộ. Trên cơ sở đó, các tác giả khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ là cơ sở lý luận cho việc hoạch định chiến lược cán bộ của
Đảng thời kỳ đổi mới.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ”, PGS, TS Bùi
Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2006 với nội dung: Sự hình thành, phát
triển, nội dung chủ yếu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,
vận dụng trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Kỷ yếu hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng
tác cán bộ, do Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức
gồm hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong cơng tác xây
dựng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh…
- “Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
hiện nay”, TS Hà Quang Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Tác
giả đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ cán bộ công chức trong tình hình mới.
- “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán bộ
đảng viên hiện nay”, PGS,TS Hồng Trang, Phạm Ngọc Anh, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2008, với nội dung: Quá trình hình thành chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh; đặc điểm và vị trí tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; nội
dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và sức sống lâu dài của tư
tưởng. Vấn đề đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
cán bộ, đảng viên là yêu cầu bức thiết nhất trong điều kiện chúng ta đang tiến
hành công cuộc đổi mới, thực hiện q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
- “Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ”, PGS, TS Đức Vượng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Tác giả đã trình bày quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ, vấn đề dùng người, về phương hướng và
5
phương pháp dùng người; tìm nguồn nhân tài để sử dụng, lựa chọn nhân tài
cho cách mạng; huấn luyện đánh giá, phê bình, cán bộ có cái “tâm” trong việc
dùng người.
- “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”,
PGS,TS Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (Đồng chủ biên, tái bản và
lưu hành nội bộ), Nxb CTQG, Hà Nội, 2003. Tác giả đã nêu lên thực
trạng của đội ngũ cán bộ và đưa ra các căn cứ khoa học để nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác tổ chức, cán bộ”, Bùi Kim Hồng,
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2009. Tác giả đã có nhiều năm tháng cơng
tác tại Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ chủ tịch, đã sưu tầm một số
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng những bài viết của mình về vấn đề
cán bộ, những câu chuyện, bài học rút ra từ tư tưởng của Người về công tác tổ
chức và cán bộ - nguồn lực quan trọng, nhân tố làm nên mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
- “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng phong cách làm việc
của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay”, PGS,TS. Nguyễn Thế
Thắng, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2010. Tác giả đã nêu một cách có hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo
quản lý và vận dụng vào xây dựng phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo
quản lý; đề ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm xây dựng phong cách làm
việc của cản bộ nước ta hiện nay.
- “Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa”, TS. Nguyễn Minh Tuấn, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội - 2012. Tác giả đã phân tích và trình bày vị trí, vai trị to lớn
của công tác cán bộ đối với sự phát triển của đất nước; những yêu cầu của sự
nghiệp đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế về công
6
tác cán bộ; một số vấn đề về đổi mới cán bộ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ từng khâu trong công tác
cán bộ; xây dựng tổ chức và con người làm công tác tổ chức cán bộ.
- “Đào tạo cán bộ lãnh đạo và quản lý, kinh nghiệm từ thực tiễn Thành
phố Hồ Chí Minh”, TS. Tần Xuân Bảo, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội, 2012.
Tác giả nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm và nêu ra những kiến nghị, đề xuất
trong công tác đào tạo cán bộ, quản lý căn cứ thực trạng nhu cầu về đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo và quản lý ở thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Những cơng trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí
- Trương Thị Thơng (chủ biên): Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện biên
giới phía Bắc trong tình hình hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ, Hà Nội, 2001.
- PGS,TS. Phạm Ngọc Anh (2013) “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
cơng tác cán bộ” Website Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, ngày 17/7/2013.
- Dương Xuân Ngọc (2003), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo và huấn
luyện cán bộ”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7.
- Đặng Sĩ Lộc (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đánh giá cán bộ”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 5.
- TS Lại Quốc Khánh (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng
tác cán bộ”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4.
- PGS,TS. Bùi Đình Phong, “Từ đạo đức công chức đến đạo đức quan
chức”, Tạp chí Văn hóa Nghệ an, tháng 9 năm 2013.
- PGS,TS. Bùi Đình Phong (2013), “ Xây dựng phong cách làm việc cho
cán bộ đảng viên hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đặc san Hồ Chí
Minh học, số 2.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập một cách sâu sắc những vấn
đề về cán bộ và công tác cán bộ. Đồng thời, các tác giả đã nêu lên được
những giải pháp quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công
tác cán bộ.
7
2.3. Một số luận án, luận văn
- Cầm Bá Tiến: Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước
về kinh tế cấp tỉnh trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh
Hoá, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Hà Nội, 2000.
- Lê Thị Lan Hương (2006), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở tỉnh Hưng Yên”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn trình bày
một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, thực trạng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên và vận dụng vào việc đổi mới phương
pháp lãnh đạo và phong cách công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
của tỉnh.
- Nguyễn Thị Lương Uyên (2007), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ
với việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn đã nêu lên
một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, thực trạng và
giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
của tỉnh Bắc Giang.
- Đoàn Phú Hưng (2008), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở Thành phố Cà
Mau”, Luận văn Thạc sỹ khoa học Chính trị (chuyên ngành Hồ Chí Minh
học), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn đã trình
bày một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,
đánh giá thực trạng, đề ra phương hướng và những số giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thành phố Cà Mau.
- Nguyễn Thị Kim Nhung (2009): Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp Tỉnh ở Thái
Bình trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ Hồ Chí Minh học.
8
- Lê Phương Thảo (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
và vận dụng vào thực hiện công tác cán bộ ở thành phố Hà Giang trong giai
đoạn hiện nay”. Luận văn Thạc sỹ khoa học chính trị, (chuyên ngành Hồ Chí
Minh học), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luận văn trình
bày tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ, đánh giá thực trạng, nêu lên
những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm góp phần cung cấp chứng cứ
khoa học để thực hiện tốt công tác cán bộ ở Thành phố Hà Giang trong giai
đoạn hiện nay.
Trên một số báo Trung ương và địa phương, mười năm trở lại đây, có các
bài viết của các đồng chí lãnh đạo về tình hình, thực trạng và đề xuất một số
giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tại thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ, luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đề xuất
phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ đáp ứng yêu
cầu đặt ra ở nhiều địa phương khác nhau. Tuy nhiên, xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp huyện, thị theo tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn cịn ít tác giả đề cập
tới. Đặc biệt, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở Đảng bộ Thị xã Bỉm Sơn
(Thanh Hóa) theo tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay chưa có cơng trình nghiên
cứu nào đề cập đến một cách có hệ thống. Cố nhiên, những kết quả nghiên
cứu của các tác giả đi trước sẽ là nguồn tư liệu quý giúp tác giả hoàn thành
bản luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về
cán bộ và cơng tác cán bộ; từ đó đề xuất phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt Thị xã Bỉm Sơn (Thanh Hóa) đáp ứng
yêu cầu phát triển của địa phương và xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng
yêu cầu nguồn nhân sự cho Đại hội Đảng bộ Thị xã, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và
nhiệm kỳ 2020 - 2025.
9
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích đề ra, luận văn tập trung làm rõ:
- Những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác
cán bộ.
- Làm rõ những yêu cầu khách quan trong vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào xây dựng đội ngũ cán bộ của địa phương.
- Đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt của Thị xã.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
Thị xã đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và cơng tác cán bộ.
- Tình hình đội ngũ cán bộ chủ chốt và công tác cán bộ của Đảng bộ Thị
xã Bỉm Sơn, Tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Những tác phẩm của Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ đã
được công bố trong bộ Hồ Chí Minh tồn tập, xuất bản lần thứ ba, 15 tập năm
2011 và thực tiễn chỉ đạo công tác cán bộ của Hồ Chí Minh.
- Những văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam và của Tỉnh ủy Thanh
Hóa về cán bộ và cơng tác cán bộ.
- Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt thị xã Bỉm Sơn từ 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng ta về cán bộ và công tác cán bộ.
- Luận văn thực hiện theo phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa phương pháp lôgic và lịch sử,
điều tra, khảo sát, thu thập số liệu, phân tích, tổng hợp, chú trọng phương
pháp tổng kết thực tiễn…
10
- Luận văn sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu một số báo cáo
tổng hợp của các cấp ủy Đảng, các kết quả nghiên cứu khoa học có liên quan
trong nghiên cứu tình hình thực tế.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Nêu ra một cách hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về cán bộ
và công tác cán bộ.
- Từ nghiên cứu, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt thị xã, chỉ
ra những hạn chế, nguyên nhân trong xây dựng đội ngũ cán bộ những năm
qua và đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt thị xã
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đến năm 2025 theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho công tác
nghiên cứu giảng dạy, học tập trong trường chính trị Thanh Hóa, các Trung
tâm Bồi dưỡng chính trị cấp huyện trong Tỉnh.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
nghiên cứu, lãnh đạo, chỉ đạo trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt thị xã
nhằm chuẩn bị nguồn nhân sự cho Đại hội Đảng bộ Thị xã giai đoạn 2015 2020, 2020 - 2025.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 5tiết.
11
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁCH MẠNG
1.1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
1.1.1. Quan niệm về cán bộ, cán bộ chủ chốt
Thực tiễn lịch sử cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta đã chứng
minh sau khi có đường lối cách mạng đúng đắn thì vai trị hết sức to lớn và
quan trọng để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng, đưa đường lối
cách mạng đó trở thành hiện thực nhằm giải phóng dân tộc, giành lại độc lập
tự do cho dân tộc đó chính là nhân tố con người, đó là việc tập hợp lực lượng
cách mạng đông đảo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
đó, để tổ chức, lãnh đạo thành cơng phong trào đấu tranh cách mạng thì vai
trị của cán bộ, những người ưu tú trong phong trào đấu tranh cách mạng có
một ý nghĩa to lớn đưa phong trào đấu tranh cách mạng đến thắng lợi cuối
cùng. Vì vậy, ngay từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: ở Đơng Dương
chúng ta có đủ tất cả những cái mà một dân tộc có thể mong muốn... Nhưng
chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức.
Nhìn lại lịch sử phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, sự nô dịch của
giai cấp tư sản, giải phóng giai cấp vơ sản và xây dựng một xã hội mới - xã
hội cộng sản chủ nghĩa chúng ta càng thấy được tầm quan trọng của việc tạo
ra một đội ngũ cán bộ cách mạng, những người ưu tú, tiêu biểu để lãnh đạo
phong trào.
C. Mác (1818 -1883) trong tác phẩm Gia đình thần thánh viết năm
1844 khẳng định: “Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn” [47, tr.181]. Đó là những nhà tuyên truyền, cổ
động, truyền bá tư tưởng cộng sản, gây dựng phong trào công nhân để lập ra
những đảng cách mạng chân chính, họ là những người con ưu tú của dân tộc,
12
của giai cấp, là những người cán bộ cách mạng chuyên nghiệp, là vốn quý của
Đảng cộng sản trong sự nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp cần lao.
V.I.Lênin (1870 - 1924), người kế thừa, bảo vệ và phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa, đã đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ cách
mạng cho phong trào cách mạng vô sản, người nói “trong lịch sử chưa hề có
giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó khơng hề đào tạo được trong
hàng ngũ của mình những nhà lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong
có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [40, tr.473]. Những nhà chính
trị vơ sản mà theo Lênin là khơng thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư
sản, đó là những người sẽ làm đảo lộn nước Nga. Theo Người, phải tìm ra
được những cán bộ có bản lĩnh, nếu khơng thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và
quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn.Vì thế, Lênin ln quan tâm vấn đề kiện toàn
tổ chức và hoạt động của bộ máy đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất
là cán bộ chủ chốt của Đảng và Nhà nước Xơ viết, Người cho rằng: Người
cộng sản chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền lãnh đạo của mình
đó là tìm cho được ngày càng nhiều những người phụ tá, biết giúp đỡ họ làm
việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu họ và chú ý đến kinh nghiệm của họ.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình ra đi tìm đường
cứu nước, trải qua gần 10 năm bôn ba nhiều châu lục trên thế giới, vào tháng
7 năm 1920 Người đọc được Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, đặc biệt, sau sự kiện Nguyễn Ái
Quốc trở thành đảng viên đảng cộng sản Pháp - trở thành người Việt Nam đầu
tiên là cán bộ cộng sản, sự kiện đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nhận
thức tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, từ Người yêu nước trở thành người
cộng sản, là người đưa cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường cách
mạng vô sản, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo của cách mạng thế giới.
Sau khi đến được với chủ nghĩa Lênin, cùng với những hoạt động tích
cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc ra đời của Đảng cộng
13
sản Việt Nam. Trong giai đoạn này, Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến việc
chuẩn bị, xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Đối với người,
sau khi tìm thấy con đường giải phóng cho cách mạng Việt Nam thì lộ trình
của Người khá rõ ràng, đó là: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập.
Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng
Dương dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê
gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó
mau đến” [49, tr.40]. Vì vậy, ngay từ năm 1921, tại Pari, Nguyễn Ái Quốc đã
tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và Hội đã đào tạo được một số cán
bộ nòng cốt cho phong trào đấu tranh ở các nước thuộc địa Pháp. Năm 1924,
Nguyễn Ái Quốc phát biểu:
Nếu hiện nay nơng dân vẫn cịn ở trong tình trạng tiêu cực, thì
ngun nhân là vì họ cịn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc
tế cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp cán
bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và
giải phóng [49, tr.288-289].
Tiếp đó, đầu năm 1925, Trường huấn luyện chính trị được tổ chức tại số
13/1 phố Văn Minh (Quảng Châu). Mục đích của lớp học là đào tạo thanh
niên yêu nước trong các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu và một
số thanh niên khác ở trong nước sang trở thành những cán bộ cách mạng và
đưa họ trở về nước hoạt động trong giai cấp công nhân và nhân dân ta [65,
tr.39]. Vào tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, một tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc, hầu hết cán bộ của Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên sau này đều trở thành những người cộng sản chân
chính và những cán bộ cốt cán của Đảng ta.
Đầu năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cách mạng nước ta, từ
14
đây, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương, đường lối của Đảng
đối với cách mạng Việt Nam nói chung và với xây dựng đội ngũ cán bộ cách
mạng Việt Nam chiếm một vị trí hết sức quan trọng góp phần làm nên những
thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta sau này.
Vậy, Hồ Chí Minh quan niệm cán bộ là gì? Khi nào Người đề cập đến
khái niệm cán bộ? Vai trị, vị trí của người cán bộ như thế nào trong đấu tranh
cách mạng và xây dựng xã hội mới?. Qua nghiên cứu các tác phẩm của Hồ
Chí Minh, chúng tơi thấy rằng, thuật ngữ cán bộ được Hồ Chí Minh sử dụng
khá sớm, ngay từ năm 1923, trong tác phẩm Nhật Bản, Hồ Chí Minh đã sử
dụng thuật ngữ này. Và về sau thì người sử dụng càng nhiều, có khi trong các
bài nói, viết người sử dụng thuật ngữ cán bộ hoặc là cán bộ đảng viên. Đặc
biệt sau khi cách mạng tháng Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, trong q trình xây dựng xã hội mới, một sự nghiệp hết
sức khó khăn, phức tạp; đó là cuộc đấu tranh cải tạo cái cũ, phá cái cũ đổi ra
cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt, một sự nghiệp chưa từng có trong lịch sử
dân tộc ta. Người nói: cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc phong
kiến, giành độc lập tự do đã là một công việc nặng nề, nhưng sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội lại càng nặng nề hơn. Vì thế, Hồ Chí Minh cho rằng:
thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu cịn
khó hơn nhiều. Bởi vậy, trong sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp đó Hồ Chí
Minh đặc biệt bàn nhiều đến cán bộ; đưa ra những yêu cầu đối với cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về cán bộ và công tác cán bộ, kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ
trong lịch sử dân tộc phù hợp với tiến trình cách mạng Việt Nam, ở Hồ Chí
Minh đã hình thành nên những quan điểm hết sức đặc biệt, sâu sắc, sáng tạo
về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta. Trong đó “cán bộ” được Hồ
Chí Minh xác định như là khâu trung gian, là cầu nối giữa Đảng, chính phủ và
nhân dân. Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh đưa ra một
15
khái niệm về cán bộ rất dễ hiểu nhưng sâu sắc, Người viết: "Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu
rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng" [53, tr.309].
Với khái niệm cán bộ của Hồ Chí Minh, chúng ta có thể hiểu cán bộ
được Người đề cập đến ở đây là chỉ nhưng người làm công tác lãnh đạo, quản
lý trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân; họ là cầu nối,
là những người tiếp nhận chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đem
tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu và động viên, tổ chức nhân dân thi
hành; đồng thời qua đó nắm tình hình thực tiễn báo cáo, phản ánh để Đảng,
nhà nước ban hành chính sách được sát thực, phù hợp với những điều kiện
thực tế khách quan. Hơn nữa, để đảm nhiệm được cơng việc đó, cịn đặt ra
u cầu đối với người cán bộ cách mạng đó là những người có năng lực triển
khai, tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước; đặc
biệt là năng lực tổng kết, khái quát thực tiễn làm cơ sở điều chỉnh hoặc xây
dựng các chủ trương chính sách mới; đó phải là những người hội đủ các tố
chất như nắm vững, thấu hiểu các chủ chính sách của Đảng và Nhà nước; có
năng lực vận động quần chúng, biết triển khai có hiệu quả đường đối chính
sách đó vào thực tiễn và đặc biệt là phải biết lắng nghe ý kiến của nhân dân,
những tố chất, yêu cầu ấy trong giai đoạn cách mạng hiện nay đang rất cần ở
người cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo. Bởi vì, nếu khơng có những cán bộ
như thế thì đường lối, chính sách của Đảng, chính phủ sẽ khơng thực hiện
được mà chỉ là “một ... mớ giấy lộn”.
Bằng quan niệm về cán bộ như vậy, chúng ta hiểu rộng ra cán bộ là
những người làm trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể, lực lượng
vũ trang... họ có thể là đảng viên hoặc chưa phải là đảng viên, có chức vụ hay
khơng có chức vụ; họ là người được hình thành qua thi cử hay bầu cử; họ có
lĩnh lương để phân biệt với nhân dân. Tuy nhiên, trong những bài nói, viết của
Hồ Chí Minh từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Người thường nhấn
16
mạnh đến cán bộ có chức, có quyền, những người chịu trách nhiệm nặng nề
với dân, với nước.
Từ quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ, theo dịng thời gian khái
niệm cán bộ ở nước ta hiện nay được hiểu như sau: Theo Đại từ điển Tiếng
Việt thì cán bộ có 2 nghĩa: “ 1) Người làm việc trong cơ quan Nhà nước; 2)
Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ chức vụ
trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước” [86, tr.249].
Trong luật cán bộ, công chức năm 2008 ghi: Cán bộ là công dân Việt
Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm
kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là
cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Như vậy, hiện nay ta có thể hiểu cán bộ một cách chung nhất là những
người có chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc chuyên môn, khoa học hay công
chức, viên chức làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân; được hưởng lương hay phụ cấp từ ngân sách
Nhà nước; hình thành qua bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt và được phân
cơng cơng tác; họ có trách nhiệm quán triệt và triển khai thực hiện các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đội ngũ cán bộ của Đảng ta hiện nay có nhiều loại như cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ
công chức, viên chức... mỗi loại cán bộ giữ một vai trò khác nhau trong hệ
thống tổ chức của Đảng, Đoàn thể và bộ máy nhà nước.
Trong các loại cán bộ đó “cán bộ lãnh đạo là những người đứng đầu,
phụ trách một tổ chức, một địa phương, đơn vị được hình thành do bầu cử
hoặc chỉ định” [76, tr.11]. Họ là những người làm thức tỉnh hành vi của con
người, định hướng hành vi của con người trong tổ chức và xã hội; họ có trách
nhiệm đề ra phương hướng, chủ trương hoặc các quyết định có tính chiến
17
lược; họ là những người dẫn dắt, tổ chức phong trào đi theo một hướng cụ
thể; là người điều hành, chỉ đạo bằng quyền hành thông qua mệnh lệnh, tuy
nhiên cán bộ lãnh đạo thường sử dụng các biện pháp như thuyết phục, động
viên, nêu gương, để hướng các hoạt động của tổ chức, cá nhân vào thực hiện
các nhiệm vụ được giao phó. Cán bộ lãnh đạo có nhiều cấp độ khác nhau như
cấp vĩ mơ tồn quốc, cấp ngành, địa phương và cấp cơ sở.
Cán bộ quản lý cũng là người đứng đầu một tổ chức, đó là những người
mà hoạt động nghề nghiệp của họ thường nhấn mạnh đến việc điều hành hoạt
động của tổ chức; là người điều hành, hướng dẫn tổ chức những quyết định
của lãnh đạo; họ được hình thành thơng qua bầu cử hoặc bổ nhiệm. Ở cán bộ
quản lý, họ được trao quyền đánh giá một cách độc lập, chỉ đạo hoạt động,
công việc của người khác hay của một đơn vị tổ chức, một khâu trung gian
trong một quá trình quản lý kinh tế, xã hội, do đó cán bộ quản lý thường là
những người giỏi chuyên môn, nghiệp vụ và có khả năng điều khiển, tổ chức
cơng việc. Cán bộ quản lý có thể phân theo nghề nghiệp, năng lực và chức vụ.
Việc phân biệt giữa cán bộ lãnh đạo với cán bộ quản lý trên thực tế chỉ
là tương đối, ở họ có những điểm giống nhau mang tính khách quan, nhìn
chung, họ đều thực hiện chức năng điều khiển; để lãnh đạo có hiệu quả người
lãnh đạo phải thực hiện một số chức năng quản lý và người quản lý cũng phải
thực hiện một số chức năng lãnh đạo. Nhất là ở lĩnh vực và phạm vi quy mơ
nhỏ thì cán bộ lãnh đạo đồng thời cũng là cán bộ quản lý và cán bộ quản lý
đồng thời cũng là cán bộ lãnh đạo. Còn ở cấp độ vĩ mơ thì sự phân biệt giữa
cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý được rõ hơn, nhất là khi nói về vai trị lãnh
đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu một ngành, một địa phương,
một tổ chức, một đơn vị công tác, sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm tổ
chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính trị ở đó, phân cơng nhiệm vụ, chỉ
đạo cán bộ cơng chức thuộc phạm vi của mình hồn thành nhiệm vụ được
giao phó, họ là những người chịu trách nhiệm trước tập thể, trước nhân dân và
trước cấp trên trong thực thi nhiệm vụ.
18
Có cán bộ chủ chốt giỏi thì đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trong địa phương,
đơn vị được sử dụng phát huy được mọi khả năng. Cán bộ chủ chốt giỏi thì tổ
chức đó sẽ mạnh, nâng cao được hiệu quả, chất lượng công tác. Bởi vậy, khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: Cán bộ là gốc của mọi cơng việc. Thì trong đội ngũ cán bộ
nói chung, cán bộ chủ chốt là gốc của cái gốc đó, là lực lượng nòng cốt, là nhân tố
quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức Đảng, Nhà nước và địa phương, đơn vị.
Thực tiễn đã chứng minh rằng: Cùng một tổ chức bộ máy tương tự,
cùng một cơ chế chính sách giống nhau, nhưng có địa phương kinh tế - xã hội
phát triển nhanh, mọi nhiệm vụ đều thực hiện và hoàn thành xuất sắc; có địa
phương kinh tế - xã hội trì trệ, mọi nhiệm vụ bê trễ. Có những ngành, địa
phương sản xuất đình đốn, kinh doanh thua lỗ, đời sống cán bộ nhân dân hết
sức khó khăn, thế nhưng chỉ cần thay cán bộ đứng đầu, tình hình mọi mặt
được cải thiện. Điều đó nói lên là vai trị, vị trí quyết định của cán bộ chủ chốt
riêng, của cán bộ nói chung.
1.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ
Tiếp thu, kế thừa và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm
nhận thức ra vai trị, vị trí của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, tầm quan
trọng của việc đào tạo, huấn luyện được đội ngũ cán bộ phục vụ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Bởi vì, với Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc
khơng phải là việc của một hoặc hai người; đó khơng phải là hành động ám
sát cá nhân, “theo kiểu quân tử Tàu”. Đó phải là sự nghiệp của tồn dân tộc,
trong đó được dẫn dắt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự hăng hái, quyết tâm, gan
góc của đội ngũ cán bộ kiên trung trong lãnh đạo phong trào.
Từ chiều sâu nhận thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ có
một vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách mạng đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng xã hội mới. Người cho rằng: Bất cứ cơng việc gì thiếu
cán bộ, khó thực hiện được và sự thành cơng phần lớn là do các cán bộ. Điều
này đúng cả trong đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc và xây dựng, phát
19
triển kinh tế, xã hội của chế độ dân chủ mới tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã
hội và đặc biệt trong điều kiện hiện nay nó vẫn ln đúng. Bởi thế Hồ Chí
Minh khái qt: “Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giời xây
dựng kinh tế. Khơng có cán bộ khơng làm được. Khơng có giáo dục, khơng
có cán bộ thì cũng khơng nói gì đến kinh tế, văn hóa” [56, tr.184]. Vì thế, nếu
thiếu cán bộ, hụt hẫng cán bộ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ cách mạng,
nhất là trong thời kỳ nước ta mới dành được độc lập, Nhân dân ta mới dành
được quyền tự do. Trong bối cảnh đó, Người thừa nhận:
Về cán bộ hành chính, ta phải thú nhận là thiếu rất nhiều. Người đi
tuyên truyền, người chiến đấu thì có. Người ngồi bàn giấy làm việc
cai trị rất hiếm. Vào trụ sở một Ủy ban nhân dân, người ta nhận
ngay thấy sự lộn xộn trong việc xếp đặt bàn giấy: đố ai biết chỗ ông
chủ tịch, ông thư ký, ông tài chính ngồi đâu. Nhiều ông chủ tịch Ủy
ban thường khơng nhận định những cơng việc chính của mình phải
đem hết tâm lực vào đó, mà thường chỉ dùng thì giờ để xử những vụ
kiện vớ vẩn, tiếp những ông khách vu vơ, hay cặm cụi viết thư, viết
báo cáo - việc có thể giao cho người khác làm được. Trong một Ủy
ban, nhiều khi có người rất rỗi rãi, cả ngày chỉ chạy ra chạy vào cho
có chuyện, có người lại bù đầu rối óc vì một mình phải kiêm đến
mấy việc: nào ngoại giao, nào tư pháp, nào tài chính [52, tr.42].
Khi về thăm tỉnh Thanh Hóa, tháng 2/1947, trong bài nói chuyện với
cán bộ tỉnh Thanh Hóa khi giải thích cán bộ là gì? Hồ Chí Minh cho:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt,
khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt.
Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn
thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng
khơng thể thực hiện được [53, tr.68].
Khi Người coi cán bộ là sợi dây chuyền bộ máy của Đảng, Chính phủ
và các đồn thể nhân dân, Hồ Chí Minh muốn nói đến vị trí quyết định của
20
cán bộ; họ vừa là thành tố cấu tạo nên bộ máy, vừa là những người đưa chính
sách của Đảng, Nhà nước đến với nhân dân; là "nhịp cầu" nối liền Đảng, Chính
phủ với nhân dân, đồng thời là người đem chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, giải thích cho dân hiểu rõ, cùng với
nhân dân thực hiện tốt chủ trương chính sách đó và "đem tình hình của dân
chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng".
Tuy nhiên, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, cán bộ không chỉ là cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân mà Hồ Chí Minh ln đặt cán bộ ở vị
trí trung tâm của cách mạng, cán bộ là những người luôn đi tiên phong, lôi
cuốn phong trào cách mạng phát triển; do đó cán bộ ln chiếm vị trí chủ thể
của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhưng vị trí chủ thể của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng khơng phải tự
nhiên mà có, mà là do nhân dân giao phó, do “lấy từ nơi dân” mà ra.
Hơn nữa, trong quan niệm của Người, cán bộ cịn có vai trị to lớn,
quyết định sự thành cơng hay thất bại của mọi cơng việc. Khi bàn về vai trị
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Người nhấn mạnh nhiều đến cán bộ, đảng
viên có chức, có quyền, những người chịu trách nhiệm trực tiếp và to lớn,
nặng nề trước nhân dân và tồn dân tộc. Họ có trách nhiệm lãnh đạo, tổ chức
Đảng, cơ quan chính quyền, hành chính, sự nghiệp, đoàn thể hay tổ chức quản
lý kinh doanh… từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở. Tuy nhiên, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, cán bộ lãnh đạo các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên hệ
chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng, Nhà nước. Nếu cán bộ lãnh đạo
cấp Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định
chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở lại
có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng tổ chức Đảng và
hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo tầng lớp nhân dân thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trị của người cán bộ được người
xác định cụ thể, rõ ràng, được biểu hiện thơng qua các mối quan hệ cơ bản, đó
21
là: mối quan hệ giữa người cán bộ với đường lối, chính sách của Đảng và
chính phủ; với bộ máy (cơ quan lãnh đạo, quản lý); với công việc và đặc biệt
là mối quan hệ với nhân dân. Người cho rằng, người cán bộ không chỉ xác
định được những mối quan hệ này mà cao hơn là phải giải quyết tốt, hài hồ
các quan hệ đó thì mới thực hiện đúng vai trị của mình, mới hồn thành
nhiệm vụ được giao.
Trong mối quan hệ với đường lối chính sách, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Cán bộ là người đem chính sách của Chính phủ, Đồn thể thi hành trong
nhân dân”. Do đó, “nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực
hiện được” [53, tr.68].
Với tổ chức bộ máy, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “Cán bộ là dây
chuyền của bộ máy”. Đời sống kinh tế - xã hội và toàn bộ sự nghiệp cách
mạng là một cỗ máy khổng lồ. Trong cỗ máy đó, cán bộ là dây chuyền. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm “dây chuyền” với ý nghĩa cán bộ và đội ngũ cán
bộ là mắc xích liên kết các bộ phận của bộ máy, là hệ thống chuyển tải năng
lượng đến từng bộ phận của bộ máy. Do vậy, nếu dây chuyền không tốt, dù
chạy thì tồn bộ máy cũng tê liệt.
Đối với cơng việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “cán bộ là cái gốc
của mọi công việc” [53, tr.309]. Theo Người, cây phải có gốc, “gốc” ở đây
hiểu là từ đó sinh ra, làm cho cây mạnh khỏe, tốt tươi hay ngược lại thì cây héo.
Vì vậy, trong mọi cơng việc mà khơng có cán bộ thì khơng thể hồn thành và
“công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Đối với quần chúng, với nhân dân, trong tư tưởng Hồ Chí Minh ln
khẳng định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng” [53, tr.309]. Như vậy, theo Người cán bộ khơng những chỉ là người có
vai trị giác ngộ và hướng dẫn, lãnh đạo quần chúng mà còn là “chiếc cầu nối”
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là “công bộc” của nhân dân. Vì thế, nếu
22
cán bộ dở thì đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ khơng thể thực hiện
được, sự nghiệp cách mạng không thể thành công. Nên Người dạy: “Làm theo
cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến quần chúng, cùng dân chúng bàn
bạc. Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lịng ra sức làm, việc gì cũng
nhất định thành cơng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với cán bộ hiện nay
khi một bộ phận không nhỏ cán bộ có biểu hiện xa dân, biểu hiện của tư
tưởng không sợ quần chúng không vừa ý, chỉ sợ lãnh đạo không chú ý; không
sợ quần chúng không vừa lịng, chỉ sợ lãnh đạo khơng hài lịng đang tồn tại
trong một bộ phận không nhỏ cán bộ hiện nay.
1.1.3. Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh, những nội dung về xây dựng đội ngũ
cán bộ cách mạng là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng
của Người. Từ khi "bắt gặp" bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây
dựng, tổ chức, huấn luyện những "hạt giống đỏ" cho cách mạng Việt Nam.
Khi trở thành Đảng cầm quyền, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa, Người ln chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng.
Trong toàn bộ những giá trị phong phú và sâu sắc của Người về công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu
có giỏi thì tập thể mới mạnh. Có cán bộ chủ chốt giỏi thì đội ngũ cán bộ khoa
học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ được sử dụng phát huy được mọi khả
năng. Cán bộ chủ chốt giỏi thì tổ chức đó sẽ mạnh, nâng cao được hiệu quả,
chất lượng công tác.
Những nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ trong di sản của Hồ Chí
Minh được thể hiện như sau:
· Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng, là cái gốc rễ, là
nguồn cội thắng lợi của mọi công việc, Người cho rằng:
23
Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng
cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng
lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho lồi người là một cơng việc to tát mà tự mình khơng có
đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm
nổi việc gì? [53, tr.292 - 293].
Để trở thành người cán bộ cách mạng chân chính, điều cốt yếu đầu tiên
là "phải có đạo đức cách mạng. Phải giữ vững đạo đức cách mạng mới là người
cách mạng chân chính". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người đảng viên, cán bộ
tốt muốn trở nên người cách mạng chân chính, khơng có gì là khó cả. Điều đó
hồn tồn do lịng mình mà ra. Lịng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng
bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí cơng vơ tư. Mình đã chí cơng vơ tư thì khuyết
điểm sẽ ngày càng ít đi, mà những tính tốt… ngày càng thêm… Đó là đạo đức
cách mạng. Đạo đức đó khơng phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo
đức vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của
Đảng, của dân tộc, của loài người [53, tr.292].
Đạo đức cần thiết cho mỗi con người nói chung và cán bộ, đảng viên
nói riêng, nhất là đối với cán bộ chủ chốt; nó như một quy luật sinh tồn, muốn
thở được phải có khơng khí, đói cần phải ăn, khát cần nước uống. Con người
cần đạo đức như cần có sức khỏe để sống và lao động. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: "sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang" [59, tr.601].
Đối với người cách mạng không thể thiếu đạo đức cách mạng cũng như
trời không thể thiếu bốn mùa, đất không thể thiếu bốn phương. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính là những phẩm chất
cơ bản nhất để làm người cán bộ. Người viết:
Trời có bốn mùa: Xn, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
24
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời.
Thiếu một phương, thì khơng thành đất.
Thiếu một đức thì khơng thành người [54, tr.117].
Đạo đức cách mạng với những phẩm chất trung với nước, hiếu với dân,
suốt đời hy sinh vì độc lập, tự do và chủ nghĩ xã hội; tình yêu thương con
người, những người cùng khổ, đấu tranh giải phóng con người, mang lại ấm
no, hạnh phúc cho con người; đó là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư; đó
cịn là giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ
không thể khuất phục đối với người cán bộ cách mạng. Tuy nhiên, để có đạo
đức cách mạng, mỗi người phải chuyên tâm rèn luyện bền bỉ hàng ngày. Bởi
vì, đạo đức cách mạng khơng phải là cái có sẵn, khơng phải từ trên trời sa
xuống, mà nó do đấu tranh rèn luyện, dùi mài thông qua thực tiễn mà có, cũng
giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn có đạo đức cách mạng phải quét
sạch chủ nghĩa cá nhân, phải tự đánh thắng lòng tà là kẻ thù của chính mình.
Vì chủ nghĩa cá nhân là một thứ "vi trùng" rất độc hại, nó là "căn bệnh mẹ" đẻ
ra nhiều thói hư tật xấu và hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm như: quan liêu,
mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ơ, lãng phí.... Cho nên, chống chủ nghĩa
cá nhân phải thường xuyên, liên tục. Người nhấn mạnh: "Chủ nghĩa cá nhân
là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc.
Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc" [59, tr.602].
Do đó, đã là cán bộ cách mạng phải quyết tâm chống chủ nghĩa cá
nhân, loại bỏ những khuyết điểm, tự xây dựng rèn luyện cho mình một phẩm
chất đạo đức cao đẹp - đạo đức cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một
khi con người đã có ít nhiều quyền hành mà thiếu lương tâm, khơng giữ đúng
đạo đức cách mạng thì trở nên hủ bại, thành sâu mọt của dân. Người khẳng
định, đạo đức còn là thước đo lòng cao thượng của con người, là tiêu chí để
đánh giá khả năng làm việc, là chuẩn mực để kiểm tra chất lượng công việc
25
của mỗi con người. Người viết: "Tuy năng lực và công việc của mỗi người
khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức
đều là người cao thượng" [57, tr.508].
Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đạo đức cách mạng không chỉ là động lực
thúc đẩy cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ của mình mà cịn giúp cho
người cán bộ đảng viên vượt qua mọi khó khăn. Người khẳng định: Có đạo đức
cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi
bước… không ngần ngại hy sinh tất cả tính mạng của mình cũng khơng tiếc.
Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng. Mặt khác, khi
gặp thuận lợi và thành công mà vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác,
khiêm tốn, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"; lo hồn thành nhiệm vụ cho
tốt chứ khơng kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, không quan liêu,
khơng kiêu ngạo, khơng hủ hóa. Đó cũng là biểu hiện của đạo đức cách mạng.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là gốc, là tiêu
chuẩn hàng đầu giúp cho cán bộ, đảng viên, chống lại chủ nghĩa cá nhân, xây
dựng một bản lĩnh chính trị vững vàng, thắng khơng kiêu, bại khơng nản, sẵn
sàng tiến lên phía trước, vượt qua gian nan thử thách để giành lấy độc lập tự
do cho dân tộc, đem lại hạnh phúc ấm no cho đồng bào và hơn nữa đối với
cán bộ chủ chốt người còn đặt ra những yêu cầu cao hơn về phẩm chất đạo
đức, những phẩm chất đạo đức cao đẹp - đạo đức cộng sản.
· Người cán bộ cách mạng phải có tài năng và thường xuyên nâng cao
năng lực lãnh đạo.
Khi đặt ra yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khơng chỉ đặt ra u cầu người cán bộ cách mạng cần phải có đạo đức
cách mạng, mà cho rằng ngoài đức là gốc của người cán bộ thì “tài”, “chuyên”
của cán bộ cách mạng cũng rất cần thiết. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Nếu
“có đức khơng có tài như ơng bụt ngồi trong chùa khơng giúp ích được gì ai”.
V.I.Lênin cho rằng, Người tài năng là những người biết giải quyết trước
người khác những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đối với Hồ Chí Minh, người có