Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức cấp huyện ở nước ta hiện nay (qua thực tế tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.35 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình cách mạng nước ta, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo quản lý nói riêng, đóng vai trị hết sức
quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định rằng “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền
không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy tồn bộ máy cũng tê liệt”
[52, tr.54]. Người cịn nhấn mạnh: Cơng việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém. Vì vậy Đảng phải ln ln quan tâm đến công tác cán
bộ, phải “nuôi dạy cán bộ”, phải “trọng cán bộ”, trọng mỗi một người có ích
cho cơng việc chung của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Những chỉ dẫn trên
đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Trung thành với những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ chí Minh, trong q
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn luôn coi trọng cán bộ
và công tác cán bộ. Đảng ta khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng” [13, tr.66]. Một
trong những nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách của công tác xây dựng Đảng được
Đại hội lần thứ XI đề ra là: chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa có
đức vừa có tài, trong đó đức là gốc. Bởi vì “Người cán bộ cách mạng phải có
đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân” [52, tr.253].
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước luôn trau dồi và giữ


2


vững được phẩm chất đạo đức cách mạng: yêu nước, u chủ nghĩa xã hội,
chí cơng vơ tư, có lối sống lành mạnh, giữ gìn được phẩm chất của người cán
bộ cách mạng.
Tuy nhiên, trước những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị
trường, khơng ít cán bộ, trong đó có cán bộ lãnh đạo, quản lý đã bị thối hóa,
biến chất, sự sa sút về đạo đức của một bộ phận này biểu hiện cụ thể qua sự
kèn cựa địa vị, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, tha hóa về đạo đức, lối
sống… Đáng chú ý sự suy thoái về phẩm chất này trong cán bộ, đặc biệt là
cán bộ chủ chốt đang có chiều hướng gia tăng, làm xói mịn bản chất cách
mạng của đội ngũ cán bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng, của Nhà nước, suy
giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ. Tại Hội nghị lần thứ tư (khóa XI),
Đảng ta đánh giá:
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vơ ngun tắc [19, tr.22].
Sự sa sút về phẩm chất đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
thời gian qua một mặt do sự tác động của những yếu tố khách quan, nhưng mặt
khác - quan trọng hơn - là do trong một thời gian tương đối dài chúng ta chưa
chú ý đúng mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, bng lỏng việc
quản lý cán bộ và ít tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển đạo đức.
Việc nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, cơng chức nói
chung, cho đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp huyện nói riêng đang là một vấn đề
hết sức cấp bách hiện nay. Chính vì lý do đó, tôi chọn đề tại “Nâng cao đạo
đức công vụ cho công chức cấp huyện ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh
Kiên Giang)” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn góp phần nhỏ bé của



3
mình vào việc tiếp tục nâng cao đạo đức cơng vụ cho công chức cấp huyện ở
Kiên Giang, đáp ứng u cầu sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề đạo đức nói chung, đã có nhiều cá nhân và tập thể quan tâm
nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, với những cách tiếp cận khác nhau
như: Vũ Khiêu: “Mấy vấn đề đạo đức cách mạng”, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1978; Trần Thành: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nxb Chính
trị quốc gia, 1996; Nguyễn Chí Mỳ: “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản
lý ở nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Ngọc
Long (chủ biên): “Giáo trình đạo đức học”, Nxb Chính trị quốc gia, 2000;
Nguyễn Thế Thắng: “Tìm hiểu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh”,
Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc
(đồng chủ biên), “Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Trần Văn Phịng:
“Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” , Tạp
chí Lý luận Chính trị, số 5/2003; Nguyễn Ngọc Long: “Kết hợp chặt chẽ
giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản
lý”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4/2001; Nguyễn Đình Tường: “Một số
biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay và giải pháp khắc phục”, Tạp chí Triết học, số 6/2002; Trần
Sỹ Phán, Thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên nước ta hiện
nay qua văn kiện Đại hội XI của Đảng, Tạp chí Triết học, số 8 năm 2011;
Nguyễn Thế Kiệt, Tư tưởng Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách
mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011; Nguyễn Thế Kiệt, Mấy vấn đề về đạo đức học Mác - xít
và xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012; PGS.TS. Trần Sỹ Phán - Th.s. Lâm



4
Văn Đồng, Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 (khóa XI) của Đảng
vào việc nâng cao đạo đức cho cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay, Tạp
chí Lý luận chính trị và truyền thơng, số 7/2013; PGS.TS. Trần Sỹ Phán,
Xây dựng nhân cách cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, số 8/2013.
Liên quan đến công chức, đạo đức cơng vụ, có một số cơng trình như:
Cơng vụ, công chức nhà nước của tác giả Phạm Hồng Thái, do nhà xuất bản
Tư pháp ấn hành năm 2004; Đạo đức trong nền công vụ của các tác giả Tô Tử
Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo, do nhà xuất bản Lao động - xã
hội ấn hành năm 2002; Võ kim Sơn có bài Đạo đức thực thi cơng vụ nhìn từ
vụ việc ở Tiên Lãng, Hải Phịng, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3, năm 2012;
Đỗ Thị Ngọc Lan với cuốn Nghiên cứu so sánh quy định về đạo đức công vụ
của một số quốc gia và Việt Nam, nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2012. Giáo
trình Đạo đức cơng vụ (Học viện Hành chính), do PGS.TS. Nguyễn Đăng
Thành, Võ Kim Sơn chủ biên, gồm 7 chương, trong đó chương 4 bàn về đạo
đức thực thi công vụ của công chức. Các tác giả trong cuốn giáo trình này
quan niệm: Đạo đức cơng vụ trước hết được hình thành từ đạo đức cá nhân
của cơng chức; đạo đức cơng vụ được hình thành từ khía cạnh đạo đức xã hội
của công chức; đạo đức công vụ là đạo đức nghề nghiệp đặc biệt - công vụ
của công chức; đạo đức thực thi công vụ là sự hài hịa của các giá trị...
Tác giả Cao Minh Cơng trong Luận án tiến sĩ Triết học, với đề tài
“Trách nhiệm công vụ và đạo đức công chức ở nước ta hiện nay” (Viện Triết
học, 2012) đã đi sâu phân tích một số khái niệm cơng cụ như: cơng vụ; đạo
đức cơng chức... Theo tác giả: Cơng vụ là tồn bộ hoạt động của công chức
trong quản lý xã hội theo chức năng được quy định trong pháp luật thực định
nhằm mục đích phục vụ nhân dân, xã hội và nhà nước. Cịn đạo đức cơng
chức “là khái niệm liên quan đến mức độ hài lòng của nhân dân về hành vi
của công chức trong thực thi công vụ, trên cơ sở các định chế pháp lý ở mỗi



5
giai đoạn nhất định của lịch sử. Đạo đức công chức là một bộ phận đạo đức
của người công chức bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc hành
vi, xử sự trong công vụ, nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, cách xử sự của
công chức trong thực thi cơng vụ”.
Có thể nói rằng, những liên quan đến đạo đức, đạo đức cán bộ, đạo đức
công chức... đã có nhiều tác giả, tập thể tác giả quan tâm, nghiên cứu từ các
góc độ khác nhau. Nhưng sự nghiên cứu đạo đức công vụ cho một đối tượng
công chức nhất định hầu như chưa được đề cập đến, nhất là cơng chức cấp
huyện trên bình diện chung của cả nước cũng như ở một địa phương - nhất là
vùng xa như tỉnh Kiên Giang. Chính vì lẽ đó, tác giả muốn đi sâu tìm hiểu
vấn đề Nâng cao đạo đức công vụ cho công chức cấp huyện ở tỉnh Kiên
Giang hiện nay, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào
việc nâng cao đạo đức công vụ cho công chức cấp huyện ở Kiên Giang trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về công
vụ, đạo đức công vụ, nâng cao đạo đức công vụ cho công chức cấp huyện ở
nước ta hiện nay, tác giả phân tích thực trạng đạo đức cơng vụ của cơng chức
cấp huyện ở Kiên Giang, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao đạo đức công vụ cho đội ngũ này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ tầm quan trọng và nội dung của việc nâng cao đạo đức công
vụ cho công chức cấp huyện ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng đạo đức công vụ của công chức cấp huyện ở tỉnh
Kiên Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao đạo đức công vụ cho

công chức cấp huyện ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.


6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đạo đức công vụ của công chức cấp
huyện, bao gồm những công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở cấp huyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề đạo đức công vụ của công
chức cấp huyện trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm triết học và đạo đức học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời kế
thừa các thành tựu của một số cơng trình khoa học đã được cơng bố có liên
quan trực tiếp đến nội dung mà đề tài luận văn đề cập.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; kết hợp giữa phương pháp lịch sử và
logic, phân tích và tổng hợp. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương pháp so
sánh, phân tích, thống kê... để thực hiện mục đích và nhiệm vụ đặt ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Làm rõ thực trạng đạo đức công vụ của công chức cấp huyện ở tỉnh
Kiên Giang hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả đạt được, luận văn góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao đạo
đức cơng vụ cho công chức cấp huyện ở Kiên Giang, đáp ứng yêu cầu đổi

mới đất nước trong giai đoạn hiện nay.


7
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
công chức và đạo đức công vụ.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 02 chương, 05 tiết.


8
Chương 1
ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ, NỘI DUNG VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA
VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CHO CÔNG CHỨC
CẤP HUYỆN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. CÔNG CHỨC, CÔNG CHỨC CẤP HUYỆN; ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1.1. Công chức
Trên thế giới, chế độ công chức đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm.
Nội hàm khái niệm cơng chức khơng ngừng được bổ sung, hồn thiện theo
hướng ngày càng phù hợp với đòi hỏi khách quan của công cuộc xây dựng
nền công vụ hiện đại và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Song, đây là khái
niệm mang tính lịch sử, cách hiểu và diễn đạt khái niệm này không phải khi
nào cũng thống nhất. Quan niệm “công chức” phụ thuộc vào thể chế chính trị
và trong từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia. Cho nên, khơng có một
định nghĩa chung về công chức cho tất cả các nước trên thế giới.
Khái niệm công chức bao giờ cũng song hành và gắn liền với sự hình
thành, phát sinh, phát triển của nền công vụ. Năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của nền cơng vụ được quyết định bởi trình độ, năng lực của công chức.

Công chức được hiểu một cách chung nhất là những người thừa hành quyền
lực nhà nước trong thực thi cơng vụ.
Ngày 20/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL về
thực hiện Quy chế công chức. Tại Điều 1 bản Sắc lệnh này chỉ rõ, “những
cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ
thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngồi nước đều là
công chức, theo quy chế này, trừ trường hợp riêng biệt do Chính phủ định”
[88, tr.2]. Như vậy, theo quan niệm trên, chúng ta có thể hiểu, cơng chức là
cơng dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ; do chính quyền nhân dân tuyển


9
dụng; giữ chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, cịn những người
làm việc trong các cơ quan nhà nước khác khơng được gọi là cơng chức. Có thể
nói, quan niệm như trên về cơng chức đã đặt nền tảng pháp lý cho việc xây dựng
chế độ công vụ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng của công chức.
Trong những năm 60 - 90 của thế kỷ XX, đặc biệt là tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI (1986), với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Đảng ta đã
chỉ rõ: “Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn
từ những khuyết điểm trong tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ” [10, tr.17].
Ngày 25/5/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 169/HĐBT
về công chức nhà nước. Đây là một dấu mốc hết sức quan trọng để tiến tới
xây dựng chế độ công chức trong thời kỳ đổi mới. Đến năm 1998, Pháp lệnh
Cán bộ, công chức ra đời, trong đó đã đưa ra khái niệm về cán bộ, cơng chức.
Tiếp đó, Pháp lệnh Cán bộ, cơng chức sửa đổi, bổ sung vào năm 2003, và một
số nghị định, (Nghị định số 117/2003/NĐ - CP, ngày 10/10/2003; Nghị định
số 09/2007/NĐ - CP ngày 15/01/2007). Từ 01/01/2010, thuật ngữ cơng chức ở
Việt Nam nhằm chỉ nhóm người làm việc cho Nhà nước được quy định tại Điều
4, Khoản 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008. Cụ thể:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào

ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Cơng an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo,
quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn
vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp cơng lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.


10
Khác với các nước, định nghĩa công chức ở Việt Nam bao gồm cả
những người làm việc trong cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn phòng
Chủ tịch nước; Văn phịng Quốc hội; cơ quan các tổ chức chính trị - xã hội;
trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; trong các
đơn vị sự nghiệp cơng lập... Qua tìm hiểu thuật ngữ cơng chức, mặc dù cịn có
nhiều cách hiểu chưa thống nhất, nhưng chung quy lại, điểm thống nhất cơ
bản trong các quan niệm trên là coi: Công chức là những người thực thi công
vụ; là những người làm công cho Nhà nước, được Nhà nước trả lương để
thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các mặt, các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Mục tiêu hoạt động công vụ nhằm phục vụ lợi ích cơng, phục vụ
nhân dân do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành. Như đã đề cập ở
trên, trong luận văn này, tác giả nhấn mạnh đến cơng chức hành chính Nhà
nước hoạt động trong nền cơng vụ.
Hoạt động cơng vụ chỉ có thể được tiến hành thơng qua vai trị, bổn
phận, thẩm quyền của những con người làm việc trong nền công vụ, họ được

gọi là cơng chức. Như vậy, có thể nói, công chức là một bộ phận quan trọng
của đội ngũ cán bộ nói chung, đảm nhận chức năng quản lý hành chính nhà
nước. Họ là những người trong biên chế nhà nước, được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc
được giao, giữ một công vụ thường xuyên, làm việc trong các cơ quan hành
chính nhà nước các cấp.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra kết luận, cơng chức là khái niệm
chỉ những người được giao giữ, thực thi một cơng vụ thường xun trong bộ
máy hành chính nhà nước, thuộc biên chế nhà nước, được phân loại theo
trình độ chun mơn, được xếp vào một ngạch hành chính và được hưởng
lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức cấp huyện là những cơng chức như đã trình bày ở trên
nhưng công tác ở quận, huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh.


11
1.1.2. Đạo đức cơng vụ
Đạo đức cơng vụ là gì? Để trả lời câu hỏi này thật không đơn giản. Trên
thực tế cũng chưa có một định nghĩa nào được coi là đầy đủ nhất về nó mà
vẫn tùy từng góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đưa ra những định nghĩa
khác nhau. Dù không đơn giản chỉ là sự ghép lại của hai khái niệm “đạo đức”
và “công vụ”, nhưng để tìm hiểu về vấn đề “đạo đức công vụ” lại phải bắt đầu
từ hai khái niệm công cụ trên.
Khái niệm “Đạo đức”:
Trong triết học Trung Hoa cổ đại, phạm trù “đạo đức” bắt nguồn từ
phạm trù “đạo”. Ban đầu “đạo” có nghĩa là “con đường”, “đường đi”. Trải qua
quá trình phát triển, “đạo” đã trở thành một trong những phạm trù quan trọng
nhất khi được dùng để chỉ “con đường” của tự nhiên, tính quy luật của tự
nhiên. Đồng thời, trong đời sống “đạo” cịn có ý nghĩa là “đường sống của
con người” [80, tr.156], là “phép tắc đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và

phải tuân thủ giữ gìn” [25, tr.595] và trở thành khái niệm “đạo đức”. Với
nguồn gốc như vậy, ngay từ khi mới ra đời, đạo đức đã mang ý nghĩa là cách
thức, là lối sống của các cá nhân trong xã hội buộc mọi người phải làm theo.
Bất cứ xã hội nào cũng có đạo đức phù hợp với nó. Đạo đức sinh ra từ những
nhu cầu của thực tế đời sống xã hội và phát triển của con người.
Đạo đức được đề cập dưới nhiều góc độ. Ở đây chú ý tới các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đạo đức là “một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế
định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội không trừ lĩnh vực nào” [80, tr.156]. Nó xuất
hiện do nhu cầu tồn tại của xã hội lồi người và hình thành nên hành vi đạo
đức. So với các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức là một trong những hình
thái xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người; bao gồm những chuẩn mực
hành vi xã hội của con người theo hướng thiện, tránh hướng ác [85, tr.86]. Vì
là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội về mặt đạo đức nên


12
trong những chế độ xã hội khác nhau, quan niệm về đạo đức và hành vi đạo
đức cũng khơng hồn toàn giống nhau. Hơn nữa, đạo đức và hành vi đạo đức
bao giờ cũng gắn với những chủ thể nhất định. Bởi vì đạo đức là một hiện
tượng lịch sử và xét cho cùng đó là sự phản ánh các quan hệ xã hội, do vậy,
trong quan niệm và hành vi đạo đức không thể tránh khỏi sự ảnh hưởng bởi
yếu tố chủ quan của chủ thể đạo đức. Vì thế, trong mỗi xã hội, mỗi nhóm xã
hội, mỗi cá nhân có thể lý giải cái thiện (đạo đức), cái ác (vô đạo đức) theo
những cách khác nhau, tùy theo quan niệm sống và lợi ích của mình. Nhưng
điều đó khơng có nghĩa mỗi chủ thể có thể tùy tiện đặt ra cho mình đạo đức,
hành vi đạo đức riêng. Vì trên tất cả, về cơ bản do có chung nguồn gốc nên
“đạo đức có mẫu số chung được gọi là đạo đức nhân loại (làm người)” [22,
tr.15]. Hàng vạn năm tồn tại của xã hội loài người (với tư cách là chủ thể lớn
nhất) đã tạo nên những giá trị đạo đức có tính phổ biến, của chung tất cả mọi

người như công bằng, dũng cảm, vị tha, nhân từ… Đạo đức được hình thành
từ những quan hệ xã hội, mà suy cho cùng là do hoạt động xã hội, trong đó
lao động sản xuất của con người giữ vai trị to lớn. Vì thế, đạo đức là một
“tiểu” hệ thống hợp thành hệ thống giá trị xã hội nói chung.
Thứ hai, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội dùng để điều chỉnh
hành vi con người sao cho phù hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng
xã hội. Phương thức điều chỉnh hành vi con người của đạo đức khác với các
hình thái ý thức xã hội khác. Chẳng hạn, pháp luật điều chỉnh hành vi bằng
văn bản quy phạm pháp luật, bằng sức mạnh cưỡng chế. Trong khi đó, các
quan hệ đạo đức thường chỉ được điều tiết bằng hai yếu tố: dư luận (khách
quan) và lương tâm (chủ quan). Mỗi hành vi đạo đức có thể khơng bị pháp
luật trừng phạt nhưng bị dư luận và lương tâm lên án (nhưng khơng phải vì
thế mà sức mạnh điều tiết của đạo đức lại kém hơn pháp luật). Đây chính là
vai trị nổi bật của đạo đức trong việc điều chỉnh hành vi của các cá nhân
trong xã hội, hướng hành vi của họ đến các hành vi đạo đức [22, tr.86-87].


13
Thứ ba, đạo đức với tư cách là một chuẩn mực xã hội. Đây là loại
chuẩn mực được phần lớn mọi người thừa nhận, nhưng đa số lại không được
ghi nhận bằng văn bản vì đạo đức là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được dư
luận xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau
và đối với xã hội” [86, tr.280]. Đó là phép tắc về quan hệ giữa người với
người, giữa cá nhân với tập thể, xã hội. Đạo đức hình thành từ trong các quan
hệ xã hội, suy cho cùng là do hoạt động xã hội, trong đó lao động xã hội của
con người giữ vai trị quan trọng. Vì thế, ngay từ đầu đạo đức đã là một trong
các yếu tố hợp thành hệ thống giá trị xã hội.
Chuẩn mực đạo đức linh hoạt hơn luật pháp chứ không cứng nhắc như
luật pháp bởi sự tác động của các chuẩn mực đạo đức bao giờ cũng thông qua
cơ chế tâm lý bên trong của con người. Điều này cho thấy vai trị địn bẩy tinh

thần cho q trình phát triển xã hội của đạo đức. Trong lĩnh vực nhận thức
đạo đức, thái độ con người với thế giới và bản thân mình thể hiện qua cách
đánh giá đạo đức, tập tục và quan điểm đối với cái ác và cái thiện. Sống trong
xã hội, mỗi cá nhân đều chịu sự chi phối nhất định của một đạo đức “chuẩn”
nào đó.
Khái niệm “Cơng vụ”:
Cơng vụ là khái niệm mang tính lịch sử được sử dụng rộng rãi trong
khoa học chính trị, nhất là trong hoạt động của nhà nước. Song, cho đến nay,
việc hiểu và diễn đạt khái niệm này trong các tài liệu cịn rất khác nhau. Có ý
kiến cho rằng, “công vụ chỉ những công việc công do nhà nước phải đảm
nhận thực hiện hoặc có trách nhiệm thực hiện” [4, tr.53]. Cách hiểu này mới
chỉ đề cập tới chủ thể hoạt động công vụ mà chưa đề cập cụ thể đến chức
năng, nhiệm vụ của hoạt động công vụ, cũng như tính đặc thù của hoạt động
cơng vụ so với các hoạt động khác.
Khái niệm cơng vụ có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau:
Chính trị, pháp lý, hành chính, đạo đức...


14
Từ góc độ chính trị, cơng vụ bao giờ và khi nào cũng nhằm phục vụ
chính trị. Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, kể từ khi xã hội
lồi người có giai cấp và nhà nước, nhân loại đã trải qua nhiều chế độ công vụ
khác nhau. Công vụ luôn được nảy sinh trên một cơ sở kinh tế - xã hội nhất
định, do cơ sở kinh tế - xã hội ấy quy định, bảo vệ và phản ánh cơ sở kinh tế xã hội sinh ra nó. Cho nên, xét đến cùng, cơng vụ bao giờ cũng phục vụ lợi
ích của một nhà nước, một chế độ chính trị và một giai cấp thống trị nhất
định, nó ln mang bản chất của giai cấp thống trị.
Từ góc độ hành chính, cơng vụ là quy chế, là nguyên tắc hoạt động của
cơ quan nhà nước nhằm thực hiện bổn phận quản lý xã hội trên tất cả các mặt,
các lĩnh vực của đời sống nhằm đảm bảo kỷ cương xã hội, thực hiện các quyền
và lợi ích hợp hiến, hợp pháp của nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân.

Từ góc độ đạo đức, cơng vụ là bổn phận của nền hành chính phục vụ
nhân dân, có trách nhiệm với dân. Cơng vụ hình thành, tồn tại và phát triển
nhờ sự đóng thuế của nhân dân, nó được xây dựng trên một cơ sở kinh tế - xã
hội và phản ánh cơ cấu kinh tế - xã hội sinh ra nó. Đồng thời, cơng vụ xác lập
và điều chỉnh các quan hệ giữa nhà nước với nhân dân, nhà nước và công
chức - người đảm nhận chức vụ phục vụ nhà nước mà nghề nghiệp của họ là
thực hiện các hoạt động hành chính nhà nước hoặc các chức năng khác được
nhà nước trao cho và thay mặt nhà nước để thực hiện quyền lực nhà nước quyền lực cơng.
Trong cuốn Từ điển Hành chính cơng, khái niệm cơng vụ được trình
bày như sau: “Cơng vụ bao gồm các cơ quan khác nhau của Chính phủ, như
các bộ, ngành, các tổ chức doanh nghiệp, các tập đồn và doanh nghiệp của
Chính phủ là các cơ quan chịu trách nhiệm về việc tạo điều kiện và thực thi
pháp luật, chính sách cơng và các quyết định của Chính phủ" [81, tr.20]. Cách
hiểu như trên theo phương diện bộ máy các cơ quan, tổ chức của ngành hành
pháp, trong đó có tính đến các doanh nghiệp nhà nước. Cách hiểu này chưa đề


15
cập đến công vụ như một chức năng phải thực thi của bộ máy đó để đảm bảo
vai trị quản lý và phục vụ nhân dân.
Trong cuốn Mấy vấn đề cơng vụ và cơng chức Cộng hồ Pháp có đoạn viết:
Cơng vụ bao gồm tồn bộ những người được nhà nước hoặc cộng
đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào một công việc
thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản, kể cả các
bệnh viện và được thực thụ vào một trong những ngạch của nền
hành chính cơng. Những người thuộc hệ thống cơng vụ này mang
đầy đủ tư cách của một công chức [78, tr.4].
Cách diễn đạt này xác định rõ những người thực hiện công vụ là những
người được nhà nước hay cộng đồng lãnh thổ bổ nhiệm vào một công việc
thường xuyên trong một công sở hay một công sở tự quản; những người này

được bổ nhiệm vào một trong những ngạch của nền hành chính cơng; họ là
cơng chức và chỉ có họ mới là người thực thi cơng vụ.
Trong cuốn Thuật ngữ Hành chính, các tác giả viết:
Cơng vụ là thuật ngữ được sử dụng để chỉ một dạng hoạt động
mang tính quyền lực nhà nước (gắn với nhà nước hoặc nhân danh
nhà nước) do các công chức, viên chức nhà nước tiến hành theo quy
định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước, phục vụ lợi ích nhà nước và xã hội [87, tr.72].
Chúng tôi đồng ý với quan niệm này.
Khái niệm công vụ gắn chặt với nền hành chính nhà nước. Nó là một
loại lao động đặc thù thể hiện bổn phận quản lý nhà nước; thực thi pháp luật,
đưa pháp luật vào đời sống; quản lý và sử dụng hiệu quả công sản và ngân
sách nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. “Công vụ là một loại hoạt
động mang tính quyền lực và pháp lý được thực thi bởi đội ngũ công chức
nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước trong quá trình quản lý các mặt
của đời sống xã hội” [24, tr.247]. Nói đến cơng vụ là nói đến hoạt động của


16
nhà nước, một lĩnh vực đặc thù - mang tính quyền lực công, được thực thi bởi
một đội ngũ công chức hành chính nhằm thực hiện các chính sách của nhà
nước trong quá trình quản lý các mặt, các lĩnh vực của xã hội. Đề cập đến
công vụ là đề cập đến trách nhiệm của công chức thực hiện quyền và nghĩa vụ
nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Về mặt pháp lý, trách nhiệm
thường được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ.
Do đó, cơng vụ chính là trách nhiệm của chủ thể nhân danh quyền lực
công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Với ý nghĩa
quan trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền cơng
vụ có hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ. Các quốc gia
có thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau thì quan niệm về

hoạt động cơng vụ cũng có những điểm khác nhau. Tuy nhiên, xét đến cùng,
bản chất và mục tiêu cuối cùng của hoạt động công vụ đều giống nhau. Công
vụ là lao động đặc thù của công chức trong bộ máy nhà nước, nhân danh
quyền lực công để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thi hành pháp luật,
đưa pháp luật vào cuộc sống và phục vụ nhân dân.
Như vậy, có nhiều quan niệm, với các cấp độ, mức độ khác nhau về
công vụ, nhưng điểm chung nhất của các quan niệm đó là cho rằng tính chất
phục vụ xã hội của công vụ và hoạt động công vụ đều gắn với nhà nước,
quyền lực công. Công vụ thể hiện ý chí và đáp ứng lợi ích của nhân dân và
của nhà nước. Xuất phát từ chỗ công vụ là phương tiện thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của nhà nước, nó là định chế tổ chức - pháp lý trong hệ
thống tổ chức quyền lực nhà nước, và phải phục vụ ý chí của nhà nước và của
nhân dân. Công chức khi thực thi công vụ phải phục vụ nhân dân, chịu sự
kiểm tra của nhân dân và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Từ những
phân tích ở trên về khái niệm cơng vụ, có thể hiểu hoạt động công vụ là hoạt
động do công chức nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp
luật và được pháp luật bảo vệ nhằm phục vụ lợi ích của công dân và xã hội.


17
Ở Việt Nam, do tính đặc thù, các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ
chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa các cơ quan này ln có sự liên thơng
trong sử dụng nguồn nhân lực. Do đó, cơng vụ khơng chỉ thuần túy là hoạt
động của công chức nhân danh quyền lực cơng, mà cịn được hiểu là các hoạt
động trong phạm vi rộng hơn. Để khẳng định tính đặc thù này, Điều 2 Luật
Cán bộ, công chức năm 2008 quy định hoạt động công vụ "là việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của Luật này và các
quy định khác có liên quan” [66, tr.9-10]. Công chức khi tham gia hoạt động
công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền

hạn được giao. Để đạt được điều đó, bên cạnh năng lực, trình độ, người cơng
chức cịn phải hội đủ các phẩm chất đạo đức, tài năng và thường xuyên rèn
luyện để có phẩm chất đạo đức tốt, trách nhiệm cao trong thực thi công vụ.
Việt Nam đang trong q trình xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, việc làm rõ nội hàm của khái
niệm này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng nền hành chính hiệu
quả, chun nghiệp, trong sạch và có đạo đức phục vụ nhân dân. Chương
trình sáng kiến phịng chống tham nhũng ở Việt Nam năm 2011 khẳng định:
Nền hành chính phục vụ là nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, trong đó đội ngũ cán bộ, cơng
chức có đủ phẩm chất và năng lực, các cơ quan nhà nước hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế, chính
trị, xã hội của đất nước. Nền hành chính phục vụ đóng vai trị phục
vụ tốt nhất cho nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân chứ không
phải để “hành dân”. Nói cách khác, nhu cầu có một nền hành chính
cơng với những cơng chức chun nghiệp và tích cực phục vụ quần
chúng nhân dân ngày càng trở nên quan trọng, bởi Việt Nam đang
chuyển sang một bước phát triển mới về kinh tế - chuyển từ quốc
gia có thu nhập thấp thành quốc gia có thu nhập trung bình [84].


18
Khái niệm “Đạo đức cơng vụ” [8, tr.50-58]:
Trong q trình phát triển của xã hội lồi người, con người ln phải
gián tiếp hay trực tiếp quan hệ với nhau để sinh tồn. Cùng với quá trình hình
thành và phát triển của xã hội lồi người cịn có vơ số các quan hệ xã hội
khác, trong đó quan hệ đạo đức là một quan hệ cơ bản. Những thời đại khác
nhau, những cộng đồng người khác nhau ln có những quan niệm khác nhau
về đạo đức, do chúng dựa trên những tồn tại xã hội khác nhau.
Với tư cách một hiện tượng tinh thần, đạo đức là thành tố cấu thành văn

minh mà ở đó, có các nội dung cơ bản khác, như sự hoàn thành nghĩa vụ, nhu
cầu về vật chất, lý tưởng xã hội, giá trị tinh thần, tự do ý chí, tơn trọng quyền
và phẩm giá con người; cơng bằng và bình đẳng, chống tội ác và bạo lực.
Thời đại chúng ta đang sống trùng hợp với sự chuyển biến toàn diện của nền
văn minh thế giới. Một mặt, lồi người càng hùng mạnh hơn thì tương lai của
họ càng trở nên bất định và nguy hiểm hơn. Mặt khác, dường như có lúc
chúng ta có cảm giác rằng, loài người càng đầy đủ hơn về của cải vật chất thì
lại càng trở nên bất lực hơn về phương diện đạo đức. Điều mà như C.Mác đã
từng chỉ ra là “Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái
giá của sự suy đồi về mặt tinh thần” [42, tr.10].
Trong thời gian gần đây, khái niệm đạo đức công vụ được đặt ra và
nhắc đến nhiều trên các phương tiện truyền thông. Ở các nền hành chính cơng
vụ, đạo đức cơng vụ cũng rất được quan tâm, nhưng nội hàm của nó là gì, đâu
là chuẩn mực của nó thì cịn nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau. Q trình
hình thành đạo đức cơng vụ cũng giống như quá trình hình thành và phát triển
của đạo đức nói chung, nó là sản phẩm của q trình hình thành và phát triển
của các nền cơng vụ.
Ở Việt Nam, đạo đức công vụ được quy định trong các văn bản pháp
luật của Nhà nước Việt Nam theo hướng ngày càng phù hợp với tình hình


19
mới. Xu thế chung của các nước trên thế giới là pháp luật hố các giá trị cốt
lõi của cơng vụ và pháp luật hoá các quy tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức công
chức trong thực thi công vụ. Bước vào đầu thế kỷ XXI, “đạo đức công chức
được đặt ra như một vấn đề trung tâm của nền công vụ ở tất cả các nước trên
thế giới” [21, tr.3], Việt Nam khơng là ngoại lệ. Do đó, tn thủ đạo đức cơng
chức trong thực thi cơng vụ góp phần không nhỏ vào nỗ lực cải cách nền cách
hành chính quốc gia. Đồng thời, việc nâng cao các giá trị đạo đức công vụ
cùng với các sáng kiến cải cách hành chính sẽ là động lực to lớn thúc đẩy

kinh tế - xã hội phát triển.
Chúng ta có thể tìm thấy các quy phạm pháp luật về đạo đức, phẩm
chất đạo đức của công chức trong các văn bản pháp luật: Luật Cán bộ, công
chức; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Pháp
lệnh chống tham nhũng. Ngồi ra, có nhiều ngành đã có những quy định cụ
thể ở lĩnh vực chuyên môn của mình về đạo đức nghề nghiệp, như đạo đức
nghề y với các quy định về y đức; đạo đức nhà báo, đạo đức nghề luật, đạo
đức người công an nhân dân…
Công chức là một bộ phận trong cộng đồng xã hội; do đó, đạo đức của
họ chứa đựng các yếu tố khác nhau, như chuẩn mực đạo đức dân tộc mà họ
xuất thân, nơi mà họ sinh sống, quan niệm, hành vi đạo đức xã hội như mọi
thành viên xã hội khác, đạo đức của họ trong hoạt động công vụ. Vì vậy, đạo
đức cơng vụ chỉ là một bộ phận đạo đức của người công chức. Đạo đức công
vụ chỉ bao gồm đạo đức công chức trong thực thi công vụ.
Đạo đức công vụ khác với đạo đức thông thường nói chung ở chỗ:
Thứ nhất, chủ thể sáng tạo các quy tắc đạo đức công vụ là những cơ
quan nhà nước, tổ chức, những nhà hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước,
hoặc được hình thành dần trong đời sống nhà nước bởi cơng chức và xã hội;
do đó, một phần đạo đức cơng vụ được thể chế hóa trong các văn bản của cơ
quan nhà nước.


20
Thứ hai, việc thực hiện các quy tắc đạo đức cơng vụ vừa mang tính tự
nguyện, tự giác, vừa mang tính bắt buộc. Người vi phạm quy tắc đạo đức
cơng vụ có thể bị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan đó
áp dụng các biện pháp chế tài để xử lý kỷ luật. Việc áp dụng các biện pháp
chế tài này là sự đánh giá chính thống của xã hội đối với người vi phạm các
quy tắc đạo đức cơng vụ. Ngồi ra, các quy tắc đạo đức cơng vụ cịn mang
tính xã hội; do đó, khi không thực hiện các quy tắc đạo đức công vụ, người

cơng chức cịn bị cộng đồng, cơ quan nhà nước, dư luận lên án, phê phán.
Trước hết, đạo đức cơng vụ chính là những phẩm chất mà người cơng
chức phải có trong q trình thực thi cơng vụ. Những phẩm chất đó được biểu
hiện ở mục tiêu, lý tưởng, đạo đức, lối sống, tinh thần, thái độ đối với xã hội,
đối với con người.
Ở Việt Nam hiện nay, đạo đức cơng vụ thể hiện qua phẩm chất chính trị
của họ, thể hiện ở mức độ nhận thức, ý thức chấp hành và kỹ năng vận dụng
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước vào
công việc cũng như vào đời sống xã hội của công chức. Cụ thể là nhận thức
đúng đắn về đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những phẩm chất đó là: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với
nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ độc lập, tự do, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước; tin tưởng và ra sức đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới hiện nay; luôn vững vàng, kiên
định trên cơ sở lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đạo đức công vụ phản ánh các mối quan hệ giữa công chức với Nhà
nước và xã hội, giữa người với người trong hoạt động công vụ, trước hết là
quan hệ giữa công chức với nhau, quan hệ giữa họ với cá nhân, tổ chức, cơ
quan có cơng việc cần được giải quyết. Do đó, các cơ quan nhà nước có trách
nhiệm đánh giá một cách chính thống về đạo đức cơng chức trong thực thi


21
cơng vụ; đồng thời xã hội cũng có sự đánh giá qua hành vi, thái độ của công
chức trong việc phục vụ nhân dân.
Ngồi ra đạo đức cơng vụ cịn thể hiện thông qua đạo đức cá nhân, đạo
đức với cơ quan, đạo đức trong mối quan hệ với đồng nghiệp, với cấp trên,
cấp dưới; đạo đức trong mối quan hệ với nhân dân và xã hội; đạo đức trong
thực hiện mục tiêu, lý tưởng của bản thân.

Đối với đạo đức cá nhân: Người cơng chức phải có ngun tắc và phẩm
chất đạo đức tốt, là tấm gương về lòng trung thực, liêm chính, lời nói đi đơi
với việc làm; thực hiện nhiệm vụ một cách trung thực và không vụ lợi cá
nhân; ln đặt lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân lên trên lợi ích cá
nhân, hết lịng phục vụ nhân dân. Có thái độ cư xử đúng mực và phải ln
hồn thiện mình.
Đạo đức với cơ quan: Người cơng chức phải có ý thức tổ chức kỷ luật
tốt, chấp hành quy chế, nội quy của cơ quan, giữ gìn sự đồn kết nhất trí trong
cơ quan. Đồng thời, họ phải luôn trung thực, công bằng, không thiên vị; thực
hiện nhiệm vụ bằng khả năng cao nhất với tinh thần tận tụy, nhiệt tình; phải
ln đúng giờ và tận dụng tối đa thời gian cho công việc; bảo vệ và sử dụng
an toàn, hiệu quả, tiết kiệm tài sản công.
Đạo đức trong thực hiện mục tiêu, lý tưởng của bản thân: Người cơng
chức phải có mục tiêu, lý tưởng cao đẹp. Sống, làm việc, học tập để phục vụ cho
những mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của Nhà nước và của dân tộc. Ln cố gắng
hết mình phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn
minh. Có lý tưởng nghề nghiệp, thái độ, niềm tin, tình cảm đối với cơng việc;
ln lấy hiệu quả công việc làm niềm vui, lẽ sống và là động cơ để phấn đấu.
Với những biểu hiện đa dạng và phong phú như vậy, đạo đức công vụ
phải được xem xét ở tất cả các mối quan hệ phát sinh trong q trình thực thi
cơng vụ của cơng chức và đó cũng là những tiêu chí căn bản để đánh giá đạo
đức công vụ.


22
Tiêu chí đánh giá đạo đức cơng vụ của cơng chức:
Thứ nhất, chấp hành pháp luật, quy chế làm việc trong thi hành cơng vụ
là tiêu chí đầu tiên để đánh giá đạo đức cơng vụ của cơng chức, vì chính cơng
chức là những người thực hiện, áp dụng pháp luật để đưa ra các quyết định
quản lý hành chính khác nhau. Vì vậy, có thể nói, chấp hành pháp luật là

thước đo đạo đức cơng vụ, là tiêu chí hàng đầu và quan trọng nhất để đánh giá
đạo đức công vụ của công chức.
Thứ hai, hiệu quả thực thi công vụ của công chức. Công chức thực thi
công vụ được Nhà nước trả lương từ ngân sách nhà nước, thực chất là từ tiền
thuế của nhân dân; do đó, hoạt động công vụ của họ phải mang lại hiệu quả
nhất định nhằm góp phần tạo ra những giá trị xã hội, hoặc đáp ứng các yêu
cầu hợp pháp của nhân dân, cơ quan, tổ chức. Có thể nói, hiệu quả hoạt động
công vụ cũng được coi là một trong những tiêu chí để đánh giá đạo đức cơng
vụ của công chức.
Thứ ba, quan hệ của công chức với đồng nghiệp. Trong hoạt động cơng
vụ hình thành nên những mối quan hệ giữa các cơng chức, từ đó hình thành
tình cảm, thái độ của họ với nhau trong công vụ. Cơng chức có đạo đức cơng
vụ tốt là người phải biết thiết lập quan hệ với đồng nghiệp trong công vụ, phải
biết chia sẻ kinh nghiệm, hợp tác; họ không chỉ phải hồn thành nghĩa vụ cơng
vụ, mà cịn phải biết giúp đỡ đồng nghiệp hồn thành nhiệm vụ, cơng vụ.
Thứ tư, quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa cấp dưới với cấp trên.
Chỉ trong hoạt động công vụ mới hình thành quan hệ giữa cấp trên và cấp
dưới. Người lãnh đạo có đạo đức cơng vụ phải là người biết hướng dẫn cấp
dưới trong công vụ, tạo mọi điều kiện để cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ, công
vụ; phải biết nêu gương trong công vụ và trong sinh hoạt, tôn trọng ý kiến cấp
dưới, biết nghe ý kiến đúng của cấp dưới, biết đáp ứng những yêu cầu, địi hỏi
hợp pháp, chính đáng của cấp dưới; quan tâm thường xuyên tới tư cách, động
cơ và lợi ích của cấp dưới.


23
Cấp dưới phải tôn trọng người lãnh đạo, trung thành với sự nghiệp,
khơng ngừng phấn đấu vì sự nghiệp chung và chấp hành mọi quyết định của
người lãnh đạo trong thực thi công vụ.
Thứ năm, quan hệ giữa công chức với nhân dân. Mục tiêu của hoạt

động công vụ là phục vụ Nhà nước, xã hội và công dân; do đó, trong q trình
hoạt động cơng vụ, người cơng chức phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý
kiến của dân, phải đặt mình vào vị trí của người dân để giải quyết các công
việc của dân. Đồng thời, công chức phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân
với thái độ lịch sự và công bằng, đáng tin cậy; giải quyết công việc một cách
đúng đắn, hiệu quả, không vụ lợi cá nhân, ln liêm chính, quan tâm thiết
thực đến đời sống nhân dân, thật sự gần gũi nhân dân, hiểu biết nguyện vọng
chính đáng của nhân dân và khiêm tốn học hỏi nhân dân. Sẵn sàng nghe quần
chúng phê bình, góp ý, thường xun tự phê bình, hồ mình vào quần chúng.
Chương trình sáng kiến phịng chống tham nhũng ở Việt Nam cho rằng:
“Đạo đức công chức là những giá trị đạo đức và chuẩn mực pháp lý được áp
dụng cho cán bộ, công chức nhà nước và những người có chức vụ, quyền hạn
khác khi thi hành nhiệm vụ, công vụ” [84]. Đạo đức công vụ thể hiện ở cách
cơng chức xử sự và đóng góp để xã hội tốt đẹp hơn, bao gồm dịch vụ công tốt
và từng cá nhân công chức cũng phải thường xuyên trau dồi, bồi dưỡng về
mọi mặt để tiến bộ hơn. Đạo đức công vụ là những giá trị cốt lõi, chuẩn mực
giá trị đạo đức và hành vi ứng xử thể hiện vai trị cơng bộc của cơng chức
trong quan hệ với dân. Nói cách khác, đó là sự điều chỉnh và xem xét về mặt
đạo đức các quyết định và hành động của cơng chức trong q trình thực thi
cơng vụ.
Thực tế ở các nước phát triển cho thấy, những nguyên tắc đạo đức nghề
nghiệp có ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý nhà nước trên từng lĩnh vực của
đời sống. Trong quá trình chuyển thành một lĩnh vực nghề nghiệp đặc biệt với
sứ mệnh quan trọng của nền công vụ là cung cấp dịch vụ công cho nhân dân,


24
đạo đức nghề nghiệp của loại nghề này - đạo đức công vụ là vấn đề rất quan
trọng. Khi công chức tham gia vào nền công vụ, họ phải tuân thủ những quy
định nghề nghiệp liên quan đến hành vi, thái độ, cách hành xử… của công

chức trong nền công vụ.
Chúng tôi coi đạo đức công vụ là bộ phận của đạo đức học ứng dụng;
sự nỗ lực và tăng cường đạo đức cơng vụ góp phần làm tăng thêm quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của mỗi công chức trong việc thực thi công vụ. Đạo
đức công vụ thể hiện qua những hoạt động, hành vi cụ thể trong q trình
thực thi cơng vụ của cơng chức. Mỗi cơng chức trong nền công vụ đều phải tự
xác định cho mình sự tơn trọng các quy tắc ứng xử mang tính nghề nghiệp.
Giống như những ngành, lĩnh vực chuyên nghiệp khác, cơng chức đóng vai
trị quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội. Theo mong đợi từ xã hội,
cơng chức phải tham gia vào đời sống chính trị - xã hội ở cấp độ cao nhất của
sự liêm chính. Bởi vì, mục đích cuối cùng của nền cơng vụ là phục vụ nhân
dân, có trách nhiệm với nhân dân.
Ngày nay, đạo đức công vụ của người công chức chỉ có thể được thể
hiện thơng qua những hành vi hoạt động của họ vì sự nghiệp cách mạng
chung, xây dựng một Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ” [18, tr.24]. Cơng chức phải là những
người có đức, có tài. Hồ Chí Minh viết: “có tài mà khơng có đức, ví như một
anh làm kinh tế tài chính rất giỏi, nhưng lại đi đến thụt két, thì chẳng những
khơng làm được gì ích lợi cho xã hội, mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đức mà khơng có tài… cũng khơng lợi gì cho lồi người” [55, tr.172].
Hơn bao giờ hết, đạo đức công vụ thể hiện sự thống nhất như một chỉnh
thể giữa đức và tài. Trong một giới hạn nhất định, đức cũng là tài mà tài cũng
là đức. Đối với công chức nhất thiết phải có kiến thức về khoa học quản lý
nhà nước; có năng lực điều hành và tổng kết thực tiễn; vững về chính trị, tinh
thơng về chính sách và pháp luật, nghiệp vụ hành chính; tơn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:


25
Để giúp cơng việc Chính phủ một cách đắc lực, để nâng cao tinh

thần kháng chiến, anh em viên chức bây giờ phải có 4 đức tính là:
cần, kiệm, liêm, chính. Cần, là anh em viên chức phải tận tâm làm
việc, một người làm bằng hai, ba người. Và phải tôn trọng kỷ luật...;
kiệm, phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được, cũng như các vật
liệu, đồ dùng trong các sở... Có cần, có kiệm (...) mới trở nên liêm,
chính để cho người ngồi kính nể được [50, tr.158].
Cần, kiệm, liêm, chính là những phẩm chất đạo đức cần có của người
thực thi công vụ, những phẩm chất ấy được thể hiện thông qua những hành vi
cụ thể trong hoạt động thực thi công vụ. Hành vi đạo đức công vụ chỉ có thể
được hình thành và phát triển trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày phục vụ
nhân dân, phụng sự sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Đạo đức công vụ cịn có nghĩa là Chính phủ, cơng chức phải lấy tinh
thần công bộc của dân, đầy tớ của dân mà đối xử với dân. Cách hiểu này có
thể coi là một đặc trưng tiêu biểu của đạo đức công vụ. Tinh thần đầy tớ của
dân, một mặt, có ý nghĩa là tôn trọng quyền dân chủ của nhân dân; mặt khác,
có ý nghĩa người được giao trách nhiệm đại diện cho nhân dân phải tận tâm,
tận lực với công việc, với dân, phụng sự nhân dân hết mình như giữ đạo hiếu
với cha mẹ vậy. Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là cơng bộc của dân, nghĩa là
để gánh việc chung cho dân, chứ không phải là để đè đầu dân như trong thời
kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật” [50, tr.56].
Qua phân tích như trên, vậy chúng ta hiểu đạo đức cơng vụ là gì? Cho
đến nay vẫn chưa có định nghĩa trọn vẹn về vấn đề này. Nhưng xét về ngun
tắc, có thể hiểu đạo đức cơng vụ là đạo đức thực thi cơng vụ của cơng chức.
Đó Là hệ thống nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức dùng để điều chỉnh mối quan
hệ giữa đội ngũ cán bộ, công chức với tổ chức, cơng dân trong q trình thực
thi nhiệm vụ cơng, trong giao dịch hành chính. Chúng được thực hiện bởi



×