Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học -Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.74 KB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ luận thuyết cốt lừi của C.Mỏc về “biến nhà nước từ cơ quan đứng
trên xó hội thành cơ quan hồn tồn phục tùng xó hội” và theo tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nền dân chủ xó hội chủ nghĩa (XHCN) chõn
chớnh, thực sự. "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của
nhõn dõn, do nhõn dõn, vỡ nhõn dõn... Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xó hội bằng phỏp luật và khụng ngừng tăng cường pháp chế xó hội
chủ nghĩa" [7, tr.29].
Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy
định: Nhà nước ta là "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân" (Điều 2 Hiến pháp 2013). Đặc trưng cơ bản của
nhà nước pháp quyền là "Nhà nước tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và
pháp luật, quản lý xó hội bằng Hiến phỏp và phỏp luật" (Điều 8 Hiến pháp
2013).
Vì vậy pháp chế XHCN hiện nay là vấn đề vừa có tính lý luận và tính
thực tiễn thời sự cấp thiết. Pháp chế XHCN được xem như là phương thức
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân, đáp ứng yêu cầu phát huy dân chủ của nhân dân. Pháp chế XHCN
cũng là phương thức tổ chức hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự, phương pháp đấu tranh phịng và chống mọi vi phạm pháp luật và tội
phạm.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một trong hệ thống các
cơ quan tư pháp ở Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo
Lênin VKSND là một cơ quan đặc biệt có chức năng bảo vệ pháp luật và bảo
vệ pháp chế XHCN. Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, thời
gian qua ngành Kiểm sát nhân dân (KSND) đã không ngừng trưởng thành và
lớn mạnh. Từ năm 2001 trở về trước, VKSND là cơ quan duy nhất trong bộ



2
máy nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực
hành quyền công tố. Từ khi ra đời (ngày 26/7/1960) cho đến nay, hệ thống
VKSND đã phát huy được vị trí, vai trị và thực hiện tốt chức năng của mình,
góp phần quan trọng vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN cũng như
trong bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ năm 2001 đến nay, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKSND được tập trung vào kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm sát hoạt động
điều tra, hoạt động xét xử và hoạt động thi hành án). Như vậy hoạt động kiểm
sát và hoạt động tư pháp và thực hiện quyền công tố của VKSND gắn liền với
quá trình tố tụng hình sự. VKSND là một trong các cơ quan tiến hành tố tụng
bảo đảm thực hiện "nguyên tắc xử lý" (Điều 3 BLHS) trong đấu tranh phòng
và chống tội phạm. "Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, cơng minh theo đúng pháp luật" (Điều 3 BLHS). Một trong
những nguyên tắc cơ bản: Trong Bộ luật TTHS là: "Bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự".
Như vậy, pháp chế XHCN nói chung và pháp chế trong hoạt động tố
tụng hình sự nói riêng khơng chỉ là nội dung của phương thức tổ chức hoạt
động mà còn là nguyên tắc chỉ đạo trong tổ chức hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Để tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước, không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, mà quan trọng
hơn là tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hành
thường xuyên và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những hành vi vi
phạm pháp luật. Pháp luật không được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất
thì pháp luật sẽ khơng có hiệu lực và trên thực tế cũng sẽ khơng có pháp chế.
Muốn cho pháp luật của Nhà nước được đảm bảo thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất thì điều quan trọng trước nhất là các cơ quan nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, các cán
bộ của Đảng và công chức nhà nước phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, phải tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, phải làm đúng



3
trách nhiệm là người thừa hành ý kiến của nhân dân, là người bảo vệ và phục
vụ lợi ích của nhân dân. Từ đó địi hỏi pháp chế XHCN trong hoạt động của
VKSND nói chung và của mỗi cán bộ, kiểm sát viên của VKSND cấp huyện
ở tỉnh Kiên Giang nói riêng.
Trong những năm qua, VKSND cấp huyện ở tỉnh Kiên Giang đã thực hiện
tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTHS, bảo đảm
cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, phát huy vai trị tích
cực của mình trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Song, bên cạnh những ưu điểm trên, cơng tác hoạt động TTHS cịn bộc lộ những
sai sót cần khắc phục. Để hồn thành tốt chức năng của mình, xứng đáng là một
cơng cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ nền pháp chế XHCN, ngành KSND
phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế và khắc phục khuyết điểm.
Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn của việc pháp chế
trong hoạt động TTHS tác giả chọn đề tài: "Pháp chế xó hội chủ nghĩa trong
hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Kiên
Giang" làm luận văn thạc sĩ luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và
pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp chế XHCN là một phạm trù khoa học pháp lý cơ bản, đã được
nhiều nhà khoa học trong và ngồi nước nghiên cứu với nhiều góc độ khác
nhau. Lý luận về pháp chế XHCN đã được hình thành và phát triển rực rỡ
trong nền khoa học pháp lý Xô-viết và các nước XHCN trước đây. Nước ta,
vấn đề pháp chế XHCN đã trở thành quan điểm chính thống và nhất quán
được thể hiện trong các văn kiện của Đảng ta qua nhiều kỳ Đại hội; quan
điểm đó cũng đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm của các đồng chí lãnh
đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, vấn đề pháp chế XHCN đã trở

thành một nội dung khoa học có vị trí khơng thể thiếu trong giáo trình Lý luận
chung về Nhà nước và Pháp luật của các trung tâm đào tạo Chính trị - Pháp lý


4
như: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội
(khoa Luật), Đại học Luật Hà Nội v.v...
Hiện nay vấn đề "Pháp chế XHCN"đã trở thành một ngun tắc hiến
định, chính vì vậy nó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học pháp lý; có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học về pháp chế và
tăng cường pháp chế XHCN gần đây đã được công bố như:
- Luận án TS học Luật học của Quách Sĩ Hùng (1996) về "Tăng cường
pháp chế về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng (2001) về "Tăng
cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện
nay", Học viện Chính trị Hành chớnh Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Văn Thảo (2004) về "Tăng cường
pháp chế xó hội chủ nghĩa trong xột xử cỏc vụ ỏn hỡnh sự ở Nghệ An hiện
nay", Học viện Chớnh trị Quốc gia Hồ Chớ Minh.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Lê Tuấn Phong (2008) về "Phỏp chế xó
hội chủ nghĩa trong thực hành quyền cụng của Viện kiểm sỏt quân sự trên địa
bàn Quân khu 5", Học viện Chớnh trị Hành chớnh Quốc gia Hồ chớ Minh.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Đỗ Văn Phương (2008) về "Phỏp chế xó hội
chủ nghĩa trong kiểm sỏt xột xử cỏc vụ ỏn trật tự xó hội của Viện kiểm sỏt nhõn dõn
tỉnh Thanh Hoỏ", Học viện Chớnh trị Hành chớnh Quốc gia Hồ chớ Minh.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Thị Thuỷ (2008) về "Phỏp chế
xó hội chủ nghĩa trong kiểm sỏt xột xử cỏc vụ ỏn trật tự xó hội của Viện kiểm
sỏt nhõn dõn tỉnh Lào Cai hiện nay", Học viện Chớnh trị Hành chớnh Quốc
gia Hồ chớ Minh.

- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Quang Thái (2008) về "Phỏp
chế xó hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện na",
Học viện Chớnh trị Hành chớnh Quốc gia Hồ chớ Minh.


5
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Ngô Khương Tuyến (2012) về "Phỏp
chế xó hội chủ nghĩa trong giai đoạn xét xử các vụ án hỡnh sự ở tỉnh vĩnh
Phỳc", Học viện Chớnh trị Hành chớnh Quốc gia Hồ chớ Minh.
Như vậy, vấn đề pháp chế XHCN trong một số lĩnh vực cụ thể đã được
nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tuy nhiên, về pháp chế
XHCN trong hoạt động TTHS của VKSND thì chưa có cơng trình nghiên cứu
nào đề cập một cách tồn diện.
Chính vì vậy có thể coi đề tài "Pháp chế xó hội chủ nghĩa trong hoạt
động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở tỉnh Kiên
Giang" là cơng trình đầu tiên ở tỉnh Kiờn Giang nghiên cứu về lĩnh vực này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là gúp phần làm sỏng tỏ những vấn
đề lý luận về pháp chế XHCN và trên cơ sở đánh giá thực trạng đề xuất các quan
điểm, giải pháp nhằm nâng cao pháp chế XHCN trong hoạt động hoạt động tố
tụng hình sự của VKSND cấp huyện ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế trong
hoạt động tố tụng hình sự.
- Đánh giá thực trạng pháp chế trong hoạt tố tụng hình sự thơng qua việc
phân tích kết quả hoạt động của VKSND cấp huyện ở tỉnh Kiên Giang trong
một số năm gần đây.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm về pháp chế XHCN

trong hoạt động tố tụng hình sự của VKSND cấp huyện ở tỉnh Kiên Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
Tác giả nghiên cứu một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp chế XHCN
và pháp chế trong hoạt động tố tụng hình sự của VKSND cấp huyện ở tỉnh
Kiên Giang và trong một số năm gần đây.


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật; cũng như các quan điểm, lý luận của Đảng
Cộng sản Việt Nam để chỉ đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, từng bước
đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân hiện nay.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu của
triết học Mác - Lênin như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp nghiên cứu lịch sử, cụ thể và toàn
diện. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
cụ thể khác như: phương pháp lôgic, các phương pháp so sánh, đối chiếu,
thống kê, mơ hình hóa...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
pháp chế XHCN trong hoạt động tố tụng hình sự của VKSND cấp huyện ở
tỉnh Kiên Giang.
- Đánh giá một cách khách quan thực trạng pháp chế XHCN trong hoạt
động tố tụng hình sự từ 2009 đến nay.
- Luận chứng các quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng pháp
chế XHCN trong hoạt động tố tụng hình sự.
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về pháp chế XHCN

trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Lần đầu tiên đánh giá có hệ thống về pháp chế XHCN trong hoạt động tố
tụng hình sự VKSND cấp huyện ở tỉnh Kiên Giang.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi về pháp chế XHCN trong hoạt động
tố tụng hình sự.
8. Kết cấu của luận văn


7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ Lí LUẬN VỀ PHÁP CHẾ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HèNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN NểI CHUNG VÀ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN CẤP HUYỆN NểI RIấNG
TRONG TỐ TỤNG HèNH SỰ

1.1.1. Khái niệm các giai đoạn của tố tụng hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn
và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác,
khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hỡnh sự đối với người phạm
tội. Toàn bộ quá trỡnh giải quyết vụ ỏn được gọi là tố tụng hỡnh sự (TTHS).
Theo định nghĩa của giáo trỡnh Luật TTHS Việt Nam, Khoa luật - Đại học
quốc gia Hà Nội thỡ: "Tố tụng hỡnh sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ

chức xó hội, nhằm giải quyết vụ ỏn khỏch quan, tồn diện, nhanh chúng,
chớnh xỏc và đúng pháp luật". "Tố tụng" là vạch tội và đưa ra cửa công để
phân giải phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thưa kiện ở cửa công
để xin phân phải trái", cũn " TTHS là trỡnh tự (quỏ trỡnh) tiến hành giải quyết
vụ ỏn hỡnh sự theo quy định của pháp luật. TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tũa án), người
tiến hành tố tụng (thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên,
viện trưởng, phó viện trưởng, kiểm sỏt viờn, chỏnh ỏn, phú chỏnh ỏn, thẩm
phán, hội thẩm nhân dân và thư ký phiờn tũa), người tham gia tố tụng (bị can,
bị cáo, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xó hội gúp
phần vào việc giải quyết vụ ỏn theo quy định của Luật TTHS".


9
Quỏ trỡnh giải quyết vụ ỏn hỡnh sự được chia thành các giai đoạn, mỗi
giai đoạn tố tụng hỡnh sự cú nhiệm vụ giải quyết những yờu cầu khỏc nhau
và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến
hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định.
Như vậy, giai đoạn TTHS được hiểu:
Là bước của quá trỡnh tố tụng hỡnh sự tương ứng với chức năng nhất
định trong hoạt động tư pháp hỡnh sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng
cú thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ ỏn hỡnh sự một cỏch cụng
minh, khỏch quan, cú căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế
và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của cụng dõn.
Để đảm bảo việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được
chính xác, xử lý nghiờm minh, khụng để lọt tội phạm và không làm oan người
vô tội đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ luật tố

tụng hỡnh sự (BLTTHS) quy định trỡnh tự, thủ tục khởi tố điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hỡnh sự (Điều 1 BLTTHS 2003) chia quỏ trỡnh giải
quyết vụ ỏn hỡnh sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án
hỡnh sự; giai đoạn điều tra vụ ỏn hỡnh sự và truy tố; giai đoạn xột xử vụ ỏn
hỡnh sự và giai đoạn thi hành bản án hỡnh sự.
Giai đoạn TTHS là vấn đề đầu tiên mà khoa học Luật TTHS cần phải
làm rừ trước khi bắt tay vào nghiên cứu những vấn đề về các giai đoạn TTHS.
Trong phỏp luật TTHS Việt Nam từ trước đến nay kể cả trong Bộ luật
TTHS năm 1988 cũng như trong Bộ luật TTHS năm 2003 đó hỡnh thành nờn
cỏc giai đoạn của tố tụng hỡnh sự.
Dưới góc độ khoa học phỏp lý khái niệm giai đoạn TTHS có thể được
định nghĩa là: bước của quá trỡnh TTHS tương ứng với chức năng nhất định
trong hoạt động tư pháp hỡnh sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng cú
thẩm quyền nhằm thực hiện cỏc nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hỡnh sự một cỏch cụng


10
minh và khỏch quan, cú căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế
và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các hoạt động TTHS và giải quyết vụ
án hỡnh sự cụ thể.
Trên cơ sở BLTTHS Việt Nam năm 2003 đề cập đến việc nghiên cứu
những vấn đề về năm giai đoạn TTHS theo thứ tự sau. Giai đoạn khởi tố vụ
ỏn hỡnh sự; Giai đoạn điều tra; Giai đoạn truy tố; Giai đoạn xét xử và giai
đoạn thi hành án.
Riêng việc thi hành bản án quyết định của Tũa ỏn, mặc dự trong giai
đoạn hiện nay nhà làm luật Việt Nam vẫn coi là một giai đoạn TTHS và chính
thức ghi nhận nó trong BLTTHS năm 2003, nhưng theo quan điểm của chúng
tơi đó khơng thể và không phải là một giai đoạn tố tụng hỡnh sự, mà là một
chuyờn ngành luật độc lập (Luật thi hành án hỡnh sự) với cỏc quan hệ phỏp

luật, đối tượng điều chỉnh khác với Luật TTHS và do vậy, nó là một đối tượng
nghiên cứu khoa học riêng biệt và cần phải được nghiên cứu bằng nhiều công
trỡnh chuyờn khảo khỏc nhau nờn trong luận văn vấn đề này của chúng tôi
tạm chưa đề cập đến.
1.1.1.1. Giai đoạn khởi tố vụ án hỡnh sự
Khởi tố vụ ỏn hỡnh sự là giai đoạn TTHS đầu tiên mà trong đó cơ quan
tư pháp hỡnh sự cú thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS
tiến hành việc xác định có (hay khơng) các dấu hiệu của tội phạm trong hành
vi nguy hiểm cho xó hội đó được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về
việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hỡnh sự liờn quan đến hành vi đó.
Xuất phát từ khái niệm khoa học đó được đưa ra trên đây của giai đoạn
khởi tố vụ án hỡnh sự, cú thể nhận thấy, bản chất phỏp lý của giai đoạn này là
ở chỗ: Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của TTHS, giai đoạn
khởi tố vụ án hỡnh sự cú chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác
định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hỡnh thức
(tố tụng) của việc điều tra vụ ỏn hỡnh sự; thời điểm của giai đoạn này được
bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi


11
phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ
án hỡnh sự cú liờn quan đến hành vi đó.
Một mặt, khởi tố vụ ỏn hỡnh sự là sự phản ứng nhanh chúng từ phớa
Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và
xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm
tội, đồng thời không chỉ là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp
hỡnh sự mà cũn là phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không
tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS, trỏnh bỏ lọt
tội phạm;
Mặt khỏc, khởi tố vụ ỏn hỡnh sự cũng gúp phần loại trừ một thỏi cực

khỏc trong hoạt động tư pháp hỡnh sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua
quyết định khởi tố vụ án hỡnh sự một cỏch thiếu cõn nhắc kỹ, vội vàng và do
vậy, cú thể sẽ kộo một loạt hậu quả tiờu cực tiếp theo trong việc truy cứu
TTHS ở các giai đoạn TTHS tiếp theo sau như: Điều tra khơng có căn cứ đối
với những hành vi khơng chứa đựng dấu hiệu của tội phạm hoặc nói chung
những là không diễn ra trong thực tế khách quan, khám xét, bắt, giam giữ, buộc
tội, xét xử một cách vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội;
Và cuối cựng, khởi tố vụ ỏn hỡnh sự là một giai đoạn TTHS cơ bản và
quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân
trước khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn
điều tra, cùng với các giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc
đấu tranh phũng và chống tội phạm trong tồn xó hội.
1.1.1.2. Giai đoạn điều tra
Điều tra vụ án hỡnh sự là giai đoạn TTHS thứ hai mà trong đó cơ quan
Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự kiểm sát của
Viện kiểm sỏt tiến hành cỏc biện phỏp cần thiết nhằm thu thập và củng cố cỏc
chứng cứ, nghiờn cứu cỏc tỡnh tiết của vụ ỏn hỡnh sự, phỏt hiện nhanh chúng
và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội
để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt


12
hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đỡnh chỉ
điều tra vụ án hỡnh sự hoặc là tạm đỡnh chỉ điều tra; Chuyển tồn bộ các tài
liệu của vụ án đó cho VKS kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị
can.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của TTHS, giai đoạn điều tra vụ án
hỡnh sự cú chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện
pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người
phạm tội, xác định rừ những nguyờn nhõn và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến

nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục
và phũng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ
quan (người) tiến hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hỡnh
sự và kết thỳc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về
việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tũa ỏn hoặc đỡnh chỉ vụ ỏn hỡnh sự
tương ứng.
Một mặt, điều tra vụ án hỡnh sự là chức năng quan trọng trong
hoạt động tư pháp hỡnh sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối
với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và
người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thơng qua các chứng cứ đó thu
thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực
hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng
pháp luật tố TTHS, trỏnh bỏ lọt tội phạm;
Mặt khác, điều tra vụ án hỡnh sự cũng gúp phần loại trừ một thỏi cực khỏc
trong hoạt động tư pháp hỡnh sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định
khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ
kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm
hỡnh sự ở cỏc giai đoạn TTHS (như: Truy tố của VKS hoặc xét xử của TA
không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội);
Và cuối cùng, điều tra vụ án hỡnh sự là một giai đoạn TTHS cơ bản và
quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân


13
trong các giai đoạn trước khi khởi tố của VKS và xét xử của Tũa ỏn, cựng với
cỏc giai đoạn TTHS khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phũng và
chống tội phạm trong tồn xó hội.
1.1.1.3. Giai đoạn truy tố
Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động TTHS, mà
trong đó VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành các biện

pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách qua các tài liệu của
vụ án hỡnh sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do
Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định: Truy tố bị
can trước TA bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều
tra bổ sung hoặc là đỡnh chỉ hay tạm đỡnh chỉ vụ ỏn hỡnh sự.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động TTHS, giai đoạn
truy tố về hỡnh sự cú chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định
kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của tồn bộ các hành vi tố tụng mà cơ
quan Điều tra có thẩm quyền đó ỏp dụng để bảo đảm cho các quyết định của
VKS được chính xác và khỏch quan gúp phần truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự
đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được
bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của vụ án hỡnh sự (bao gồm cả kết
luận điều tra và đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và kết thúc
bằng việc VKS ra một trong ba loại quyết định sau: 1) Truy tố bị can trước
Tũa ỏn bằng bản cỏo trạng (kết luận về tội trạng), 2) Trả lại hồ sơ để điều tra
bổ sung hoặc là 3) Đỡnh chỉ hay tạm đỡnh chỉ vụ ỏn hỡnh sự tương ứng.
Một mặt, truy tố là chức năng quan trọng của VKS nhằm áp dụng các
biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của
tồn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đó ỏp dụng;
để loại trừ những hậu quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đó bị bỏ
lọt trong hai giai đoạn TTHS trước đó;
Mặt khác, quyết định truy tố của VKS thông qua bản cáo trạng thể hiện
hoạt động chứng minh trên cơ sở các tài liệu của hồ sơ của vụ án (nhất là kết


14
luận điều tra) tính chất lỗi của hành vi phạm tội, lỗi của bị cáo trong việc thực
hiện tội phạm để góp phần có hiệu quả trong việc chuẩn bị cho giai đoạn xét
xử của TA, loại trừ những thiếu sót hoặc hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy
ra do việc xét xử thiếu công minh, vô căn cứ và không đúng pháp luật, tránh

bỏ lọt tội phạm và làm oan những người vô tội;
Và cuối cựng, chớnh vỡ vậy, truy tố là một giai đoạn TTHS quan trọng
để cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai
đoạn trước khi xét xử tại TA.
1.1.1.4. Giai đoạn xét xử
Xột xử vụ ỏn hỡnh sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và
quan trọng của hoạt động TTHS, mà trong đó cấp Tũa ỏn cú thẩm quyền căn
cứ vào các quy định của pháp luật TTHS tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp
chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hỡnh sự ra xột xử theo thủ tục sơ thẩm
để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công
khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính
chất tội phạm hay khơng của hành vi, có tội hay khơng của bị cáo (hoặc xét
xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm , nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đó được
tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc
kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đó cú hiệu lực
phỏp luật theo trỡnh tự giỏm đốc thẩm hoặc tái thẩm, nếu bản án hay quyết
định đó bị kháng nghị và cuối cùng, tuyên bản án quyết định của Tũa ỏn cú
hiệu lực phỏp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hỡnh sự một cỏch
cụng minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tũa ỏn nhận được hồ
sơ vụ ỏn hỡnh sự với quyết định truy tố bị can trước Tũa ỏn kốm theo bản cỏo
trạng do VKS chuyển sang và kết thỳc bằng một bản ỏn quyết định có hiệu
lực pháp luật của TA.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động TTHS, giai đoạn
xét xử có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định để: 1) áp dụng


15
các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử vụ án tại phiên tũa,
2) Xột xử theo thủ tục sơ thẩm (hoặc xét xử theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản

án hay quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị, hoặc kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định
đó cú hiệu lực phỏp luật - nếu bị khỏng nghị) và cuối cùng, 3) tuyên bản án,
quyết định của Tũa ỏn cú hiệu lực phỏp luật.
Xét xử là chức năng quan trọng nhất của TA nói riêng và của tồn bộ
q trỡnh TTHS núi chung nhằm ỏp dụng cỏc biện phỏp cần thiết do luật định
để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của tồn bộ các quyết định mà cơ
quan Điều tra và VKS đó thụng qua trước khi chuyển vụ án hỡnh sự sang TA,
nhằm loại trừ cỏc những hậu quả tiờu cực của cỏc sơ xuất, sai lầm hoặc sự
lạm dụng đó bị bỏ lọt trong ba giai đoạn TTHS trước đó (khởi tố, điều tra và
truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung
hoặc đỡnh chỉ hay tạm đỡnh chỉ vụ ỏn;
Bằng việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu bản án hay quyết định chưa
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị) thông qua quá trỡnh điều tra
trực tiếp tại phiờn tũa, trờn cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của
các bên, TA với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một
cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các chứng cứ, các tỡnh tiết của vụ ỏn
hỡnh sự để giải quyết về bản chất nó - phán xét về vấn đề tính chất tội phạm
(hay khơng) của hành vi, có tội (hay khơng) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm
tra tính hợp pháp và của bản án theo trỡnh tự giỏm đốc thẩm hoặc tái thẩm
(nếu bản án hay quyết định đó cú hiệu lực phỏp luật bị kháng nghị), nhằm đạt
mục đích trong tồn bộ các giai đoạn TTHS là tuyên một bản án (quyết định)
có hiệu lực pháp luật một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và
đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan người vô tội.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
nói chung và của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện núi riờng trong tố
tụng hỡnh sự


16

1.1.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hỡnh sự
Việt Nam
Thực hành quyền cụng tố và kiểm sỏt việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của ngành KSND. Điều 107 Hiến
pháp 2013 nước Cộng hũa xó hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 1 Luật tổ chức
VKSND năm 2002 quy định : VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Chức năng thực hành quyền công tố:
Theo quan niệm của một số nhà nghiờn cứu thỡ họ cho rằng: quyền
cụng tố là quyền nhõn danh quyền lực cụng thực hiện việc truy cứu trỏch
nhiệm hỡnh sự đối với người phạm tội, đây là quyền của nhà nước, gắn liền
với bản chất từng kiểu nhà nước và chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hỡnh sự.
Phạm vi quyền này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đó
cú hiệu lực phỏp luật, khụng bị khỏng nghị. Đối tượng tác động của quyền công
tố là tội phạm và người phạm tội. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp
luật nhà nước từ năm 1960 đến nay thỡ Viện kiểm sỏt nhõn dõn chớnh là cơ
quan được giao chức năng thực hành quyền cơng tố. Khơng có cơ quan nhà
nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng quyền công tố; bắt, giam,
điều tra, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không.
Xuất phỏt từ chỗ coi quyền cụng tố là việc truy cứu trỏch nhiệm hỡnh
sự đối với người phạm tội, có quan điểm cho rằng: “Thực hành quyền cơng tố
là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng
hỡnh sự để truy cứu trách nhiệm hỡnh sự, người phạm tội, đưa người phạm
tội ra xét xử trước tũa ỏn và bảo vệ sự buộc tội đó”.
Từ những quan điểm trên và Điều 13; 17 Luật tổ chức VKSND năm
2002, Điều 112 BLTTHS năm 2003 thỡ thực hành quyền cụng tố là việc sử
dụng tổng hợp cỏc quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hỡnh sự, đối với người phạm tội trong các giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử.



17
Khác với chế định quyền công tố các nước tư bản chỉ có chức năng
buộc tội, quyền cơng tố nước ta bao gồm cả hai nội dung: buộc tội và gỡ tội.
Khi thực hiện quyền cơng tố, VKS đó thay mặt quyền lực nhà nước, cụ thể là
thay mặt cho nhõn dõn truy tố ra Tũa những người phạm tội và cũng là cơ sở
pháp lý để Tũa ỏn xử vụ ỏn thụng qua quyết định truy tố của VKS ND, đồng
thời cũng xác định phạm vi xét xử của TA.
Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả
các quyền năng tố tụng nhằm đảm bảo phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm không làm oan người vô tội
(Điều 16 Luật tổ chức VKS ND năm 2002).
Luật tổ chức VKS ND 2002 đó cú bước phát triển mới với điều luật
riêng cũng như việc phân định rừ ràng nội dung thực hành quyền cụng tố ở
giai đoạn điều tra và thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử vụ án hỡnh sự.
Cụng tỏc kiểm sỏt tớnh hợp phỏp trong việc điều tra, truy tố bị can trước pháp
luật trên cơ sở kết quả điều tra vụ án để chứng minh được người phạm tội.
Từ đó có thể buộc tội bị cáo và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tũa bằng
cỏch cụng bố bản cỏo trạng, thụng qua xột hỏi, trỡnh bày lời luận tội và tranh
luận trước phiên Tũa sơ thẩm; nếu bản án có kháng cáo, kháng nghị thỡ tham
gia xột hỏi và trỡnh bày lời kết luận về khỏng cỏo, khỏng nghị trước phiên tũa
phỳc thẩm.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố và điều tra:
Khởi tố vụ án và khởi tố bị can: là việc nhà nước chính thức cơng khai
trước tồn xó hội cú tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các hoạt động thực hành
quyền truy cứu trách nhiệm hỡnh sự đối với người đó thực hiện tội phạm đó.
Khoản 1 Điều 12 Luật tổ chức VKSND 2002 quy định “mọi hành vi
phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội” với quy định này nhằm
tăng cường chức năng thực hành quyền công tố của VKSND ngay từ đầu.

Đồng thời tại khoản 2 Điều 12 Luật tổ chức VKSND 2002 quy định “không


18
để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giam, bị hạn chế cỏc quyền cụng dõn,
bị xõm phạm tớnh mạng, sức khỏe, tụ do, tài sản, danh dự và nhõn phẩm một
cỏch trỏi phỏp luật”. Việc khởi tố vụ ỏn cú ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn
bộ hoạt động TTHS, việc khởi tố vụ án mở ra quá trỡnh đưa người phạm tội
vào đúng quy định tố tụng để làm rừ tội mà người đó thực hiện, tiến hành truy
cứu trách nhiệm hỡnh sự.
Theo quy định tại Điều 104 BLTTHS năm 2003, khi xác định có dấu
hiệu phạm tội thỡ Cơ quan điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hỡnh sự.
Thủ trưởng đơn vị biên phũng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh
sát biển và thủ trưởng các cơ quan khác như cơ quan công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết
định ra quyết định khởi tố vụ ỏn hỡnh sự trong những trong những trường hợp
quy định tại Điều 111 BLTTHS năm 2003, VKS ra quyết định khởi tố vụ án
hỡnh sự trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ
quan nêu trên và trên và trong trường hợp hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ
án, Hôi đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ
án nếu qua việc xét xử tại phiên tũa mà phỏt hiện được tội phạm hoặc người
phạm tội mới cần được điều tra.
Khởi tố bị can là cơ quan nhà nước có thẩm quyền chớnh thức tuyờn bố
về mặt phỏp lý một người nào đó có dấu hiệu tội phạm và đang bị truy cứu
trách nhiệm hỡnh sự. Ở nước ta, khi đủ căn cú để xác định một người đó thực
hiện hành vi tội phạm thỡ Cơ quan điều tra, VKS có quyền khởi tố bị can đối
với họ theo quy định tại các Điều 36 và 126 BLTTHS năm 2003.
Hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện bởi VKS trong giai
đoạn điều tra vụ án hỡnh sự bằng cỏc biện phỏp cụ thể đây: Theo quy định tại
Điều 13 LTCVKS nhân dân 2002 và Điều 112 BLTTHS năm 2003 thỡ thực

hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền và nhiệm vụ, đề
ra yêu cầu và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra: Là VKS đề ra các
yêu cầu tiến hành các hoạt động điều tra để thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm


19
làm rừ cỏo tội phạm xảy ra hay khụng hoặc làm rừ cỏc tỡnh tiết của vụ ỏn,
làm rừ động cơ, mục đích phạm tội, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra. Việc đề ra yêu cầu điều tra trong một số trường hợp cụ thể được thực hiện
ngay khi có tin báo, tố giác tội để làm rừ nội dung tội phạm xảy ra hay khụng
hoặc sau khi khởi tố vụ ỏn hỡnh sự để làm rừ đối tượng gây án, có thể ngay
trong quá trỡnh điều tra để cũng cố chứng cứ về hành vi phạm tội.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử:
Điều 16 Luật tổ chức VKSND năm 2002 đó xỏc định rừ mục đích của
hoạt động thực hành quyền cơng tố của VKSND trong giai đoạn xét xử vụ án
hỡnh sự là bảo đảm truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội. Khi thực hành quyền cơng tố VKSND có quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết
định của Tũa ỏn ; kiến nghị với tũa ỏn cựng cấp dưới khắc phục vi phạm ;
kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phũng
ngừa tội phạm và vi phạm phỏp luật ; nếu cú dấu hiệu tội phạm thỡ khởi tố vụ
ỏn hỡnh sự (Điều 19 LTCVKSND 2002).
Sau khi tuyên bố kết thúc phần bắt đầu phiên tũa và chuyển sang phần
xột hỏi, chủ tọa phiờn tũa yờu cầu KSV đọc bản cáo trạng. Kiểm sát viên đọc
bản cáo trạng, sau đó trỡnh bày ý kiến bổ sung vào cáo trạng nếu có. Đây là
cách thức để buộc tội bị cáo trước phiên tũa. Tiếp ngay sau khi cáo trạng là lời
luận tội. Bản luận tội là một văn bản nghiệp vụ do KSV trỡnh bày tại phiờn
tũa sơ thẩm sau khi kết thúc phần xét hỏi, mở đầu cho việc tranh luận cụng
khai, thể hiện rừ quan điểm của KSV kết luận về tội phạm, người phạm tội,
tính chất của vụ án, nhân thân bị cáo, các tỡnh tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ

trách nhiêm hỡnh sự cho bị cỏo, nguyờn nhõn và điều kiện phạm tội, nhằm
buộc tội bị cáo và đưa cỏc hỡnh thức về loại và mức hỡnh phạt về cỏc biện
phỏp tư pháp và việc giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hỡnh sự. Hoạt
động luận tội đối với bị cáo tại phiên tũa phiờn thẩm là hoạt động thực hiện
chức năng buộc tội, thể hiện quyền lực nhà nước. Lời luận tội của KSV tại


20
phiờn tũa thể hiện quan điểm chính thức về mặt pháp lí của VKSND cơ quan
duy nhất được nhà nước giao chức năng thay mặt nhà nước buộc tội đối với
người có hành vi phạm tội, trong việc xử lý đối với tội phạm và người thực
hiện hành vi phạm tội.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp:
“Kiểm sát” được hiểu là việc kiểm tra và giám sát việc thực thi nhiệm
vụ trên thực tế. Xuất phát từ vị trí, vai trũ của VKSND ta thấy rằng khỏi niệm
“Kiểm sỏt” luụn gắn liền với chức năng của VKSND. Công tác kiểm sát
chính là phương diện, lĩnh vực hoạt động đặc biệt thuộc chức năng của
nghành kiểm sát nhằm mục đích bảo đảm pháp chế XHCN.
Cần khẳng định rằng hoạt động tư pháp phải do cơ quan tư pháp tiến
hành. Tuy nhiên, không phải tất cả các hoạt động của cơ quan tư pháp điều
được gọi là hoạt động tư pháp. Xuất phát từ nghĩa rộng của khái niệm tư
pháp, có thể hiểu hoạt động kiểm sát tư pháp là các hoạt đông liên quan đến
quá trỡnh giải quyết tranh chấp nờn cú thể hiểu cụng tỏc kiểm sỏt hoạt động
tư pháp là kiểm sát các hoạt động chỉ trong phạm vi hoạt động của Cơ quan
điều tra (Công an), Cơ quan xét xử (Cơ quan tũa ỏn), Cơ quan thi hành án
(cục thi hành án). Liên quan đến quá trỡnh giải quyết tranh chấp bao gồm cỏc
hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ về tranh chấp, hoạt động khởi
kiện, khởi tố, truy tố; hoặc động xét xử là thi hành án các phán quyết của Tũa
ỏn trong thực tiễn. Cũng như các cơ quan Nhà nước khác, cơ quan tư pháp
cũng có nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Bên cạnh kiểm sát tư pháp (điều

tra, truy tố, xét xử, thi hành án), mỗi cơ quan cũn cú lĩnh vực khỏc.
Từ việc trỡnh bày trờn cú thể đưa ra khái niệm chung về kiểm sát hoạt
động tư pháp: kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của
VKSND, có nội dung giám sát moi hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
quá trỡnh điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hỡnh sự nhằm đảm bảo cho
pháp luật TTHS được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.


21
VKSND thực hiện chức năng giám sát việc chấp hành pháp luật, các hoạt
động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và
thống nhất. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ nên hoạt động của VKSND sẽ
đảm bảo được tính chính xác, tính khách quan trong thi hành pháp luật.
Kiểm sát khởi tố điều tra:
VKS kiểm sỏt việc tuõn theo phỏp luật trong việc khởi tố vụ ỏn hỡnh
sự đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội (Điều 12 Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 109
BLTTHS năm 2003). VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật đảm bảo mọi tội
phạm đều phải được phát hiện kịp thời và khởi tố điều tra. Việc khởi tố phải
có căn cứ và hợp pháp tức là phải có dấu hiệu tội phạm xảy ra.
Khi VKS kiểm sỏt việc khởi tố vụ ỏn hỡnh sự của cỏc cơ quan tiến
hành tố tụng và có căn cứ thỡ Viện kiểm sỏt phải ra một trong các quyết định
sau: Nếu quyết định của khởi tố vụ án hỡnh sự của cơ quan điều tra, Bộ đội
biên phũng, Hải quõn, Kiểm lõm, lực lượng cảnh sát biển, các cơ quan khác
của công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khơng có căn cứ theo quy định tại Điều 100 BLTTHS
năm 2003 thỡ VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định đó.
Căn cứ vào Điều 113 BLTTHS năm 2003 và Luật tổ chức VKSND năm
2002 quy định VKSND khi kiểm hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
thỡ VKS cú nhiệm vụ và quyền hạn:

Kiểm sát Việc khởi tố và hoạt động điều tra: Kiểm sát các hoạt động
điều tra là việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra. VKS xem xét CQĐT
thực hiện các hoạt động điều tra có đúng quy định BLTTHS năm 2003 hay
không. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng va
người tiến hành tố tụng.
Trong giai đoạn điều tra, kiểm sát các hoạt động tư pháp có nội dung
giám sát mọi hoạt động của Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm


22
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trỡnh điều tra vụ án nhằm
đảm bảo cho việc điều tra được tiến hành theo đúng quy định pháp luật.
Như vậy, VKS khi tiến hành hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn
trong giai đoạn điều tra là tất cả những quyền năng pháp lý do luật định mà
VKS được sử dụng để phát hiện vi phạm của các cơ quan người có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo cho pháp luật được
chấp hàn nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trỡnh điều tra vụ án.
Khi tham gia tại phiờn tũa xột xử cỏc vụ ỏn hỡnh sự cựng với cụng tỏc
thực hành quyền cụng tố, VKS cũn thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được
quy định tại Điều 18 LTCVKSND năm 2002:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tũa ỏn
nhõn dõn;
Kiểm sỏt tuõn theo phỏp luật của người tham gia tố tụng;
Kiểm sát bản án quyết định của Tũa ỏn theo quy định của pháp luật;
Yờu cầu tũa ỏn nhõn cựng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án
hỡnh sự để xét xử, quyết định việc kháng nghị.
Bên cạnh đó hoạt động kiểm sát xét xử các vụ án hỡnh sự cũn quy định
tại Điều 10 LTCVKSND năm 2002 thỡ VKSND cú quyền khỏng nghị theo
thủ tục phỳc thẩm, giỏm đốc thẩm, tái thẩm các bản án quyết định của Tũa ỏn
nhõn dõn làm cơ sở để vụ án được đưa ra xét xử lại; kiến nghị với tũa ỏn nhõn

dõn cựng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử bằng cách hủy
bỏ hoặc cải sửa theo quy định của pháp luật; kiến nghị với với cơ quan, tổ
chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phũng ngừa tội phạm và vi
phạm phỏp luật; nếu cú dấu hiệu tội phạm thỡ khởi tố về hỡnh sự.
Như vậy, đối tượng để kiểm sát ở đây là hoạt động xét xử của Tũa ỏn và
việc tuõn theo phỏp luật của những người tham gia tố tụng, người tiến hành tố
tụng trong giai đoạn xét xử. Từ đó, đối tượng kiểm sát VKS căn cứ quy định của
BLTTHS về trỡnh tự, thủ tục trong xột xử của Tũa ỏn và việc tham gia phiờn tũa


23
của những người tham gia tố tụng để làm căn cứ cho việc kiểm sát. Đây chính là
chức năng pháp lý để thực hiện chức năng kiểm sát xử hỡnh sự của VKSND.
Kiểm sỏt thi hành ỏn:
Theo quy định tại Điều 23 LTCVKSND năm 2002 thỡ đối tượng của
công tác kiểm sát thi hành án là: việc tuân theo pháp luật của TAND, cơ quan
thi hành án. Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan
trong việc thi hành bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của
pháp luật nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó được thực hành đúng pháp
luật, đầy đủ, kịp thời. Thi hành án là giai đoạn kết thúc trỡnh tự tố tụng, là
khõu cuối cựng kết thỳc một vụ ỏn được xét xử nhằm thực thi quyết định của
TA. Thông qua công tác kiểm sát thi hành án, VKS có trách nhiệm đảm bảo
mọi bản án, quyết định được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời. Đống
thời, VKS cũn cú trỏch nhiệm đảm bảo mọi trường hợp miễn, giảm, hoón,
tạm đỡnh chỉ thi hành ỏn phải cú căn cứ và đúng pháp luật hoặc bản án, quyết
định của Tũa ỏn được thi hành đầy đủ, kịp thời và theo đúng pháp luật.
Khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án, VKSND có những nhiệm
vụ quyền hạn sau (Điều 24 LTCVKSND):
Trong quỏ trinh thực hiện kiểm sỏt thi hành ỏn, khi phỏt hiện những vi
phỏp luật trong việc thi hành ỏn, VKS ban hành khỏng nghị, kiến nghị yờu

cầu khắc phục, phũng ngừa vi phạm phỏp luật và đề xuất các biện pháp xử lý.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo có liờn quan cụng tỏc kiểm sỏt thi hành ỏn.
Yêu cầu TAND, Cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành
viên, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc thi hành
án đảm bảo cho việc thi hành án đúng quy định pháp luật. Xuất phát từ việc
thi hành công tác kiểm sát thi hành án bắt đầu từ khi bản án, quyết định của
Tũa ỏn cú hiệu lực phỏp luật hoặc bản ỏn, quyết định được thi hành ngay theo
quy định của pháp luật và kết thúc khi người bị kết án đó chấp hành xong bản
ỏn và đó được xóa án tích.


24
Yêu cầu cơ quan thi hành án kiểm tra việc thi hành án, theo đó cơ quan
thi hành án phải tự kiểm tra việc thi hành án không chỉ đối với những bản án,
quyết định đó cú hiệu lực phỏp luật mà đối với cả bản án, quyết định thi hành
ngay theo quy đinh của pháp luật. Nếu người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành nhưng cơ quan thi hành án không áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành cũng như trong một số trường hợp khác theo quy định thỡ VKS
phải cú căn cứ yêu cầu thi hành án.
VKS có quyền yêu cầu cơ quan, đơn vị và cá nhân cung cấp hồ sơ, tài
liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án ; với quy định này nhằm
phục vụ cho công tác kiểm sát thi hành án nhất là trong những trường hợp
kiểm sát điều tra, xác minh để xem xét, giải quyết khiếu nại về thi hành án
cũng như khi VKS cấp trên xem xét lại kháng nghị của VKS cấp dưới theo đề
nghị của Cơ quan thi hành án.
Tham gia việc xột giảm chấp hành hỡnh phạt, xúa ỏn tớch; khi tiến
hành xột giảm chấp hành hỡnh phạt, xúa ỏn tớch thỡ sự tham gia của VKS
phải tuõn thủ theo quy định tại (khoản 3 Điều 269 và Khoản 2 Điều 270
BLTTHS năm 2003). VKS có quyền đề nghị TA cùng cấp việc miễn chấp
hành hỡnh phạt cải tạo khụng giam giữ, miễn chấp hành toàn bộ hay một

hỡnh phạt tự cũn lại, miễn chấp hành hỡnh phạt tiền cũn lại.
Kháng nghị với TAND, cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, chấp
hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thi hành án; yêu cầu đỡnh
chỉ việc thi hành ỏn, sửa đổi hoặc bói bỏ quyết định có vi phạm pháp luật
trong việc thi hành án, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật trong việc thi
hành án; nếu có dấu hiệu tội phạm thỡ khởi tố về hỡnh sự.
1.1.2.2. Nhiệm vụ quyền hạn của viện kiểm sỏt nhõn dõn cấp huyện
trong thực hành quyền cụng tố ở cỏc giai đoạn của tố tụng hỡnh sự
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát ở giai đoạn khởi tố điều tra:
Trong TTHS, Điều 23 Bộ luật tố tụng hỡnh sự (BLTTHS) quy định:
VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong


25
TTHS, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời;
việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, khơng làm oan người vơ
tội. VKS có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng (CQTHTT), người tiến hành tố tụng (NTHTT) và người
tham gia tố tụng (NTGTT), áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định
để loại trừ việc làm vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
Việc thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS là một
dạng thực hành quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Khơng có cá
nhân nào, cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế VKS trong việc truy tố kẻ
phạm tội ra trước toà, trong việc thực hiện quyền kiểm sát hoạt động điều tra,
kiểm sát hoạt động xét xử...
So với các CQTHTT khác, như Cơ quan điều tra (CQĐT), TA chỉ chịu trách
nhiệm đối với phần việc thuộc phạm vi thẩm quyền của mỡnh ở từng giai đoạn tố
tụng nhất định, trong khi đó, VKS khơng những phải hồn thành hoạt động thực
hành quyền cơng tố của mỡnh đúng pháp luật, mà cũn chịu trỏch nhiệm kiểm sỏt

việc tuõn theo phỏp luật của cỏc CQTHTT, NTHTT, NTGTT... nhằm phỏt hiện
kịp thời những vi phạm phỏp luật của bất kỡ ai, của bất kỡ cơ quan hay tổ chức
nào trong suốt quá trỡnh giải quyết vụ ỏn, từ khi cú sự kiện phạm tội xảy ra cho
đến khi thi hành xong bản án, xố án tích. Ngồi ra, khi phát hiện có vi phạm pháp
luật của các đối tượng kể trên, VKS có trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện
pháp thích hợp do pháp luật quy định để loại trừ vi phạm đó.
Với việc quy định trách nhiệm, quyền năng đó, Nhà nước đũi hỏi ở VKS
giỏm sát, thực hiện và bảo đảm một nền tố tụng văn minh, công bằng, khách
quan, trong sạch, đúng pháp luật và có hiệu lực, hiệu quả.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viên kiểm sát ở giai đoạn điều tra và truy tố:
VKS giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, có tính quyết định xuyờn suốt
quỏ trỡnh điều tra, truy tố. Tính quyết định này bắt nguồn từ chỗ độc quyền
truy tố của VKS và khơng ai khác ngồi VKS là Cơ quan chịu trách nhiệm về


×