Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh hà tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.88 KB, 105 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để phát triển, bất kỳ quốc gia nào cũng cần phải có một học thuyết làm
nền tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Ở Việt Nam, đó là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà cơ sở của nó là thế giới quan duy vật
biện chứng.
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học và cách
mạng được C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ
XIX, sau đó được V.I.Lênin và những nhà mácxít bổ sung và phát triển. Nó là
hệ thống những tri thức đúng đắn, khoa học và tiến bộ về tự nhiên, xã hội, con
người, đóng vai trị định hướng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do
vậy, việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng - thế giới quan khoa học
cho đội ngũ cán bộ của Đảng là một việc làm thường xuyên, lâu dài và là vấn
đề cấp bách đối với nước ta hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta, đội ngũ cán bộ có vai
trị cực kỳ quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cán bộ là vốn quý
của Đảng, của cách mạng, cán bộ giữ vị trí quan trọng và có ý nghĩa quyết
định đến sự thành bại của cách mạng, đảm bảo cho mọi đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện thắng lợi. Đồng
thời, cán bộ tạo ra mắt xích gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Người
nói: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ, máy cũng bị tê liệt. Cán bộ là người
đem chính sách của Chính phủ, của Đảng thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ
dở thì chính sách cũng khơng thể thực hiện được”, “Cán bộ là cái gốc của mọi
cơng việc”, “Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong. Mọi việc thành cơng hay thất
bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định” [63, tr.240].
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung bộ, có vị trí chiến
lược quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng



2
của Tổ quốc. Sau hơn 20 năm tái lập tỉnh (1991 - 2013), Hà Tĩnh đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có được
những thành tựu đó là do sự đóng góp của tồn Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân trong tỉnh trong đó cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đóng một vai trị quan trọng.
Trong bối cảnh hội nhập, tồn cầu hố và những u cầu nảy sinh từ sự
nghiệp đổi mới, từ công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH ở Hà Tĩnh đòi hỏi đội
ngũ này phải có niềm tin khoa học, bản lĩnh chính trị, có năng lực tư duy lý
luận và năng lực tổ chức thực tiễn,... mới có thể đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay. Tư duy lý luận đóng một vai trị
hết sức to lớn trong nhận thức và cải tạo thế giới. Tư duy lý luận chính trị
khoa học, về thực chất, đó là tư duy biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen từng nói
rằng: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể
khơng có tư duy lý luận” [55, tr.489]. Thực tế, trong những năm đổi mới, do
hạn chế của việc trang bị thế giới quan cách mạng và khoa học mácxít, một bộ
phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên trong q trình hoạt động của mình vẫn
cịn bị ảnh hưởng của bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm, bệnh chủ quan, duy
ý chí, bảo thủ, trì trệ,... Hơn nữa, dưới sự ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị
trường khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên ở Hà Tĩnh đang hình thành lối
sống thực dụng, tâm lý cầu may dễ dẫn đến thế giới quan duy tâm, tôn giáo
làm ảnh hưởng đến tư duy chiến lược của cán bộ trong sự nghiệp phát triển
đất nước nói chung, Hà Tĩnh nói riêng. Nhận thấy được vị trí, vai trị của cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cũng như
những yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, tôi chọn đề tài “Bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, vấn đề bồi dưỡng thế giới quan và tầm quan trọng của nó đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể như sau:



3
Thứ nhất, ở nước ngồi có các tác giả:
- A. P. Môi-xê-ep và I. A. Môi-xê-ep: “Thế giới quan và hệ tư tưởng”,
Tạp chí Nghiên cứu, số 1/1985.
- Ch. L. Xmiếc-nốp: “Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế
giới quan Mác - Lênin”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 3/1985.
- V. V. Xô-cô-lôp: “Nhập môn lịch sử triết học - Thế giới quan và triết
học với tư cách những hiện tượng chung nhất của văn hóa tinh thần”, Tạp chí
Triết học, số 9/2008.
- Bun Nhơng Khin Sả Mỏm: “Xây dựng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trong giai đoạn hiện
nay”, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1991.
- Vi La Phăn Đuông Ma Ny: “Giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng với việc khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí trong đội ngũ cán bộ ở
Lào hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2006.
Thứ hai, ở Việt Nam có các tác giả:
- Lê Thị Nam An: “Giảng dạy triết học Mác - Lênin với việc giáo dục
thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Nghệ An hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành Chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2007.
- Lương Gia Ban: “Góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi
mới nội dung chương trình các mơn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Trọng Chuẩn: “Một số khía cạnh về vai trị của sinh học hiện
đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, Tạp chí Triết
học, số 3/1988.
- Hồng Đình Cúc: “Xây dựng và củng cố thế giới quan khoa học cho

thanh niên, sinh viên nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2007.


4
- Nguyễn Minh Hoàn: “Triết học Mác - Lênin - phương pháp luận
khoa học để nhận thức và hoạt động thực tiễn”, Chương trình Bồi dưỡng dự
nguồn cán bộ cao cấp, học phần 1, Học viện chính trị - hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, 2013.
- Nguyễn Huy Hồng: “Mấy suy nghĩ về việc xác định bản chất của thế
giới quan”, Tạp chí Triết học, số 1/2003.
- Nguyễn Thế Kiệt: “Triết học Mác - Lênin với việc xác định con
đường và động lực đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009.
- Nguyễn Thị Luyến. “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện
chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng ở Hà Nội hiện nay”, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005.
- Lê Hữu Nghĩa, “Tư tưởng Triết học và thế giới quan của Hồ Chí
Minh”, Thơng tin những vấn đề lý luận, số 5/2002, số 9/2002, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Văn Phịng: “Nét độc đáo trong thế giới quan duy vật biện
chứng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 9/2006.
- Phạm Ngọc Quang (2008), “Nâng cao hiệu quả giáo dục thế giới
quan khoa học trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Báo cáo viên, số 4/2008.
- Trần Viết Quân: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận án Tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.
- Đào Thị Minh Thảo: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ giáo viên tiểu học ở nước ta hiện nay” (từ thực tế Hải
Phịng), Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, 2010.

- Nguyễn Thị Kim Thu: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho cán bộ, đảng viên Phú Thọ hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học,
Học viện Chính trị - Hành Chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.


5
- Nguyễn Tài Thư: “Đề cương văn hóa Việt Nam và những vấn đề
xây dựng thế giới quan khoa học trong hơn 40 năm qua”, Tạp chí Triết
học, số 2/1984.
- Bùi Kiến Thưởng: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho Học viên Trường chính trị Hà Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Trần Thước: “Sự hình thành thế giới quan XHCN ở tầng lớp trí thức
Việt Nam”, Luận án Phó Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 1993.
- Nguyễn Văn Tuấn: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành Chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2009.
- Nguyễn Văn Trung (1984), “Về bồi dưỡng thế giới quan, phương
pháp luận của việc dạy và học các môn lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê
nin”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 4/1984.
- Bùi Đức Tuyên: “Nâng cao chất lượng giảng dạy triết học chính là
nâng cao việc củng cố kiên định thế giới quan và phương pháp luận khoa học
cho học viên”, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 6/1986.
Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến:
- Một là, khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan duy vật biện
chứng nói riêng; cấu trúc, vai trị, chức năng của thế giới quan.
- Hai là, chỉ ra tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế
giới quan duy vật biện chứng cho các đối tượng như sinh viên, cán bộ, đảng

viên trong quá trình xây dựng CNXH.
- Ba là, nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành thế giới
quan duy vật biện chứng và ý nghĩa phương pháp luận chung cho việc xây
dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong thời kỳ quá độ lên CNXH.


6
- Bốn là, đưa ra những phương hướng chung và một số giải pháp chủ
yếu nhằm xây dựng, bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho mỗi đối
tượng cụ thể trên cơ sở đòi hỏi của thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Những cơng trình của các tác giả nêu trên đã có nhiều đóng góp trong
việc nghiên cứu về thế giới quan duy vật biện chứng. Tuy nhiên, vấn đề“Bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” chưa có cơng trình nào nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, luận văn đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc bồi dưỡng thế giới
quan duy vật biện chứng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Thứ nhất, làm rõ hệ thống quan điểm mácxít về thế giới quan và vai
trị của thế giới quan đối với hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn .
- Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng việc bồi dưỡng thế giới quan
duy vật biện chứng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Thứ ba, đưa ra một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở tỉnh Hà Tĩnh trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta
hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về thế giới quan, luận
văn tập trung nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh từ năm 2005 đến nay.


7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên toàn bộ quan điểm triết học của chủ nghĩa MácLênnin về thế giới quan; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về
việc nâng cao nhận thức lý luận nói chung, bồi dưỡng thế giới quan nói riêng
cho cán bộ, đảng viên.
- Luận văn dựa vào các chủ trương, chính sách của tỉnh uỷ, Uỷ ban
nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và của các cấp ủy đảng, chính quyền cơ sở liên quan
đến đề tài; báo cáo tổng kết cơng tác đào tạo, bồi dưỡng của trường Chính trị
Trần Phú Hà Tĩnh từ năm 2005 đến nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
phân tích và tổng hợp, lịch sử và lơgíc, hệ thống hóa, khái qt hóa,v.v..
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần đào tạo để nâng cao nhận thức lý luận nói chung
và phương pháp luận nói riêng cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh.
- Luận văn được sử dụng vào nội dung các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ lý luận nói chung và thế giới quan duy vật biện
chứng nói riêng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận nói chung và thế
giới quan duy vật biện chứng nói riêng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.

- Luận văn là cơ sở để nhận thức đúng đắn về đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ lý luận nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG, NỘI DUNG VÀ
VAI TRÒ CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT
BIỆN CHỨNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ
SỞ HIỆN NAY
1.1. THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG

1.1.1. Thế giới quan
Để tồn tại, lồi người phải thích nghi với thế giới xung quanh và tìm
cách biến đổi thế giới đó theo những u cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy,
con người cần phải hiểu biết về thế giới cũng như về chính bản thân mình.
Trong q trình tìm hiểu đó, con người gặp hàng loạt vấn đề cần được làm rõ,
ví dụ như: Thế giới quanh ta là gì? Nó có bắt đầu và kết thúc khơng? Sức
mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì? Quan hệ
của nó với thế giới bên ngồi ra sao? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?…
Những câu hỏi như vậy được đặt ra với mức độ khác nhau đối với con người
từ thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay và cả mai sau. Giải đáp những vấn đề
cơ bản thiết thực nói trên, sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan
niệm của họ về thế giới, về vai trò của con người trong thế giới. Đó chính là
thế giới quan.
Thuật ngữ “Thế giới quan” lần đầu tiên được nhà triết học người Đức

Cantơ nêu ra vào thế kỷ XVIII, sau đó các nhà triết học đều sử dụng thuật ngữ
này để chỉ quan niệm của con người về thế giới. Cho đến nay đã có nhiều
định nghĩa về thế giới quan dưới nhiều cấp độ, khía cạnh và ý nghĩa khác
nhau. Chẳng hạn, Getx quan niệm: “Chúng tôi hiểu thế giới quan như một hệ
thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế giới về
nguồn gốc, về ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội” [32, tr.42].
Akitốp cho rằng: “Tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế giới,


9
về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý nghĩa và giá trị của đời sống con người,
lòng tin của con người trong hiện thực gọi là thế giới quan” [2, tr.167]. Trong
Từ điển Triết học, bản dịch ra Tiếng Việt năm 1986 của nhà xuất bản Tiến bộ
Mátxcơva và nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, thế giới quan được cho là
…toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng
hoạt động và quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của
một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại. Thế giới quan
hình thành gồm những yếu tố thuộc về tất cả mọi hình thái ý thức xã
hội [97, tr.539].
Từ điển Triết học do Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội xuất bản năm 1976
lại ghi:
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, khái niệm và quan
niệm về toàn bộ thế giới xung quanh con người; đó là tồn bộ những
quan điểm về thế giới, về những hiện tượng trong tự nhiên và trong
xã hội, các quan điểm triết học xã hội và chính trị, luân lý, mỹ học,
khoa học [98, tr.906].
Từ những quan niệm khác nhau như vừa nêu ra ở trên, chúng ta có thể
hiểu thế giới quan như sau: Thế giới quan là một hệ thống tri thức, niềm tin,
lý tưởng của một chủ thể về thế giới, về con người cũng như vai trò và vị trí
của con người trong thế giới ấy.

Trong thế giới quan, bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn bộ những
quan niệm về cuộc sống của con người và loài người.
Về cấu trúc, thế giới quan của con người có cấu trúc phức tạp trong đó
các yếu tố cơ bản của thế giới quan là tri thức, niềm tin và lý tưởng.
- Tri thức
Tri thức là kết quả nhận thức hiện thực trên cơ sở hoạt động thực tiễn
của con người. Nhưng không phải tất cả những hiểu biết của con người về thế
giới hiện thực đều tham gia tạo thành thế giới quan, mà chỉ khi những tri thức
đó biểu hiện quan điểm riêng của chủ thể như lập trường chính trị, quan điểm


10
thẩm mỹ, đạo đức…thì mới trở thành thế giới quan.
Trong nội dung tri thức của thế giới quan, các quan điểm của triết học
đóng vai trị là nền tảng. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan vì triết
học là hệ thống tri thức lý luận khái quát về tự nhiên, xã hội, con người và
mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên. Nhờ đó
triết học vạch rõ bản chất của tồn tại, bản chất của các hiện tượng xã hội, bản
chất và vai trò của con người… Với tư cách đó, tri thức triết học giữ vai trị
định hướng cho quá trình củng cố, phát triển thế giới quan của con người hoặc
cộng đồng người trong lịch sử. Trong quá trình con người sinh sống và hoạt
động, tri thức ln vận động, phát triển. Do vậy, thế giới quan của con người
cũng không ngừng vận động và phát triển.
- Niềm tin
Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan song tri thức
chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin của con người qua sự
thể nghiệm trong thực tiễn cuộc sống của họ.
Niềm tin được hình thành chủ yếu trên cơ sở tri thức nhưng niềm tin
không chỉ dựa trên tri thức mà cịn là trạng thái xúc cảm và tình trạng tâm lý
ổn định, chính là sự tin tưởng, khơng dao động trong nguyên tắc sống, quan

điểm, tư tưởng... Nó chi phối tình cảm, lương tâm, ý chí, hành động của con
người. Chính niềm tin tạo nên tính tích cực của cá nhân mang thế giới quan
trong quan hệ đối với thế giới bên ngoài. Niềm tin thúc đẩy con người - chủ
thể hoạt động phù hợp với những quan điểm của mình và xác định phương
châm hành động cho họ.
- Lý tưởng
Trong thế giới quan, cùng với tri thức và niềm tin thì lý tưởng là yếu tố
định hướng cực kỳ quan trọng. Lý tưởng như hình mẫu, mục tiêu tối thượng
về một cái gì đó của một cá nhân, một nhóm người, một giai cấp hay tồn xã
hội muốn vươn tới hiện thực.
Lý tưởng là một hình thức tư tưởng được xác lập trên cơ sở tri thức và


11
niềm tin của một giai cấp trong toàn xã hội đặt ra nhằm định hướng hoạt động
cho mọi thành viên trong xã hội thực hiện mục đích của mình để biến cái
đang có thành cái phải có đáp ứng nhu cầu phát triển của con người. Trong
cuộc sống, con người khơng thể sống mà khơng có lý tưởng. Lý tưởng là nhân
tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm chủ của con người trong cuộc sống
hiện thực của mình. Lý tưởng đúng đắn, cao cả sẽ làm cho mỗi người có thái
độ, lập trường sống đúng đắn, lao động, học tập và cơng tác tích cực, lành
mạnh. Lý tưởng đúng đắn còn giúp cho con người vươn tới những giá trị cao
đẹp của cuộc sống như: lòng nhân ái, lòng vị tha và những phẩm chất chân,
thiện, mỹ. Lý tưởng đúng đắn còn giúp cho con người đấu tranh phòng chống,
ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái ác, cái xấu, cái tiêu cực, cái lạc hậu trong xã hội
và có thể sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cho lý tưởng cao đẹp đó.
Ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan ln có mối quan hệ
biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau và thâm nhập
vào nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Trong ba nhân tố đó thì tri thức là
nhân tố quan trọng nhất, có vai trị quyết định cho sự hình thành và phát triển

thế giới quan. Cịn niềm tin và lý tưởng sẽ có vai trị trong q trình biến tri
thức thành hoạt động cải tạo hiện thực của con người.
Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, thế giới quan được
thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó là:
thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học
Thế giới quan thần thoại: là những quan niệm sơ khai về thế giới của
người nguyên thuỷ. Nó là kết quả của những cảm xúc ban đầu của người
nguyên thuỷ về thế giới và con người mà trong đó có sự hồ quyện giữa cái
có thật và cái hoang tưởng, cái hiện thực và cái hư ảo, cái lý trí và cái tín
ngưỡng, tư duy và cảm xúc…
Thế giới quan tôn giáo: là sự phản ánh một cách hư ảo hiện thực. Nó
xuất phát trong bối cảnh trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn


12
thấp kém, khi con người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh “thần thánh” của
tự nhiên (sấm sét, bão lụt, động đất, thú dữ, hạn hán…) và sức mạnh “thần bí”
của xã hội (bệnh tật, nỗi khổ cực, áp bức, thống trị…). Trong điều kiện đó,
con người đã thần thánh hoá các lực lượng tự nhiên và các thế lực xã hội, gán
cho chúng một sức mạnh siêu nhiên. Có thể nói rằng, đặc trưng chủ yếu của
thế giới quan tôn giáo là ở “niềm tin sợ hãi” của con người vào sự tồn tại và
sức mạnh siêu nhiên của thần thánh. Đồng thời, là sự bày tỏ nguyện vọng
được giải thoát khỏi những khổ đau để vươn tới hạnh phúc vĩnh hằng. Yếu tố
nền tảng trong thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo, bao gồm cả niềm
tin vào khả năng đạt tới cuộc sống tốt đẹp.
Thế giới quan triết học: là trình độ cao của thế giới quan. Nó ra đời trên
cơ sở trình độ nhận thức của con người đã đạt đến sự khái quát hoá, trừu
tượng hoá. Hơn nữa, thế giới quan triết học thường được các lực lượng xã hội
sử dụng để truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp mình. Thế giới quan triết học
diễn tả những vấn đề của thế giới bằng hệ thống lý luận các khái niệm, phạm

trù, quy luật. Nó khơng chỉ trình bày các quan điểm của mình, mà cịn luận
chứng cho các quan điểm ấy bằng lý tính và những cơ sở khoa học nhất định.
Khi phân biệt thế giới quan triết học với các thế giới quan khác C.Mác viết:
Các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa,
than vãn, triết học dạy bảo, các vị hứa hẹn thiên đường và tồn bộ thế
giới, triết học khơng hứa hẹn gì cả ngồi chân lý; các vị địi hỏi tin
tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học khơng địi hỏi tin tưởng vào các
kết luận của nó, nó địi hỏi kiểm nghiệm những hoài nghi; các vị doạ
dẫm, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để
hiểu rằng những kết luận của nó khơng bao dung sự khao khát hưởng
lạc và lịng vị kỷ - của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục [49, tr.416].
Có thể chia thế giới quan triết học thành thế giới quan tiền khoa học,
thế giới quan phi khoa học và thế giới quan khoa học. Thế giới quan khoa học


13
(Thế giới quan duy vật biện chứng) dựa trên cơ sở tri thức khoa học nên phản
ánh thế giới một cách khách quan, đúng đắn (được đề cập cụ thể ở phần sau);
Thế giới quan tiền khoa học là những quan niệm được hình thành qua những
trải nghiệm trong cuộc sống, với trình độ nhận thức cịn thấp kém. Những
quan điểm này chưa có căn cứ khoa học, đặc biệt là của khoa học tự nhiên
nên phản ánh hiện thực chưa đầy đủ, chưa chính xác; Thế giới quan phi khoa
học do không dựa trên tri thức khoa học nên cơ bản là đối lập với thế giới
quan khoa học, trong đó có những biểu hiện của thế giới quan thần thoại, thế
giới quan tôn giáo, phản ánh sai lầm, hư ảo hiện thực. Thế giới quan phi khoa
học còn có thể là phản khoa học, phản ánh xuyên tạc hiện thực.
Thế giới quan có vai trị đặc biệt trong đời sống của con người và xã
hội loài người. Thế giới quan thực hiện chức năng định hướng cho toàn bộ
hoạt động của con người. Có thể hình dung thế giới quan như một thấu kính
qua đó con người nhìn nhận thế giới xoay quanh nhận thức bản thân mình,

xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống, chủ động lựa chọn phương thức hành
động và sinh sống của riêng mình. Thế giới quan đúng đắn sẽ là tiền đề xác
lập nhân sinh quan tích cực. Ngược lại thế giới quan phản khoa học dễ làm
hình thành nhân sinh quan tiêu cực. Như vậy, thế giới quan qui định cả tình
cảm, thái độ, hành vi của con người trong quan hệ với thế giới xung quanh và
với những người khác. Sự đúng sai ngay từ thế giới quan sẽ quy định sự thành
công hay thất bại tất yếu của con người trong q trình thực hiện mục tiêu.
1.1.2. Quan điểm mácxít về thế giới quan
Thế giới quan duy vật biện chứng là đỉnh cao của thế giới quan triết
học và cũng là đỉnh cao về tính khoa học, cách mạng của thế giới quan đã có
trong lịch sử. Thế giới quan duy vật biện chứng được C.Mác và Ph.Ăngghen
xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau này được V. I. Lênin và
những người kế tục ông tiếp tục phát triển.
Thế giới quan duy vật biện chứng là hệ thống tri thức về tự nhiên, xã


14
hội và con người, cùng những định hướng giá trị có tác dụng thúc đẩy con
người hoạt động cải tạo hiện thực, giải quyết một cách duy vật biện chứng
vấn đề cơ bản của triết học. Hệ thống tri thức đó được tạo thành từ sự kế thừa
các trào lưu tư tưởng tiến bộ, những nhân tố hợp lý của các trào lưu triết học
trong lịch sử; từ những thành tựu mới nhất của khoa học, cùng với cuộc đấu
tranh chống lại sự xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch.
Là một hình thức thế giới quan, thế giới quan duy vật biện chứng cũng
có cấu trúc bao gồm tri thức, niềm tin, lý tưởng. Trong đó:
Tri thức của thế giới quan duy vật biện chứng là tri thức khoa học, là hệ
thống các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội, quy luật tư duy… để giải thích
đúng về thế giới, xác định được vai trị, vị trí, nghĩa vụ, quyền lợi của con
người trong cuộc sống cộng đồng.
Niềm tin của chủ nghĩa duy vật biện chứng là niềm tin khoa học, tin

vào khả năng của con người, tin vào quy luật khách quan tất yếu là nhân loại
sẽ tiến đến xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn chứa đựng trong đó những tư
tưởng của nhân sinh quan tích cực, đó là chủ nghĩa nhân đạo cao cả, tinh thần
lạc quan cách mạng, là tinh thần đoàn kết, là lương tâm, trách nhiệm đối với
con người, là sự xác định những giá trị đạo đức, thẩm mỹ hướng tới sự chuẩn
mực, vì sự phát triển của con người.
Đặc điểm của thế giới quan duy vật biện chứng
Thứ nhất, thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống nhất giữa nhận
thức luận và phương pháp luận.
Thế giới quan duy vật biện chứng khơng chỉ đóng vai trị lý giải thế
giới, hơn thế nữa, với sự lý giải đúng, nó cịn trở thành cái định hướng cho
con người hành động. Khi trở thành cái định hướng cho con người hành động,
thế giới quan duy vật biện chứng còn thực hiện một chức năng khác - chức
năng phương pháp luận. Do vậy, thế giới quan duy vật biện chứng là sự thống


15
nhất giữa nhận thức luận và phương pháp luận. Điều này được thể hiện ở:
Một là, thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan duy vật triệt để.
Trước C.Mác, thiếu sót lớn của chủ nghĩa duy vật là không triệt để, duy
vật trong tự nhiên, duy tâm trong xã hội. Để khắc phục thiếu sót này, C.Mác
đã tiến hành tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán các tư tưởng xã hội trong
lịch sử, vận dụng quan điểm duy vật biện chứng vào nhận thức xã hội. Bằng
cách làm đó, C.Mác đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm cho chủ
nghĩa duy vật biện chứng trở thành triệt để, trở thành hạt nhân lý luận của thế
giới quan khoa học. V. I. Lênin đánh giá rằng:
Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học,
Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hồn bị và mở rộng học thuyết ấy
từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư
tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt
chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến
nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị… [44, tr.53].
Hai là, thế giới quan duy vật biện chứng có sự thống nhất giữa thế giới
quan duy vật và phương pháp biện chứng.
Ở thế giới quan tiền khoa học và thế giới quan phi khoa học, chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng còn tách rời nhau. C.Mác đã kế thừa tư tưởng của
các nhà triết học trước đó, đặc biệt là kế thừa “hạt nhân hợp lý” trong triết học
Hêghen là tư tưởng biện chứng, cải tạo nó, phá bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng
nên phép biện chứng duy vật. Đồng thời C.Mác đã cải tạo chủ nghĩa duy vật
cũ của Phoiơbắc, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác
của nó để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng. C.Mác tạo ra sự thống
nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng, tạo nên sự thống
nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng. Như vậy,
chủ nghĩa duy vật mácxít là chủ nghĩa duy vật biện chứng, còn phép biện


16
chứng mácxít là phép biện chứng duy vật.
Ba là, thế giới quan duy vật biện chứng là thống nhất biện chứng giữa
lý luận và thực tiễn.
Trong lịch sử, các hình thái thế giới quan trước Mác đều chưa thấy
được vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức và tiêu
chuẩn của chân lý, chưa thấy vai trò quyết định của hoạt động sản xuất vật
chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội nên tách rời giữa lý luận và
thực tiễn là đặc điểm vốn có trong các hình thức thế giới quan trước Mác.
Thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là lý luận khoa học phản
ánh bản chất, quy luật của sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan
trọng hơn nhằm mục đích cải tạo thế giới. Ý nghĩa thực tiễn cao nhất của thế

giới quan duy vật biện chứng là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con
người. Vì vậy, sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tác căn bản của thế giới quan duy vật biện chứng.
Khi đánh giá những hạn chế của các hình thức thế giới quan trước đây,
C.Mác chỉ rõ:
Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan khơng, hồn tồn khơng phải là một vấn đề lý luận mà
là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức
mạnh, tính trần tục của tư duy của mình. Sự tranh cãi về tính hiện
thực hay tính khơng hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là một
vấn đề kinh viện thuần túy [50, tr.9-10].
“Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau,
song vấn đề là cải tạo thế giới”[50, tr.12].
Tất cả những luận điểm đó của C.Mác đều là biểu hiện sâu sắc của tính
hiện thực, tính thực tiễn trong thế giới quan duy vật biện chứng.
Thứ hai, thế giới quan duy vật biện chứng có sự thống nhất giữa tính


17
khoa học và tính cách mạng
Trong thế giới quan duy vật biện chứng, những luận điểm khoa học và
hệ tư tưởng cách mạng thống nhất biện chứng, hữu cơ với nhau.
Bản chất khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng đã bao hàm
tính cách mạng. Tính khoa học đòi hỏi thế giới quan duy vật biện chứng phải
chỉ ra được quy luật vận động của lịch sử. Nếu chỉ ra được quy luật vận động
khách quan của lịch sử thì khơng thể khơng thấy vai trị, sứ mệnh lịch sử tồn
thế giới của giai cấp vơ sản, khơng thể không thấy sự thay thế chủ nghĩa tư
bản bằng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Đó vừa là khoa học vừa là
cách mạng. Tính khoa học trong thế giới quan duy vật biện chứng còn dòi hỏi

phải đấu tranh chống lại mọi sự bảo thủ, trì trệ, chống lại xã hội áp bức, bóc
lột cũ, cải tạo nó, xây dựng xã hội mới, chống mọi bất cơng, áp bức, bóc lột,...
V. I. Lênin viết: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai
cấp vơ sản con đường phải theo để thốt khỏi chế độ nơ lệ về tinh thần, trong
đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước đến nay” [44, tr.5758]. Hơn nữa, phải đứng trên lập trường cách mạng tiên tiến mới có thể nhận
thức đúng chân lý khoa học, nhất là những vấn đề của xã hội, lịch sử. Như
vậy tính khoa học trong thế giới quan duy vật biện chứng cũng là tính cách
mạng, bao hàm tính cách mạng và địi hỏi tính cách mạng.
Mặt khác, tính cách mạng trong thế giới quan duy vật biện chứng cũng
hàm chứa trong nó tính khoa học và địi hỏi tính khoa học. Bởi lẽ, để đấu
tranh chống lại áp bức, bóc lột của xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tiến bộ thì
phải dựa vào quy luật khách quan, phải tơn trọng và hành động theo quy luật
khách quan, không được tuỳ tiện hành động theo ý muốn chủ quan, hay sự
tưởng tượng khơng có căn cứ. Nghĩa là cách mạng muốn thành cơng thì
khơng thể khơng dựa vào khoa học.
Sự thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học trong thế giới quan
duy vật biện chứng còn biểu hiện ở bản chất khoa học và cách mạng của phép


18
biện chứng.C.Mác cho rằng:
Dưới dạng hợp lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và
kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của
chúng mà thơi, vì trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại,
phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm về sự phủ
định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi
hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự
vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện
chứng khơng khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó
có tính chất phê phán và cách mạng [57, tr.35-36].

Theo thế giới quan duy vật biện chứng khơng có cái gì là là tối hậu, là
tuyệt đích, là vĩnh viễn. Sự vật khi tồn tại đã bao hàm khả năng phủ định, bị
thay thế. Cái mới, cái tiến bộ hơn sẽ xuất hiện và chiến thắng tạo nên sự phát
triển không ngừng của sự vật hiện tượng và của thế giới. Thế giới quan duy
vật biện chứng khi khẳng định sự tất thắng của cái mới đã mang tinh thần lạc
quan cách mạng. Đồng thời nó cịn thể hiện tính tích cực khi không coi những
thành tựu lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng là đã hồn thiện, mà phải ln
bổ sung phát triển nó trên cơ sở sự phát triển của nhận thức, của khoa học và
của thực tiễn. Thế giới quan duy vật biện chứng do vậy đã phản ánh đúng đắn
hiện thực khách quan, khẳng định khả năng và vai trò to lớn của con người
trong thế giới, giúp con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp
để tác động vào thế giới.
Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng
Thứ nhất, đối với hoạt động nhận thức
Một là, tạo cơ sở cho niềm tin vào khả năng nhận thức của con người
Thế giới quan duy vật biện chứng sau khi hình thành có vai trị to lớn
đối với nhận thức của chủ thể. Hệ thống tri thức của thế giới quan duy vật
biện chứng là hệ thống tri thức khoa học chung được khái quát từ hệ thống tri
thức của tất cả các ngành khoa học cụ thể; vì vậy, nó như là “thấu kính” định


19
hướng cho chủ thể nhận thức đúng đắn về thế giới hiện thực.
Tri thức khoa học là cơ sở tạo ra niềm tin khoa học cho chủ thể nhận
thức thế giới. Với tư cách là thành phần trong cấu trúc của thế giới quan duy
vật biện chứng, niềm tin khoa học tạo ra bản lĩnh, sự hăng say, là động lực
thôi thúc con người vươn lên để nhận thức thế giới.
Niềm tin khoa học cùng với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của thế giới
quan duy vật biện chứng đóng vai trò định hướng đối với chủ thể trong nhận
thức thế giới, trước hết là đối với sự vận động, phát triển của xã hội lồi

người. Chỉ có nắm vững thế giới quan duy vật biện chứng chúng ta mới đủ
sáng suốt, bản lĩnh và nghị lực vượt qua những khó khăn trong nhận thức các
vấn đề, xây dựng đường lối đúng đắn cho con đường phát triển của đất nước.
Hai là, hình thành phương pháp tư duy biện chứng
Phương pháp tư duy rất quan trọng trong việc thu nhận tri thức, xử lý
thông tin, giải quyết công việc và hình thành cách tư duy, lối làm việc cho con
người. Nắm vững phương pháp biện chứng duy vật chủ thể sẽ có “cơng cụ
vạn năng” để nhận thức và cải tạo thế giới.V. I. Lênin viết:
Người nào bắt tay vào những vấn đề riêng trước khi giải quyết
những vấn đề chung, thì kẻ đó, trên mỗi bước đi, sẽ khơng sao tránh
khỏi “vấp phải” những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mà
mù quáng vấp phải những vấn đề đó trong từng trường hợp riêng,
thì có nghĩa đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động
tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc [43, tr.437].
Xuất phát từ quan điểm về thế giới quan mácxít cho thấy, phù hợp với
mỗi một thế giới quan là một phương pháp luận đặc trưng tương ứng. Đối với
thế giới quan duy vật biện chứng mà hạt nhân của nó là phép biện chứng duy
vật là phương pháp nhận thức biện chứng, đặt ra yêu cầu con người trong
nhận thức và hành động luôn phải nắm vững và tuân theo các nguyên lý, quy
luật và các phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Thế giới quan duy vật biện chứng sẽ trang bị cho chủ thể nhận thức tri


20
thức khoa học, phương pháp tư duy biện chứng giúp họ có thể nắm bắt và giải
quyết vấn đề một cách hiệu quả nhất. V. I. Lênin khẳng định: “Triết học Mác
là một chủ nghĩa duy vật hồn bị, nó cung cấp cho lồi người và giai cấp cơng
nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” [44, tr.53].
Thứ hai, đối với hoạt động thực tiễn
Một là, thế giới quan duy vật biện chứng đóng vai trị định hướng cho

con người cải tạo thế giới.
Các nguyên lý, các qui luật, các phạm trù của phép biện chứng duy vật
trong chỉnh thể thống nhất của nó giúp ta xác định cấu trúc phức tạp, bản chất
đích thực của các sự vật, hiện tượng, vạch ra mối liên hệ, các mâu thuẫn nội
tại, làm sáng tỏ những khuynh hướng, khả năng phát triển của sự vật, của xã
hội, của thời đại. Nhờ đó ta đánh giá đúng các sự kiện, các hiện tượng, đề ra
mục đích, phương án, biện pháp giải quyết một cách hiệu quả các nhiệm vụ
thực tiễn. Không chỉ định hướng cho hoạt động, thế giới quan duy vật biện
chứng còn cung cấp cho con người phương thức cải tạo hiện thực. Phương
pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt, phản ánh hiện thực
đúng như nó tồn tại cũng như quá trình vận động, phát triển của sự vật đó,
những mối liên hệ, những khả năng tác động vào sự vật…sẽ làm con người
chủ động trong nắm bắt sự vật, hiện tượng và biến đổi nó một cách hiệu
quả nhất. C.Mác chỉ ra vai trò của triết học với hai chức năng cơ bản, đó là
chức năng nhận thức thế giới và chức năng cải tạo thế giới: “Các nhà triết
học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải
tạo thế giới” [50, tr.12].
Hai là, thế giới quan duy vật biện chứng tạo cơ sở cho niềm tin vào
năng lực cải tạo thế giới của con người.
Thế giới quan duy vật biện chứng với tính khoa học, cách mạng của nó
tạo cơ sở cho niềm tin vào khả năng nhận thức và cải tạo thế giới của con
người, là sức mạnh tinh thần giúp cho mỗi chủ thể nhận thức và cải tạo thế


21
giới giữ vững niềm tin trong những bước ngoặt lịch sử.
Như chúng ta biết, tri thức tự nó chưa phải là thế giới quan, tri thức chỉ
gia nhập vào thế giới quan khi nó chuyển thành quan niệm, thành niềm tin của
con người. Chỉ khi biến thành niềm tin, tri thức mới trở nên sâu sắc và bền
vững; và nhờ có niềm tin tri thức mới trở thành cơ sở cho hành động; niềm tin

có thể làm tăng thêm nghị lực, cũng cố ý chí quyết tâm; giúp con người vượt
qua khó khăn gian khổ, thậm chí sẵn sàng hy sinh bản thân mình cho niềm tin
đó. Biểu hiện cao nhất của niềm tin trong đời sống hiện nay sự tin tưởng vào
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong tiến trình
phát triển của nhân loại. Niềm tin đó được xây dựng dựa trên sự khái quát
những qui luật khách quan, những kinh nghiệm thực tiễn và cả những khát
vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân.
Ba là, tạo tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực: hình thành tình
cảm nhân đạo, quan điểm thẩm mỹ, nhiệt tình cách mạng, tinh thần tự giác…
cho mỗi con người.
Lịch sử loài người là lịch sử không ngừng đuổi bắt lý tưởng và thực
hiện lý tưởng vì hạnh phúc của con người, thơng qua đó con người trưởng
thành, hình thành bản chất xã hội của mình. Thế giới quan duy vật biện chứng
là tiền đề, cơ sở của niềm tin khoa học cho con người vươn lên trong sản xuất,
trong đấu tranh vì sự tồn tại của xã hội và của chính mình. Do vậy, cần phải
không ngừng nâng cao hiệu quả bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng để
nâng cao năng lực nhận thức và năng lực thực tiễn của con người nhằm cải tạo
xã hội theo mục đích tốt đẹp của con người. Bởi vì, trình độ phát triển của thế
giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của cá nhân cũng như xã hội.
Bốn là, là vũ khí đấu tranh chống lại sự tấn cơng, cơng kích, xuyên tạc
của chủ nghĩa duy tâm với mọi biến tướng của nó và chống lại các thế lực thù
địch, phản động, phản khoa học khác.
Thế giới quan duy vật biện chứng cịn là vũ khí tinh thần sắc bén nhất


22
để con người giữ vững lập trường đấu tranh chống lại sự tấn cơng, cơng kích,
xun tạc của chủ nghĩa duy tâm với mọi biến tướng của nó và chống lại các
thế lực thù địch, phản động, phản khoa học khác. V.I.Lênin từng nhấn mạnh:
Chúng ta cần hiểu rằng nếu khơng có một cơ sở triết học vững vàng

thì tuyệt nhiên khơng có khoa học tự nhiên nào hay chủ nghĩa duy
vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống được sự lấn bước của
những tư tưởng tư sản và sự phục hồi của thế giới quan tư sản.
Muốn tiến hành được cuộc đấu tranh ấy và đưa nó đến thành cơng
hồn tồn, nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật hiện đại,
một đồ đệ tự giác của chủ nghĩa duy vật mà Mác là người đại diện,
nghĩa là nhà khoa học tự nhiên ấy phải là một nhà duy vật biện
chứng [47, tr.35].
Thế giới quan duy vật biện chứng là vũ khí tư tưởng sắc bén nhất cho
các ngành khoa học chống lại các tư tưởng phản khoa học. Đó là “một thế
giới quan hồn chỉnh, khơng thoả hiệp với bất cứ sự mê tín nào, một thế lực
phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản” [44, tr.50].
1.2. NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG THẾ GIỚI
QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
HIỆN NAY

1.2.1. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và vai trò của cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm bốn cấp: Trung ương;
tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương; quận, huyện, thị xã hoặc thành
phố trực thuộc tỉnh; cơ sở (xã, phường, thị trấn). Mỗi cấp có vị trí, vai trị
khác nhau trong hệ thống chính trị nhưng thống nhất về mục đích trong việc
thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, ở nước ta, khái niệm cán bộ đã được đề cập đến nhiều, song


23
vẫn chưa có một quan niệm thống nhất và chưa có những tiêu chí cụ thể để
xác định ai là cán bộ chủ chốt trong một tổ chức nhất định.

Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm cán bộ được hiểu như sau:
Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị. Người
làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt
với người thường khơng có chức vụ. Cán bộ tổ chức [96, tr.109].
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “chủ chốt là: quan trọng nhất,
có tác dụng làm nịng cốt. Cán bộ chủ chốt phong trào” [96, tr.174].
Theo quan niệm của các tác giả thuộc đề tài KX.05.11: thì cho rằng cán
bộ chủ chốt “là những cán bộ lãnh đạo, nhưng là lãnh đạo tồn diện, có trọng
trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết các vấn đề
và chịu trách nhiệm trước tập thể” [83, tr.139].
Tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm lại cho rằng, cán bộ chủ
chốt là:
Những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một
tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và
quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện
những nhiệm vụ của tập thể, hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối,
dẫn dắt tồn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định [92, tr.35-36].
Từ những quan niệm khác nhau trên đây, có thể xác định cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở là những người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cao nhất, làm
nòng cốt trong các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, đồn thể ở cơ sở.
Như vậy, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người quyết định mọi công việc
ở cơ sở và là người chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương mình. Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở bao
gồm: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch,
Phó Chủ tịch UBND và người đứng đầu các tổ chức chính trị - xã hội.
Vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở


24

Thứ nhất, cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị nước ta hiện
nay, nhưng lại là nền tảng của chế độ chính trị và đời sống xã hội. Cho nên,
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, xây dựng
bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng quần chúng ở địa phương.
Cơ sở là địa bàn sinh sống của đại bộ phận dân cư, nó chính là hình ảnh
thu nhỏ của xã hội. Cơ sở là cấp hành động, tổ chức hành động để đưa chủ
trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước
vào cuộc sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Cấp xã là cấp gần gũi dân
nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong
xuôi” [59, tr.371].
Thứ hai, cấp cơ sở là cấp cuối cùng tổ chức triển khai đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước; là cầu nối ý Đảng lòng dân.
Cấp cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động kinh tế - xã hội của nhân dân;
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cấp cuối cùng gần dân nhất, trực tiếp tiếp
xúc với dân, là chỗ dựa của Đảng và Nhà nước. Cấp cơ sở là nhịp cầu nối
Đảng với dân, đưa tư tưởng của Đảng đến với dân và phản ánh tình hình,
nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Thơng qua đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ý Đảng - lòng dân được thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước có sơ
sở ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, tạo nên máu thịt giữa Đảng với nhân dân,
trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ. Đúng như lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu
dây chuyền khơng tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những
người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi hành trong nhân dân,
nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [59, tr.54].
Thứ ba, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người tổ chức, quản lý vừa là
người phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, xây dựng đời sống văn
hoá cơ sở.


25

Nước lấy dân làm gốc. Nước muốn mạnh thì hệ thống chính trị cơ sở
phải thực sự là của dân, do dân và vì dân. Đường lối, chủ trương, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước có đi vào cuộc sống hay khơng là do nhân
dân có biết và tin tưởng hay khơng, có phù hợp với tâm tư, tình cảm, nguyện
vọng của nhân dân hay khơng? Thực tiễn cho thấy có dân là có tất cả, mất dân
là mất tất cả. Mất cơ sở là mất dân. Nguyên nhân dẫn đến mất dân là do tệ
quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền, vô cảm, xa dân của cán bộ cơ
sở, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đe dọa đến sự ổn định, phát
triển của đất nước, sự tồn vong của chế độ.
Đối với phong trào quần chúng tại địa phương, đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở không những là người dẫn dắt, định hướng các phong trào, mà còn
biết tổng kết kinh nghiệm nhân lên các điển hình tiên tiến trong lao động sản
xuất, trong xây dựng nếp sống văn hoá và các phong trào khác tại địa phương.
Khi đề cập đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, Hồ Chí Minh từng
khẳng định: Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở “không những là cái khâu liên
hệ, mà là cái kho dồi dào cho Đảng lấy thêm lực lượng. Nếu đội ngũ cán bộ
này phát triển và củng cố thì Đảng sẽ phát triển và củng cố; bằng khơng thì
Đảng sẽ “khơ héo” [64, tr.273-274].. Người cịn căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” [74, tr.510].
Cho nên, tại Hội nghị cán bộ miền núi tháng 9-1962, Người nhấn mạnh: Phải
ra sức bồi dưỡng cán bộ địa phương, cán bộ nữ và cán bộ xã về mọi mặt.
So với thời kỳ trước, yêu cầu hiện nay đối với người cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt cấp cơ sở được đặt ra cao hơn, đó là u cầu về trình độ lý
luận, bản lĩnh chính trị; u cầu về trình độ học vấn, chun mơn nghiệp vụ;
yêu cầu về tư duy, tác phong làm việc hiện đại; yêu cầu về năng lực sáng tạo,
ý chí dám nghĩ, dám làm; yêu cầu về phẩm chất đạo đức cách mạng của người
cán bộ… Đứng trước yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới hiện nay, thực



×