Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

212 bị cáo, các bị cáo là sinh viên, cán bộ chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ, 48 bị cáo là sinh viên và 10 bị cáo là cán bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.91 KB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN - Nhà nước thực sự
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những nhiệm vụ cơ
bản của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong Nhà
nước pháp quyền, quyền tư pháp là một bộ phận của quyền lực nhà nước,
ln gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp và giữ một vai
trò đặc biệt quan trọng trong cơ chế kiểm sốt quyền lực. Quyền tư pháp được
thực hiện thơng qua hoạt động của các cơ quan tư pháp, mà trung tâm là hoạt
động xét xử của TAND với sứ mệnh là phải bảo vệ được cơng lý và bình đẳng
của các chủ thể trước pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược cải cách tư
pháp ở nước ta đến năm 2020 đã được chỉ ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) là:
"xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
Những năm qua, các cấp Tồ án đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 " Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
" (gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW). Khi xét xử phải bảo đảm cho mọi cơng
dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà
án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa trên cơ sở xem xét
đầy đủ, tồn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị
cáo,... để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn pháp luật quy định.
Chất lượng hoạt động tư pháp nói chung và xét xử nói riêng đã “được
nâng lên một bước, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã



2
hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Bên cạnh đó, hoạt động xét xử vẫn cịn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là:
Chất lượng xét xử chưa ngang tầm với yêu cầu áp dụng pháp luật, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; Chính sách hình sự, chế định
pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm
được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt
động của TAND ở các cấp còn nhiều điểm bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ nghiên
cứu và tham gia hoạt động xét xử cịn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh
chính trị của một bộ phận cán bộ cịn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về
phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn cịn tình trạng oan sai
trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử...
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm trên cả nước nói chung
và tỉnh Phú Thọ nói riêng có nhiều diễn biến phức tạp, tính chất mức độ và
hậu quả của tội phạm ngày càng nghiêm trọng, hành vi phạm tội ngày càng
tinh vi xảo quyệt hơn. Quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các
tội xâm phạm sở hữu của Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ đã đạt
được nhiều kết quả khả quan, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh
trật tự và an toàn xã hội ở địa phương; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật trong xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện ở
tỉnh Phú Thọ đối với các vụ án xâm phạm sở hữu vẫn cịn có những hạn chế nhất
định; nhiều bản án, quyết định có những sai sót bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm
sửa án, huỷ án, nên đã phần nào ảnh hưởng đến uy tín của ngành Toà án, ảnh
hưởng đến nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tình hình đó đang đặt ra
những yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài để không ngừng nâng cao chất lượng
xét xử trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.



3
Từ thực trạng áp dụng pháp luật như trên, bản thân tác giả cũng là một
công chức hiện đang công tác tại Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ,
mong muốn được đóng góp tiếng nói và suy nghĩ của mình vào việc tìm ra
những nguyên nhân dẫn đến những sai sót trong các bản án, quyết định, đề
xuất những giải pháp dưới góc độ lý luận chung góp phần hạn chế những sai
sót về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân cấp huyện
ở tỉnh Phú Thọ đối với các tội xâm phạm sở hữu. Vì vậy, tác giả chọn đề tài:
"Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Toà
án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học
bởi tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn như đã nêu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học. Thời gian quan, có rất nhiều cơng trình nghiên cứu có giá trị đã
được cơng bố có nội dung liên quan đến áp dụng pháp luật trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân. Những cơng trình đó đã
góp phần rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng xét xử của cơ quan
Tòa án, nhất là trong giai đoạn thực hiện cải cách tư pháp theo chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là các cơng trình đã được cơng bố sau:
- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Ngọc Trí: “Trách nhiệm hình sự đối
với các tội xâm phạm sở hữu”, Viện Nhà nước và pháp luật, năm 1999.
- Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Xuân Thân: "Áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt nam hiện nay", năm 2004.
- Luận án tiến sỹ của tác giả Tơ Văn Hịa: "Tính độc lập của Tịa án",
năm 2006.
- Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đức Hiệp: "Áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh Ninh Bình ",

năm 2004.


4
- Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn: "Áp dụng pháp
luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm án hình sự của Tịa án nhân dân tỉnh
Thái Nguyên", năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Hữu Hòa: "Áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử án hình sự của Tịa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh”,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010.
- Bài viết của tác giả Mai Văn Bộ: "Phân biệt tội lừa đảo và tội lạm
dụng tín nhiệm”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11/1994.
- Bài viết của tác giả Trần Văn Bộ: "Phạm tội chưa đạt trong tội cướp
tài sản", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1994.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hiện: "Một số vấn đề thực tiễn xét
xử và vướng mắc trong việc phân biệt giữa các tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản...và phân biệt các tội này với các
vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/1999.
- Bài viết của tác giả Lưu Tiến Dũng: "Bàn về áp dụng pháp luật trong
cơng tác xét xử", Tạp chí Tịa án nhân dân, số 05/2005.
- Bài viết của tác giả Vũ Thành Long: "Về áp dụng tình tiết phạm tội có
tính chất chun nghiệp". Tạp chí Tồ án nhân dân số 20 tháng 10/2006.
- Bài viết của tác giả Nguyễn Đăng Khuê: "Thực tiễn áp dụng điều 47
Bộ luật hình sự và những vướng mắc". Tạp chí Tồ án nhân dân số 22 tháng
11 năm 2008.
Những cơng trình và bài viết trên đã ít nhiều đề cập đến việc áp dụng
pháp luật trong xét xử nói chung và đề xuất những giải pháp khoa học nhằm
bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm án hình sự nói
riêng. Một số tỉnh như Thái Nguyên, Ninh Bình, Bắc Ninh... đã đưa ra một số
giải pháp bảo đảm chất lượng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm án hình

sự. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu độc lập đề
cập đến những đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân cấp


5
huyện ở tỉnh Phú Thọ, đặc biệt là trong hoạt động xét xử đối với tội phạm
xâm phạm sở hữu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích, lý giải cả về lý luận và thực tiễn, Luận văn nghiên
cứu, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về việc áp dụng pháp luật hình sự trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân: khái niệm, đặc điểm,
vai trò, giai đoạn và các yếu tố bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú thọ hiện nay.
- Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm của Tòa
án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ đối với các tội xâm phạm sở hữu trong
thời gian qua: phân tích ưu điểm, hạn chế yếu kém, tìm ra nguyên nhân của
ưu điểm và hạn chế của hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các
tội xâm phạm sở hữu của Toà án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét
xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ đối với các tội
xâm phạm sở hữu, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
luận văn tập trung vào những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan trực
tiếp đến việc áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu

của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ, được quy định ở Chương
XIV Bộ luật hình sự năm 1999.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh Phú Thọ, dựa trên thực tiễn xét xử


6
các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu trong 5 năm gần đây (từ năm 2009 đến
năm 2013).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân, đặc biệt là các quan điểm của Đảng chỉ đạo cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
lịch sử cụ thể; ngồi ra cịn sử dụng phương pháp của các bộ môn khoa học
khác như phương pháp thống kê...
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Hình thành cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu, đáp ứng đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Đây là đóng góp nhằm nâng cao
nhận thức lý luận cho việc thực hiện chức năng xét xử nói chung, xét xử án
hình sự trong đó có các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng của Tịa
án nhân dân.
- Tổng kết thực tiễn rút ra những nhận định, đánh giá có ý nghĩa góp

phần bảo đảm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu tại ngành Tòa án nhân dân ở tỉnh Phú Thọ.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp cụ thể đảm bảo áp dụng pháp luật trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân cấp huyện ở tỉnh
Phú Thọ, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.


7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về áp
dụng pháp luật, nâng cao nhận thức của những người trực tiếp làm công tác
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Toà án nhân dân cấp huyện ở
tỉnh Phú Thọ. Đồng thời làm phong phú thêm cơ sở khoa học về áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu đáp ứng yêu cầu của tiến
trình cải cách Tư pháp.
7.2. Về mặt thực tiễn
Đề tài có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ lý luận của
bản thân để áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn cơng tác; là tài liệu tham khảo
có giá trị nhất định trong việc nghiên cứu giảng dạy Lý luận chung về Nhà
nước và Pháp luật và các cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật của Tòa án
nhân dân. Tạo cơ sở cho việc thống nhất trong nhận thức về áp dụng pháp luật
để giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu đạt hiệu quả. Tịa án nhân dân cấp
tỉnh có thể khai thác những nghiên cứu của Luận văn về giải pháp áp dụng
pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU

1.1.1. Khái quát chung về áp dụng pháp luật
* Khái niệm
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật là hệ thống các
quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện,
kể cả bằng biện pháp cưỡng chế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì trật
tự xã hội có lợi cho giai cấp thống trị.
Các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành cần thực hiện trong
cuộc sống thì chúng mới có ý nghĩa. Mục đích của việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật
do nhà nước đặt ra được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện
một cách chính xác, đầy đủ. Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, ngoài
các yếu tố như sự phù hợp của hệ thống quy phạm pháp luật với các điều
kiện kinh tế, lịch sử, trình độ phát triển của xã hội, nhà nước còn phải quan
tâm đến các hoạt động tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật một cách
nghiêm minh. Bởi lẽ, muốn quản lý đất nước bằng pháp luật đòi hỏi Nhà
nước phải ban hành pháp luật. Nếu pháp luật ban hành nhiều nhưng ít đi vào
cuộc sống, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật không cao chứng tỏ rằng quản
lý nhà nước kém hiệu quả. Vì vậy, xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật
và áp dụng đúng pháp luật là đòi hỏi khách quan của việc quản lý Nhà nước,
tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.



9
Để làm rõ khái niệm áp dụng pháp luật cần làm rõ một số khái niệm có
liên quan, cụ thể như sau:
Thực hiện pháp luật: là hành vi xử sự của con người được tiến hành
phù hợp với yêu cầu của các quy phạm pháp luật. Đó là những hành vi không
trái, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật. Hành vi xử sự của
con người trong hoạt động thực hiện pháp luật có hai tính chất.
- Thứ nhất, nó mang tính xã hội.
- Thứ hai, nó mang tính pháp lý.
Vì vậy, thực hiện pháp luật bao hàm các hành vi (hành động hay không
hành động) của các cá nhân, các tổ chức phù hợp với các quy định của pháp
luật. Khoa học pháp lý gọi đó là những hành vi hợp pháp. Nói khác đi, tất cả
những hoạt động nào của con người, của các tổ chức mà thực hiện phù hợp
với các quy định của pháp luật thì đều được coi là biểu hiện của việc thực
hiện các quy phạm pháp luật.
Thực hiện pháp luật có thể là hành vi của mỗi cá nhân, nhưng cũng có
thể là hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh
tế…"Thực hiện pháp luật là q trình hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp
lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật".
* Các hình thức thực hiện pháp luật
Các quy phạm pháp luật rất đa dạng, phong phú cho nên hình thức thực
hiện pháp luật cũng rất đa dạng, phong phú. Căn cứ vào tính chất của các hoạt
động thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định có bốn hình thức thực
hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
ngăn cấm. Việc các chủ thể pháp luật tự kiềm chế là những xử sự thụ động, tự

ghép mình vào tập thể, vào xã hội, đặt lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể, lợi ích


10
cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích của bộ phận cục bộ. Pháp luật quy
định mọi tổ chức và công dân không được thực hiện những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, không được xâm phạm đến quyền và nghĩa vụ hợp pháp của người
khác. Đó là việc pháp luật cấm. Đồng thời vì lợi ích chung, tuỳ theo tình hình,
hồn cảnh cụ thể mà pháp luật bắt buộc mọi tổ chức và công dân phải làm
một việc nào đó.
- Chấp hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật mà trong
đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình với hành động tích cực.
Hoạt động chấp hành pháp luật là cơ sở pháp lý để đánh giá cơng trạng, thành
tích và danh dự, phẩm giá tốt đẹp của công dân, tổ chức cũng như của cán bộ
công chức nhà nước.
- Sử dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật mà trong đó,
các chủ thể pháp luật sử dụng các quyền năng pháp lý để bảo vệ các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Song nếu các chủ thể khơng sử dụng quyền của
mình thì pháp luật cũng khơng bắt buộc. Nói cách khác, các quyền chủ thể
được pháp luật cho phép thực hiện theo ý chí của chủ thể chứ không bị bắt
buộc phải thực hiện.
- Áp dụng pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà
nước thơng qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ cơng chức có thẩm quyền
tổ chức cho các chủ thể thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình
căn cứ vào những quy định của pháp luật ra các quyết định làm phát sinh,
chấm dứt hay thay đổi những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trường hợp này,
các chủ thể pháp luật thực hiện các quy định của pháp luật có sự can thiệp của
Nhà nước.
Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật nêu trên thì hình thức áp dụng
pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Áp dụng pháp luật vừa là hình thức

thực hiện pháp luật diễn ra trong hoạt động thực hiện quyền hành pháp và
thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước. Đây là hoạt động thực hiện pháp luật


11
của cơ quan nhà nước, được xem như để bảo đảm đặc thù của Nhà nước cho
các quy phạm pháp luật được thực hiện một cách hiệu quả trong đời sống xã
hội. Bởi lẽ, tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật và sử dụng pháp luật là
những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện thì áp dụng
pháp luật lại ln ln phải có sự tham gia của cơ quan Nhà nước thông qua
các cơ quan hoặc nhà chức trách có thẩm quyền.
* Đặc điểm của áp dụng pháp luật
Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống đạt hiệu quả
cao nhất chỉ khi tất cả những quy định của nó đều được thực hiện chính xác,
triệt để. Nhưng nếu chỉ tuân theo các hình thức Tuân theo pháp luật, Thi hành
pháp luật và Sử dụng pháp luật thì sẽ có rất nhiều quy phạm pháp luật khơng
được thực hiện. Lý do có thể là do các chủ thể khơng muốn thực hiện hoặc
không đủ khả năng tự thực hiện nếu thiếu sự tham gia của cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền. Do đó, hoạt động áp dụng pháp luật cần phải được tiến hành
trong những trường hợp sau:
- Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm
pháp luật hoặc cần áp dụng biện pháp cưỡng chế nhà nước đối với tổ chức
hay cá nhân nào đó. Ví dụ, một cơng dân thực hiện hành vi trộm cắp tài sản,
hành vi này có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại
Điều 138 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999. Trong trường hợp này, không phải
ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và người phạm tội tự giác
chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Vì vậy, cần có hoạt động của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và những người có thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử để
đối chiếu với quy định của pháp luật, ấn định trách nhiệm hình sự đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội và buộc người này phải chấp hành.

- Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Ví dụ,
điều 57 của Hiến pháp 1992 quy định, cơng dân có quyền tự do kinh doanh


12
nhưng quyền này chỉ phát sinh khi công dân làm thủ tục đăng ký kinh doanh
và được một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và quyền đó sẽ bị chấm dứt nếu người đó khơng tn thủ các quy
định của pháp luật.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó khơng tự giải quyết được. Đây
là trường hợp quan hệ pháp luật đã xuất hiện, do có sự tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ pháp lý giữa các bên nên các bên không thể thực hiện được các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Ví dụ, tranh chấp giữa các bên tham gia
một hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự cụ thể như: Hợp đồng vay tài
sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, kiện đòi bồi thường thiệt
hại do sức khoẻ bị xâm phạm.
Trong một số quan hệ pháp luật quan trọng mà nhà nước thấy cần thiết
phải tham gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ
đó; hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự
kiện thực tế nào đó. Ví dụ, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận
việc đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh hay chứng tử cho một người nào đó.
Như vậy, áp dụng pháp luật là một trong những hình thức thực hiện
pháp luật có những đặc điểm riêng so với các hình thức thực hiện pháp luật đã
nêu trên và bao giờ cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước, nhà chức trách
có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật có các đặc điểm cơ bản sau:
Một là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện
quyền lực Nhà nước.
Hoạt động áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà

nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định những
cơ quan nhà nước khác nhau có thẩm quyền áp dụng pháp luật khác nhau.
Mỗi cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức trách thẩm quyền được giao thực
hiện một số những hoạt động áp dụng pháp luật nhất định. Trong quá trình áp


13
dụng pháp luật, mọi khía cạnh, mọi tình tiết phải được xem xét một cách cẩn
trọng và dựa trên cơ sở các quy định, yêu cầu của quy phạm pháp luật đã
được xác định để ra quyết định cụ thể. Pháp luật chính là cơ sở để các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của mình.
Áp dụng pháp luật (ADPL) là một hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước. Trong nhiều trường hợp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành áp
dụng pháp luật theo ý chí đơn phương, khơng phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị
áp dụng. Sự áp dụng này có tính chất bắt buộc đối với chủ thể bị áp dụng và các
chủ thể có liên quan và được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Như vậy, so với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật
chỉ do những cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm quyền tiến hành.
Ngồi ra trong một số trường hợp cá biệt, pháp luật trao cho các tổ
chức xã hội thẩm quyền áp dụng pháp luật.
Hai là, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tuân theo những hình thức và
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp
của áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng những lợi
ích rất lớn hoặc phải chịu những hậu quả bất lợi rất nghiêm trọng nên pháp luật
luôn xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của
chủ thể trong q trình áp dụng pháp luật. Ví dụ, để giải quyết một vụ án hình sự
thì các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan phải tn thủ
triệt để các trình tự, thủ tục được quy định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự,
để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được chính xác và đầy đủ.

Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính chất cá biệt, cụ
thể đối với quan hệ xã hội nhất định. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp
luật là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, bổ sung trên cơ sở
những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động áp dụng
pháp luật, những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một cách cụ
thể và chính xác.


14
Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi vì, áp
dụng pháp luật là q trình vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để
giải quyết các vụ việc cụ thể. Điều này đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền áp dụng
pháp luật phải vận dụng cái chung phù hợp với cái riêng phong phú, đa dạng
và phức tạp. Khi áp dụng pháp luật các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải
nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó để từ đó
lựa chọn quy phạm áp dụng, ra văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành.
Trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa rõ ràng thì
phải vận dụng một cách sáng tạo bằng cách áp dụng pháp luật tương tự. Để
đạt tới điều đó địi hỏi những người áp dụng pháp luật phải có ý thức pháp
luật cao, có tri thức tổng hợp, có kinh nghiệm cuộc sống phong phú, có đạo
đức trong sáng và có trình độ chun mơn cao.
Thực tế hiện nay, cịn có nhiều quan niệm khác nhau về áp dụng pháp
luật nhưng đa số các nhà khoa học pháp lý đều cho rằng : Áp dụng pháp
luật là hoạt động mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước, được
thực hiện thông qua những cơ quan nhà nước hay nhà chức trách có thẩm
quyền, hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước uỷ quyền, nhằm cá biệt
hoá những quy phạm pháp luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá
nhân, tổ chức cụ thể.
Nước ta đang tiến hành cải cách tư pháp một cách mạnh mẽ, một
trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của cải cách tư pháp là các cơ

quan Tòa án phải thực sự trở thành trung tâm của các cơ quan tư pháp mà
nhiệm vụ xét xử là trọng tâm. Do vậy, để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của
hoạt động xét xử các loại án nói chung và án hình sự nói riêng, địi hỏi phải
nâng cao chất lượng của hoạt động áp dụng pháp luật trong hoạt động xét
xử của Toà án.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu


15
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2004, xét xử là việc” xét xem phải trái để
phán xử” [55, tr.1256]. Theo từ điển Luật học năm 1999, xét xử là “hoạt động
đặc trưng, là chức năng nhiệm vụ của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất
được đảm nhận chức năng xét xử" [56].
Theo Hiến pháp năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2002 khẳng định: “Tòa án nhân dân tối cao, các
Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Tòa án khác do luật
định là các cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
[44]; Điều 1, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002; Điều 72 của Hiến pháp
năm 1992 (được cụ thể hoá ở điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) khẳng
định: "Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết
tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật" [42].
Như vậy, xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng riêng có của Toà
án nhân dân, ngoài các cơ quan Toà án ra khơng có cơ quan nhà nước nào
được thực hiện chức năng xét xử.
Hoạt động xét xử của Toà án nhân dân (TAND), là hoạt động trọng tâm
và chủ yếu của hoạt động tư pháp, là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà
nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng
đắn của sự việc. Nếu căn cứ vào cấp độ thì xét xử có thể chia thành xét xử sơ
thẩm, xét xử phúc thẩm ngồi ra cịn xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái

thẩm, trong đó nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) được thực
hiện một cách triệt để và thống nhất. Nếu căn cứ vào thời hạn và các bước
tiến hành tố tụng thì xét xử có thể chia thành hai loại: xét xử theo thủ tục đầy
đủ và xét xử theo thủ tục rút gọn.
Q trình xét xử sơ thẩm án hình sự nói chung hay xét xử các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng là một khâu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
bao gồm điều tra, truy tố, xét xử. Hoạt động xét xử của Tòa án phải tuân thủ
nghiêm ngặt các giai đoạn áp dụng pháp luật theo quy định của bộ luật tố tụng


16
hình sự. Cụ thể như thụ lý hồ sơ; áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn
chặn; nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử; quyết định đưa vụ án ra xét xử; giao
các quyết định của Tòa án; triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa; tổ
chức mở phiên tòa; điều khiển việc xét hỏi, tranh luận; tiến hành nghị án và ra
các quyết định, bản án của Tịa án. Q trình xét xử phải tuân thủ các nguyên
tắc: khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; ngun tắc
xét xử cơng khai; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số v.v... chỉ có
thơng qua hoạt động xét xử, Tòa án mới được ra những bản án, quyết định tun
bố một người có tội hoặc khơng có tội và áp dụng biện pháp trừng trị hay khôi
phục quyền lợi cho họ theo quy định của pháp luật. Đồng thời bảo vệ lợi ích hợp
pháp và chính đáng của Nhà nước, lợi ích của tập thể, cá nhân và các tổ chức
theo quy định của pháp luật.
ADPL trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu là việc Nhà nước
thơng qua Tồ án bằng hoạt động xét xử để quyết định về trách nhiệm hình sự
và những chế tài hình sự đối với người phạm tội về xâm phạm sở hữu trong
phiên toà sơ thẩm. ADPL trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu ngoài việc
bảo đảm những nguyên tắc đặc thù nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa và
ngăn chặn tội phạm về xâm phạm sở hữu thì cịn áp dụng tính nhân đạo trong

chính sách hình sự của Nhà nước là: Việc xử lý người phạm tội chủ yếu nhằm
giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm và trở thành cơng dân có ích cho xã
hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm đối với
những người phạm tội về nhóm tội xâm phạm sở hữu của TAND có ý nghĩa
quan trọng, nhằm phát triển lý luận về ADPL nói chung trong lĩnh vực cụ thể.
Mặt khác, việc nghiên cứu ADPL trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu cịn
có ý nghĩa thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng ADPL của Tồ án, đảm bảo
tính thống nhất của ADPL hình sự, dân sự và tố tụng trong phán quyết của
Toà án đối với người phạm tội về xâm phạm sở hữu.


17
Nghiên cứu về ADPL trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự về tội xâm phạm sở hữu nói riêng chủ yếu là
nghiên cứu việc ADPL thông qua hoạt động của Toà án, HĐXX (Thẩm phán,
Hội thẩm) bằng các quyết định, bản án kể từ khi Toà án thụ lý giải quyết vụ
án đến khi Toà án ra bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm.
Từ phân tích nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm của áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu như sau: Áp dụng pháp
luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân là
hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước của cơ quan Toà án, được thực
hiện thông qua Hội đồng xét xử là những người được Nhà nước trao quyền
trên cơ sở tuân thủ những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục của pháp luật
tố tụng hình sự và căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử. Trên cơ sở đó lựa chọn các quy phạm pháp luật
phù hợp, để ban hành các bản án, quyết định tuyên bố một người có tội và
phải chịu hình phạt cùng các biện pháp tư pháp khác; hoặc tun bố một
người khơng bị coi là có tội và áp dụng các biện pháp để khôi phục lại quyền
và lợi ích hợp pháp cho người đó theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội

xâm phạm sở hữu
Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu của Toà
án nhân dân là một hình thức cụ thể của áp dụng pháp luật. Do vậy, ngoài những
đặc điểm chung của áp dụng pháp luật thì áp dụng pháp luật trong xét xử các tội
xâm phạm sở hữu của Toà án nhân dân cịn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu là
hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước do Tồ án thực hiện thơng qua
những người có thẩm quyền là Hội đồng xét xử.
Điều này được thể hiện ở chỗ, chủ thể áp dụng pháp luật trong trường
hợp này là Toà án nhân dân, đây là cơ quan được thành lập theo quy định của


18
Hiến pháp, Toà án nhân dân, cụ thể là Hội đồng xét xử nhân danh Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức các hoạt động xét xử nói
chung và xét xử án hình sự nói riêng, vai trị chính tiến hành hoạt động xét
xử là Thẩm phán chủ toạ phiên toà người được Chánh án phân cơng giải
quyết vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đã quy định rõ ràng nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán trong quá trình giải quyết,
xét xử các vụ án hình sự. Trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết
các vụ án hình sự, Tòa án nhân dân phải tuân thủ các nguyên tắc chung về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, các nguyên tắc về tổ chức và
hoạt động tư pháp và các nguyên tắc đặc trưng của hoạt động xét xử. Như
nguyên tắc xét xử công khai; nguyên tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật; ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo; nguyên tắc hai
cấp xét xử; nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và Hội
thẩm ngang quyền với Thẩm phán; nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và
Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật v.v...
Tòa án nhân dân được quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, để xét xử và ban hành bản án. Do đó, bản án của Tịa án

nhân dân được ban hành ra không chỉ đơn thuần là một văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật như các cơ quan nhà nước khác mà cịn có ý nghĩa thể hiện và
minh chứng tính ưu việt của chế độ chính trị, của sự tơn trọng quyền dân chủ
và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa của quốc gia. Tòa án được nhân
danh Nhà nước khi ra bản án là quy định của pháp luật nước ta nhằm tạo điều
kiện để cơ quan Tòa án nhân dân thực thi công lý, công bằng xã hội; là cơ sở
để Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân hoàn toàn độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật khi xét xử. Mỗi một bản án, quyết định oan sai trong quá trình
áp dụng pháp luật khi xét xử của Tòa án nhân dân đều là những sai lầm
nghiêm trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín của Nhà nước và lịng tin
của nhân dân đối với cơng lý. Vì vậy, tính nghiêm minh và sự cơng bằng của


19
áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tịa án nhân dân ln là một
trong những biểu hiện cụ thể nhất, sinh động nhất của nền công lý đất nước và
là một trong những thước đo sự tiến bộ trong việc thực hiện các quyền tự do,
dân chủ của công dân và các quyền của con người dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa. Do vậy mỗi bản án, quyết định của Tòa án cần hết sức thận trọng bảo
đảm đúng pháp luật.
Thứ hai, áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân
là quá trình cá biệt hố các quy phạm pháp luật hình sự đối với một hay nhiều
hành vi phạm tội trong một vụ án để quyết định hình phạt, các biện pháp tư
pháp, trách nhiệm dân sự đối với người phạm tội theo quy định của pháp luật.
Việc xác định sự thật khách quan của một vụ án thuộc trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong đó có Toà án. Xác định sự thật khách quan
của vụ án bao gồm như xác định các giai đoạn của quá trình thực hiện tội
phạm từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc; xác định hành vi đó là hành động
hay khơng hành động; hành vi đó có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không;
nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì đó là tội gì, ai là người phạm tội; vụ án

có đồng phạm hay khơng có đồng phạm; ý thức chủ quan của tội phạm và xác
định người thực hiện tội phạm có lỗi hay khơng có lỗi; những dấu hiệu về mặt
khách quan của tội phạm như công cụ, phương tiện phạm tội; hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả của hành
vi phạm tội; xác định khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội nào.
Đồng thời khi nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị xét xử, những người có thẩm
quyền xét xử cần xác định hành vi phạm tội trên thực tế thực hiện ở giai đoạn
nào (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, phạm tội chưa đạt chưa hồn
thành...), các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trị của
từng bị cáo trong vụ án (nếu vụ án có đồng phạm)...
Để có cơ sở áp dụng đúng pháp luật và đi đến phán quyết cuối cùng,
Hội đồng xét xử của cơ quan Tồ án cịn phải lựa chọn các quy phạm pháp


20
luật hình sự, dân sự và các quy phạm pháp luật khác có liên quan phù hợp để áp
dụng và xem xét việc bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố có đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật hay khơng, ai là người phải chịu trách nhiệm dân sự (nếu có), xử
lý vật chứng của vụ án như thế nào... Từ đó để ra một bản án, quyết định đúng
pháp luật.
Áp dụng các quy phạm pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu là nội dung chủ yếu trong hoạt động xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu của cơ quan Tồ án. Vì vậy, muốn áp dụng một quy phạm pháp
luật để xử lý tội phạm hình sự, chủ thể áp dụng pháp luật phải căn cứ vào dấu
hiệu của các yếu tố cấu thành tội phạm để xác định hành vi bị truy tố có phải
là tội phạm hay khơng; nghiên cứu để xác định có hành vi phạm tội xảy ra
trên thực tế hay khơng; tội đó là tội gì; các chứng cứ chứng minh cho hành vi
phạm tội thông qua hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng
và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và các
bộ luật khác có liên quan để giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật. Để

thực hiện được điều này, các chủ thể áp dụng pháp luật phải có kiến thức pháp
lý, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự hiểu biết rộng về các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
- Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xét hỏi cơng
khai tại phiên tồ làm cơ sở để các chủ thể áp dụng pháp luật xác định bị cáo
phạm tội gì hoặc khơng phạm tội, từ đó quyết định trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật đối với bị cáo hoặc tuyên bố bị cáo không phạm tội.
Để quyết định trách nhiệm hình sự phải thực hiện các công việc như sau:
- Căn cứ các quy định của pháp luật để xem xét tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra. Các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để bảo đảm nguyên tắc nhân
đạo của pháp luật hình sự và cá thể hố hình phạt đối với các vụ án có đồng
phạm; có cần thiết áp dụng hình phạt đối với bị cáo hay khơng? Vì Bộ luật


21
hình sự 1999 cịn có những quy định như: Điều 25 quy định về miễn trách
nhiệm hình sự; Điều 43 quy định bắt buộc chữa bệnh; Điều 70 quy định các
biện pháp tư pháp đối với người chưa thành niên phạm tội như: giáo dục tại
xã phường, đưa vào trường giáo dưỡng; Điều 54 quy định về miễn hình
phạt [41, tr.59, 67, 86].
Khi thấy có đủ căn cứ để quyết định hình phạt, chủ thể áp dụng pháp luật
cần lựa chọn những chế tài cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự để:
- Quyết định một mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo theo quy định tại
Điều 45 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999; điều 50 quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội; điều 53 quyết định hình phạt trong trường
hợp đồng phạm [41, tr.69, 79, 73, 75]…
- Quyết định biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo được quy
định tại điều 28 đến Điều 40 Bộ luật hình sự năm 1999 [41, tr.60-66].
- Quyết định trách nhiệm dân sự được quy định tại điều 42 Bộ luật

Hình sự "Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đọat cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa bồi thường thiệt hại ngoài vật
chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra" [41, tr.67] để buộc bị cáo
phải chịu trách nhiệm vật chất đối với các thiệt hại bị cáo đã gây ra, những
thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tinh thần, danh dự nhân phẩm...
Đối với thiệt hại về tinh thần là khơng thể khắc phục được, tuy Tồ án
nhân dân tối cao cũng đã có hướng dẫn cụ thể về cách tính mức bồi thường
thiệt hại về tinh thần để bù đắp cho người bị hại, nhưng pháp luật hình sự và
pháp luật dân sự cịn buộc người gây thiệt hại ngoài việc bồi thường về vật
chất cho người bị hại, bị cáo cịn phải cơng khai xin lỗi người bị hại trong
trường hợp cần thiết.
Thứ ba, áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu của Toà án được tiến hành trên cơ sở kết quả điều tra của Cơ quan điều
tra và truy tố của Viện kiểm sát.


22
Xét xử án hình sự, là một giai đoạn trong quá trình giải quyết một vụ án
hình sự. Trong quá trình xét xử, ngồi việc Tồ án căn cứ vào các qui định của
pháp luật thì cịn căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc được phản ánh qua
những chứng cứ và tài liệu được Cơ quan điều tra thu thập. Hiện nay, pháp
luật của Việt Nam và pháp luật của một số nước thuộc hệ thống pháp luật
Châu âu lục địa qui định việc áp dụng pháp luật xét xử án hình sự của Tồ án vẫn
dựa trên kết quả điều tra, truy tố. Cụ thể, Toà án với tư cách là cơ quan độc lập
có nhiệm vụ kiểm tra tính xác thực, có căn cứ của các chứng cứ đã có trong hồ
sơ vụ án để đưa ra phán quyết cuối cùng là bị cáo có tội hay khơng có tội. Điều
196 BLTTHS năm 2003 qui định giới hạn của việc xét xử như sau:
Toà án, chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tồ án có
thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong

cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm
sát đã truy tố.
Như vậy, trường hợp qua hoạt động xét xử nếu Toà án thấy bị cáo phạm
một tội nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố thì Tồ án cần trao đổi với
Viện kiểm sát để thay đổi quyết định truy tố hoặc trả hồ sơ để Viện kiểm sát
bổ sung. Nếu giữa Viện kiểm sát và Tồ án khơng thống nhất được quan điểm
mà Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo thì Tồ án tun
bố bị cáo khơng phạm tội.
Có thể thấy rằng, việc Tồ án tiến hành xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm
sở hữu dựa vào kết quả điều tra, truy tố để đưa ra phán xét cuối cùng cũng có
những hạn chế nhất định, bởi lẽ kết quả điều tra, truy tố không phải lúc nào
cũng khách quan, trung thực, do vậy trên thực tế đã có những bị cáo bị xét xử
oan, sai dẫn đến những bất bình trong dư luận xã hội cũng như những thiệt hại
về vật chất và tinh thần của người bị xét xử, làm giảm lịng tin của người dân
vào cơng lý và cơng bằng xã hội.


23
Để Toà án, mà trực tiếp là Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong hoạt động xét xử, thì phán quyết của Tồ án phải có căn
cứ pháp luật và dựa vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ và ý kiến của các bên tham gia tranh tụng.
Những kết quả của hoạt động điều tra chỉ được xem như là căn cứ bước đầu
trong việc buộc tội bị cáo. Chính vì vậy, BLTTHS năm 2003 đã có những qui
định ghi nhận bị cáo có quyền trình bày ý kiến và tranh luận tại phiên tồ,
được giải thích về quyền và nghĩa vụ. Đồng thời, Bộ Luật cũng có những qui
định mở rộng hơn các quyền của người bào chữa, tạo điều kiện cho họ hoàn
thành tốt nhiệm vụ bào chữa, gỡ tội. Đây là những qui định mới, đảm bảo cho
Toà án ra các phán quyết được dân chủ, khách quan.
Thứ tư, áp dụng pháp luật trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu của

Toà án nhân dân được tiến hành chủ yếu tại phiên toà nhằm xem xét, đánh giá
chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Khác với hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác,
áp dụng pháp luật trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu của Toà án nhân dân
được tiến hành tại phiên toà. Phiên toà xét xử với nghi thức trang nghiêm, các
thủ tục được tiến hành chặt chẽ thể hiện quyền uy của Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và được tiến hành công khai. Các thủ tục công bố
quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét hỏi, tranh luận, nghị án, công bố bản án... luôn
luôn được pháp luật tố tụng quy định chặt chẽ, chi tiết và yêu cầu những
người áp dụng pháp luật phải tuân thủ tuyệt đối. Phiên tòa xét xử là nơi các
quyền của con người, các quyền tự do dân chủ của cơng dân, lợi ích của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa được bảo vệ; là nơi sự thật khách quan của vụ án được
xác định và công lý xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội được thực hiện một
cách dân chủ, triệt để và nghiêm túc.
Phiên tịa xét xử án hình sự nói chung và xét xử các tội xâm phạm


24
sở hữu nói riêng, dưới sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tịa, có
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và nhân dân quan tâm đến
dự phiên tồ. Các quy trình áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình
sự nói chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, đặc biệt là việc ban
hành các quyết định, các bản án của Tịa án ln ln chịu sự nhận xét,
giám sát của công luận và đông đảo quần chúng nhân dân. Theo đó, trình
độ, năng lực, đạo đức và kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán cũng
được thể hiện công khai và chịu sự giám sát tương tự. Ví dụ như việc điều
khiển phiên tòa; kỹ năng xét hỏi; phương pháp điều khiển tranh luận; cách
thể hiện nội dung bản án; cách tuyên án... đều được nhân dân, công luận
trực tiếp theo dõi và nhận xét.

Như vậy, để ban hành một bản án, một quyết định áp dụng pháp luật
trong xét xử các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân, người Thẩm phán
và Hội thẩm Tòa án nhân dân phải tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt và
phải có tư duy tổng hợp tốt để xử lý các tình huống trong một điều kiện đặc
biệt riêng có của phiên tịa hình sự.
Thứ năm, áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu của Toà án được tiến hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự, hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự của cơ
quan Tịa án được quy định tại Phần thứ ba [42, tr.136], hoạt động xét xử phúc
thẩm được quy định tại Phần thứ tư [42, tr.170]. Tại các điều này, Bộ luật tố
tụng hình sự quy định rất chặt chẽ trình tự thủ tục và cách thức tiến hành các
hoạt động tố tụng buộc cơ quan Tòa án phải tuân thủ triệt để các quy định đó
khi xét xử các vụ án xâm phạm sở hữu.
Các quan hệ phát sinh trong quá trình xét xử đều phải được dự tính trước
những vấn đề có thể sảy ra như: việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể, chẳng hạn áp dụng các quy phạm tố tụng hình sự để áp dụng, thay đổi
hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án;


25
quyết định triệu tập những người tham gia tố tụng đến phiên tịa; quyết định
phiên tịa xử cơng khai hay xử kín, xét xử lưu động hay xét xử tại trụ sở của Tòa
án; quyết định thay đổi những người tiến hành tố tụng; xem xét những người
được tòa án triệu tập có mặt, vắng mặt tại phiên tịa để quyết định phiên tịa có
thể tiếp tục được tiến hành hay phải hỗn phiên tịa theo quy định của pháp luật;
việc xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Nghị án và ban hành bản án, quyết định của
Toà án… Nếu Tòa án vi phạm các thủ tục xét xử do pháp luật quy định thì bị coi
là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, văn bản áp dụng pháp luật do Tịa án
ban hành sẽ khơng được cơng nhận và sẽ bị Tòa án cấp trên hủy bỏ.
Do vậy q trình xét xử Tịa án phải tn thủ triệt để các quy định này.

Đây chính là việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình thức được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng đúng các quy định nêu trên giúp
cho các quyền và nghĩa vụ của công dân được bảo đảm thực hiện một cách
nghiêm chỉnh; các bước tiến hành tố tụng được chính xác, khách quan; các
bản án, quyết định của Toà án bảo đảm đúng pháp luật.
1.1.4. Vai trò của áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu
Với tư cách là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật có vai trị
quan trọng trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội; là phương
tiện để thể chế hóa đường lối chủ trương chính sách của Đảng, bảo đảm cho
sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực thực thi trên quy mơ tồn xã hội; là phương
tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội; là phương tiện bảo đảm cho quần
chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân được phát huy và thực hiện một cách
nghiêm chỉnh.
Vai trò của áp dụng pháp luật thể hiện ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, hoạt động áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu của Tịa án nhân dân có vai trị đặc biệt quan trọng


×