Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.34 KB, 102 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mơi trường là một trong những yếu tố quyết định đến sự sống, tồn tại
và phát triển của con người, sinh vật. Đồng thời, mơi trường cịn tác động đến
sự phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của địa phương, vùng, quốc gia và cả
nhân loại. Chất lượng cuộc sống hàng ngày, hàng giờ của mỗi chúng ta có
được đảm bảo hay không một phần phụ thuộc vào chất lượng môi trường
sống quanh ta.
Ngày nay, vấn đề về môi trường và bảo vệ mơi trường ln là vấn đề
nóng của các quốc gia dân tộc mà nói rộng hơn là cả nhân loại. Bởi chưa bao
giờ nhân loại lại phải chứng kiến nhiều thảm họa, nhiều sự cố về môi trường,
biến đổi khí hậu và tác hại của ơ nhiễm mơi trường gây ra cho con người như
hiện nay. Đứng trước vấn đề đó buộc con người phải có suy nghĩ sâu sắc hơn
về cơng tác BVMT và phải có biện pháp hữu hiệu hơn để BVMT, bảo vệ giới
tự nhiên, bảo vệ sự sống cịn của chính mình.
Ở Việt Nam, q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã thu
được nhiều thành tựu đáng tự hào, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
người dân. Bên cạnh đó mơi trường nước ta đang bị xuống cấp nhanh, có nơi,
có lúc đã dẫn đến mức báo động, đất đai bị xói mịn, thối hóa, chất lượng các
nguồn nước bị suy giảm mạnh, khơng khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô
nhiễm nặng, khối lượng chất thải độc hại ngày càng tăng, tài nguyên thiên
nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, môi trường sinh thái, đa
dạng sinh học bị đe dọa nghiêm trọng, điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp
nước sạch ở nhiều nơi không đảm bảo. Việc đẩy mạnh phát triển cơng nghiệp,
dịch vụ, q trình đơ thị hóa, sự gia tăng dân số q cao, tình trạng đói nghèo
chưa được khắc phục, những diễn biến xấu về khí hậu, dịch bệnh ngày càng
gia tăng gây áp lực lên môi trường của nước ta nói chung và các địa phương
nói riêng.



2
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định, việc
BVMT vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của sự phát
triển bền vững. BVMT phải được thể hiện trong các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương. Đồng
thời phải được cụ thể hóa thành các văn bản pháp luật của nhà nước và đòi
hỏi phải tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong BVMT, một yêu
cầu chẳng những mang tầm quốc gia mà là nhiệm vụ của từng địa phương,
của từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước, là
nơi thường xuyên diễn ra các sự kiện chính trị, văn hóa lớn của đất nước, các
đồn ngoại giao, khách quốc tế đến Việt Nam điểm đặt chân đầu tiên đó là Hà
Nội. Q trình thực hiện công cuộc đổi mới xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH
cùng với cả nước, Hà Nội đã đạt được những thành tựu nổi bật cả về kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội. Bên cạnh những thành tựu đó thì Hà Nội đang phải
đối mặt với những thách thức về tình trạng ơ nhiễm và suy thối mơi trường
ngày một trầm trọng, đó là tình trạng ơ nhiễm khơng khí khói, bụi và khí thải
nhà máy, tốc độ gia tăng dân số, sự quá tải của phương tiện giao thông, nguồn
nước bị ô nhiễm trầm trọng, xuất hiện những dịng sơng chết (sơng Tô Lịch,
sông Kim Ngưu, sông Nhuệ…); nước thải công nghiệp, chất thải rắn, rác thải
đang là thách thức đối với môi trường Hà Nội.
Nguyên nhân ô nhiễm môi trường Hà Nội tăng cao trong những năm
qua là do ý thức của người dân về bảo vệ môi trường chưa cao, tình trạng vi
phạm pháp luật, coi thường pháp luật bảo vệ mơi trường cịn phổ biến, các
văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường của Hà Nội chưa đầy đủ, một số văn
bản mâu thuẫn, chồng chéo. Cơ quan quản lý chuyên trách về bảo vệ môi
trường vừa yếu lại vừa thiếu. Hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về



3
bảo vệ mơi trường cịn có những bất cập, hạn chế so với yêu cầu nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Để Thủ đô Hà Nội phát triển một
cách toàn diện, xứng đáng là Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả
nước. Hà Nội cần có những giải pháp mạnh hơn nữa để nâng cao năng lực và
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường
của thành phố, thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đơ, đảm
bảo sự phát triển bền vững.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn nêu trên về vấn đề bảo vệ môi
trường, là một công dân Thủ đô, với trách nhiệm của bản thân, học viên chọn
đề tài “Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở thành phố
Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành vấn đề chung của tồn cầu, nó
vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của sự phát triển bền
vững. Hoạt động bảo vệ mơi trường tác động tồn diện đến các lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và bản thân con người, đây là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp
bách. Do đó, được các nhà khoa học, nhà hoạt động môi trường quan tâm
nghiên cứu và đưa các giải pháp nhằm bảo vệ mơi trường. Cho đến nay đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu về quản lý nhà nước nói chung và một số ít cơng
trình nghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ mơi trường nói
riêng được thể hiện dưới nhiều cấp độ khác nhau như: đề tài khoa học, luận
văn, luận án, sách, báo, tạp chí, trong đó, có có các cơng trình nghiên cứu tiêu
biểu như:
- PGS.TS Nguyễn Thị Thơm (2010), Nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước về môi trường ở Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, H.2010.
- TS. Lê Thị Thanh Hà (2013), Nhà nước Việt Nam với vấn đề bảo vệ
mơi trường (trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,



4
nơng thơn), Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội.
- PGS.TS Phạm Thị Ngọc Trầm (2006), Quản lý Nhà nước đối với tài
ngun và mơi trường vì sự phát triển bền vững dưới góc nhìn xã hội nhân
văn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- TS. Hồng Hữu Bình (2006), Những tác động của yếu tố văn hóa xã
hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- PGS.TS Trần Văn Chử (2004), Tài nguyên thiên nhiên môi trường và
phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lưu Đức Hải - Nguyễn Ngọc Sinh (2001), Quản lý môi trường cho sự
phát triển bền vững, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
- Ths. Nguyễn Tiễn Hùng (2009), Vấn đề bảo vệ mơi trường sinh thái
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở ngoại thành Hà Nội hiện nay,
luận văn thạc sĩ triết học.
- Ths. Nguyễn Duy Hà (2008), Quản lý nhà nước bằng pháp luật về
mơi trường ở tỉnh Bình Thuận, luận văn thạc sĩ.
- Ths. Bùi Thanh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh (9/7/2013), “Tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường để
phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản, Hà Nội.
- ThS. Nguyễn Trần Điện - Viện Công nghệ môi trường (07/6/2013)
“Thực hiện pháp luật về bảo vệ mơi trường ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, Hà Nội.
- Vũ Bảo (2010), “Nhìn lại 10 năm thực hiện công tác quản lý tài
nguyên và mơi trường”, Tạp chí Quản lý nhà nước ”, số 177(10).
- PGS. TS Phạm Hữu Nghị (2005). “Vấn đề quản lý nhà nước về bảo
vệ môi trường trong dự thảo luật bảo vệ mơi trường sửa đổi”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật (số 2).
Các cơng trình trên đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm bảo vệ môi trường,



5
nhưng ở mỗi một cơng trình có cách tiếp cận và góc nhìn về hoạt động quản
lý nhà nước đối với vấn đề bảo vệ mơi trường dưới các góc độ và khía cạnh
khác nhau. Có tác giả đứng trên quan quan điểm triết học, thì nhìn nhận vấn
đề bảo vệ mơi trường của nhà nước mang tính khái qt và mang tính phương
pháp luận. Có tác giả dưới góc độ quản lý kinh tế thì nhìn nhận vấn đề quản lý
nước về mơi trường dưới góc độ quản lý nói chung hoặc nghiên cứu và đề ra
giải pháp quản lý về môi trường ở tầm vĩ mô của cả quốc gia với nhiều nhóm
cơng cụ quản lý mang tính định hướng. Xong chưa có cơng trình nào nghiên
cứu về quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở thành phố Hà
Nội, một địa phương nhưng có rất nhiều điểm đặc thù và tính chất riêng biệt
về điệu kiện kinh tế - xã hội và văn hóa. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu đặt ra
“Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở thành phố Hà Nội”
là sự cần thiết, gắn với tình hình thực tế cơng tác bảo vệ mơi trường ở thành
phố Hà Nội hiện nay.
Mặc dù vậy, các công trình khoa học đã được cơng bố trên đây là
những tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và viết luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp
luật về bảo vệ môi trường ở thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất một số quan
điểm và giải pháp cơ bản bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ
môi trường ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về
bảo vệ môi trường:
+ Làm rõ khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước bằng pháp luật về
bảo vệ mơi trường.
+ Làm rõ nội dung, vai trị quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ



6
mơi trường.
- Phân tích thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi
trường ở thành phố Hà Nội trong những năm gần đây.
- Luận chứng khoa học một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm
bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở thành phố
Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ
môi trường, dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Luận văn ghiên cứu quản lý nhà nước bằng pháp luật về
bảo vệ môi trường trong phạm vi thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: các số liệu, dữ kiện đánh giá thực trạng môi trường và
quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở Hà Nội từ 2008 đến
năm 2013.
- Phạm vi về đối tượng nghiên cứu, luận văn nghiên cứu thực trang môi
trường đất, mơi trường nước và mơi trường khơng khí ở Thành phố Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về lý luận
nhà nước và pháp luật nói chung và quản lý nhà nước bằng pháp luật và pháp
luật bảo vệ mơi trường nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp thống kê, so sánh.



7
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn xác định được một số đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp
luật về bảo vệ môi trường. Đồng thời chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế
trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Qua khảo sát thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ
môi trường ở thành phố Hà Nội, luận văn đưa ra một số quan điểm, giải pháp
bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở Thành phố
Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
- Luận văn góp phần khẳng định yêu cầu thực tiễn, đòi hỏi phải thực
hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở Thành phố Hà
Nội. Đảm bảo sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế - xã hội với sự cân bằng
môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân thành phố
Hà Nội và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
- Luận văn sau khi bảo vệ thành công có thể làm tài liệu tham khảo cho
hoạt động quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Thành phố Hà Nội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT VỀ BẢO VỆ MƠI TRƯỜNG


1.1.1. Khái niệm mơi trường, bảo vệ mơi trường và quản lý nhà
nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường
1.1.1.1. Khái niệm môi trường
Môi trường là một khái niệm rất rộng và phong phú, có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau, tùy vào cách tiếp cận và góc độ nghiên cứu ở những
khía cạnh khác nhau để đưa ra một khái niệm về môi trường phù hợp.
Theo Từ điển Bách khoa Laroue:
Mơi trường gồm tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh vật,
cụ thể là các yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra trong khơng gian cụ
thể, nơi đó có sự sống hoặc khơng có sự sống. Các yếu tố đều chịu
ảnh hưởng sâu sắc của những định luật vật lý, mang tính tổng quát
hoặc chi tiết như luật hấp dẫn vũ trụ, năng lượng phát xạ, bảo tồn
vật chất … trong đó hiện tượng hóa học và sinh học là những đặc
thù cục bộ. Môi trường bao gồm tất cả những nhân tố tác động qua
lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật và quần thể sinh vật [1, tr.7].
Theo Hoàng Phê “mơi trường là tồn bộ những điều kiện tự nhiên, xã
hội, trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với
con người, với sinh vật ấy” [37, tr.997].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), “môi trường được hiểu là
các yếu tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh tới đời sống sản xuất, sự tồn tại và phát
triển của con người và thiên nhiên” [23, tr.940].


9
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành: “Môi trường bao gồm các yếu tố
tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng đến đời
sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” [40, tr.7-8].
Từ các khái niệm về môi trường trong Từ điển, do các tác giả nêu ra ở

trên và trong văn bản pháp luật hiện hành, dưới góc độ nghiên cứu của đề tài,
tác giả luận văn rút ra khái quát chung về môi trường như sau: môi trường
bao gồm tổng hợp các yếu tố tự nhiên, yếu tố vật chất nhân tạo bao quanh
con người, ảnh hưởng tới đời sống, đến sự tồn tại và phát triển
của con người. Trong đó các yếu tố tự nhiên chủ yếu như đất,
nước, khơng khí, ánh sáng, các hệ sinh thái, sinh vật… có ảnh
hưởng và chi phối đặc biệt quan trọng đến sự tồn tại và phát
triển của con người. Những yếu tố này phát triển theo quy luật
tự nhiên, nhưng chịu sự chi phối và tác động nhất định của con
người.
1.1.1.2. Khái niệm bảo vệ môi trường và pháp luật về
bảo vệ môi trường
- Khái niệm về bảo vệ môi trường
Theo GS. TSKH Lê Huy Bá:
Bảo vệ môi trường gồm các chính sách, chủ trương, các chỉ thị
nhằm ngăn chặn hậu quả xấu của con người đối với môi trường, các
sự cố môi trường do con người và thiên nhiên gây ra. Bảo vệ mơi
trường cịn bao hàm cả ý nghĩa sử dụng hợp lý tài nguyên thiên
nhiên [1, tr.96-97].
Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995):
Bảo vệ môi trường là tập hợp các biện pháp giữ gìn, sử dụng hoặc
phục hồi một cách hợp lý sinh giới (vi sinh vật, thực vật, động vật
và môi sinh, đất nước, khơng khí, lịng đất) nghiên cứu, thử nghiệm
thiết bị sử dụng tài ngun thiên nhiên, áp dụng cơng nghệ ít có
hoặc khơng có phế liệu… nhằm tạo ra một khơng gian tối ưu cho


10
cuộc sống của con người. Ngồi ra, bảo vệ mơi trường cịn tạo ra
điều kiện tinh thần, văn hóa khiến cho đời sống con người được

thoải mái [23, tr.160].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cho rằng:
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
tồn xã hội và nghĩa vụ của mọi cơng dân. Kết hợp chặt chẽ giữa
kiểm sốt, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo vệ
môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và
tiêu dùng sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải
pháp ứng phó với q trình biến đổi khí hậu và thảm họa thiên
nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp lý, có hiệu quả tài
nguyên quốc gia [14, tr.78].
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành “Bảo vệ môi trường là hoạt động
giữ cho mơi trường trong lành, sạch đẹp, phịng ngừa, hạn chế tác động xấu
đối với mơi trường, ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy thối,
phục hồi và cải thiện môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học” [42, tr.8]. Định nghĩa này khá
đầy đủ về nội dung BVMT là hoạt động giữ cho mơi trường trong lành, sạch
đẹp; phịng ngừa tác động xấu đối với môi trường; phục hồi, cải thiện môi
trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học.
Dựa trên nội dung về BVMT trong Văn kiện của Đảng và văn bản pháp
luật của Nhà nước, cũng như các tác giả nêu ở trên, tác giả luận văn khái quát
về BVMT như sau: Bảo vệ mơi trường là tổng hợp các chủ trương, chính
sách, thể chế và những hoạt động cụ thể của các cá nhân, tổ chức và nhà
nước nhằm khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng
thời có các biện pháp nhằm cải tạo, phục hồi và ngăn ngừa tình trạng ơ
nhiễm mơi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thảm họa thiên nhiên, giữ
gìn sự đa dạng, phong phú của mơi trường vì mục tiêu phát triển bền vững


11
của các quốc gia và sự tồn vong của nhân loại.

Từ khái niệm về BVMT nêu trên chúng ta thấy vấn đề BVMT rất rộng
và phức tạp. Do đó, để hoạt động BVMT có hiệu quả cần có sự tham gia tích
cực và lâu dài của mọi chủ thể trong xã hội, trong đó Nhà nước trước nghĩa
vụ, chức năng quản lý và quyền lực sẵn có phải đóng vai trò là trung tâm của
nhiệm vụ này.
- Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường
Về phương diện lý luận, pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử
sự do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nhà nước cộng hoà xã hội Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN.
Pháp luật XHCN là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước
XHCN ban hành và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tơn trọng và thực hiện.
Pháp luật giữ vai trị đặc biệt quan trọng trong việc BVMT. Chính con
người trong q trình khai thác, sử dụng mơi trường đã làm mất cân bằng
sinh thái, gây ơ nhiễm, suy thối mơi trường. Pháp luật với tư cách là hệ
thống các quy phạm điều chỉnh cách xử sự của con người sẽ có tác dụng rất
lớn trong việc BVMT. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người
phải thực hiện khi khai thác, sử dụng các yếu tố của mơi trường; quy định
các chế tài hình sự, kinh tế, hành chính để buộc các cá nhân, tổ chức phải
thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc khai thác và sử dụng
các yếu tố của môi trường; quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các
tổ chức BVMT. Đồng thời pháp luật còn quyết định các tiêu chuẩn mơi
trường, ví dụ: Tiêu chuẩn về độ ồn, tiêu chuẩn về nước sạch, tiêu chuẩn về
khơng khí… Các tiêu chuẩn môi trường là cơ sở pháp lý cho việc xác định vi
phạm pháp luật về BVMT. Chúng là cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm đối
với những hành vi vi phạm pháp luật về BVMT. Pháp luật có vai trị BVMT



12
trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến BVMT. Tranh chấp mơi
trường có thể xảy ra giữa cá nhân với nhau, song cũng có khi xảy ra giữa cá
nhân với các doanh nghiệp hoặc với các cơ quan nhà nước.
Từ những phân tích và luận giải trên có thể rút ra khái niệm pháp luật
về bảo vệ môi trường như sau: Pháp luật về bảo vệ môi trường là hệ thống
các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc khai thác sử dụng, tiết kiệm,
bảo vệ, giữ gìn, quản lý tài nguyên thiên nhiên (tổ chức quản lý hoạt động
bảo vệ môi trường) nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quyền con
người được sống trong môi trường trong lành gắn kết hài hoà với phát triển
kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước, góp phần
bảo vệ mơi trường khu vực và tồn cầu.
Các quy định về BVMT được quy định trong Hiến pháp là cơ sở hiến
định cho việc đưa nghĩa vụ BVMT vào các lĩnh vực cụ thể của đời sống kinh
tế - xã hôi. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, ngày 29/12/1993, Quốc hội Nước
CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường, đạo luật đầu tiên
về BVMT ở nước ta và được thay thế bởi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005,
được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày 29/11/2005, trong đó, quy
định khá toàn diện, đầy đủ và cụ thể những vấn đề BVMT, điều kiện quan
trọng của quá trình phát triển bền vững, góp phần tạo nên cơ sở pháp lý vững
chắc cho việc BVMT ở nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, đi đôi với
hội nhập và hợp tác quốc tế.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước bằng pháp luật
về bảo vệ môi trường
Về phương diện lý luận quản lý nhà nước được hiểu là sự tác động có
mục đích, chủ yếu bằng pháp luật của các tổ chức, cá nhân mang quyền lực
nhà nước lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối
ngoại của Nhà nước.



13
Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội, đã có rất nhiều cơng cụ
quản lý được các nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội
nhằm đạt đến một trật tự mà giai cấp thống trị mong muốn. Tuỳ thuộc vào đặc
điểm lịch sử, văn hố, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia
trong từng thời kỳ mà các chủ thể quản lý nhà nước có sự linh hoạt, sáng tạo
trong việc vận dụng, kết hợp các công cụ quản lý khác nhau, nhằm đạt hiệu
quả tối ưu nhất. Điều này lý giải tại sao trong cùng một giai đoạn, có quốc gia
dùng pháp luật làm cơng cụ cơ bản để quản lý nhà nước, có quốc gia lại chủ
yếu dùng đạo đức, phong tục tập quán, tiền lệ, các tín điều tơn giáo... Hay
trong chính một quốc gia, tuỳ từng thời kỳ có thể dùng pháp luật (pháp trị)
hoặc đạo đức (đức trị) hoặc kết hợp cả hai cơng cụ đó để quản lý nhà nước.
Trong rất nhiều cơng cụ nêu trên, pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng
trong quản lý nhà nước, khơng có pháp luật, nhà nước khơng thể quản lý được
xã hội có hiệu quả. Quy định của nhà nước không chỉ thể hiện dưới hình thức
của một chính sách hay thể hiện trong một bài phát biểu hoặc một bài báo...,
mà nó thể hiện dưới hình thức pháp luật khơng phải do ngẫu nhiên mà có. Ở
phần lớn các quốc gia và vào mọi thời điểm, nếu chính sách khơng được thể
hiện dưới hình thức văn bản pháp luật thì xã hội, kể cả cán bộ, công chức
(CBCC) sẽ không cảm thấy bắt buộc phải tuân thủ. Trong quá trình phát triển,
pháp luật đóng nhiều vai trị quan trọng như: Pháp luật đảm bảo cho xã hội
tồn tại và phát triển ổn định, có trật tự. Pháp luật ghi nhận và thể chế hố
quyền con người, quyền cơng dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các quyền
đó thực hiện. Nhờ có pháp luật, các hành vi xâm hại trật tự xã hội được hạn
chế, phòng ngừa và từng bước bị loại bỏ khỏi đời sống xã hội. Pháp luật là
công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội. Nhà nước dựa vào pháp luật
để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm sốt hoạt động các cơ
quan, tổ chức, cá nhân... Do đó có thể nói, pháp luật là công cụ hữu hiệu để
bảo vệ và bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong xã



14
hội, góp phần tạo ra mơi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ
ngoại giao với các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Nói đến quản lý nhà nước bằng pháp luật chính là nói đến một phương
thức quản lý trong đó pháp luật được sử dụng như một công cụ quan trọng.
Một nhà nước muốn quản lý có hiệu quả phải biết dựa vào pháp luật, biết sử
dụng pháp luật để quản lý xã hội. Quản lý nói chung, quản lý nhà nước bằng
pháp luật nói riêng là một khoa học, đồng thời còn là một nghệ thuật, đòi hỏi
nhiều kiến thức xã hội, tự nhiên, kỹ thuật, luật pháp... và phải biết sử dụng đồng
bộ, linh hoạt, sáng tạo các công cụ, phương tiện quản lý. Vì thế, bên cạnh pháp
luật, nhà nước cần sử dụng kết hợp các công cụ, phương tiện quản lý khác, như:
đạo đức, truyền thống dân tộc để tăng cường công tác quản lý nhà nước. Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức” [11, tr.129].
Từ các quan niệm trên, quản lý nhà nước bằng pháp luật được hiểu là
phương thức hoạt động của Nhà nước, dùng công cụ pháp luật để tác động
lên các quá trình xã hội, nhằm thiết lập, duy trì trật tự xã hội.
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT là một hoạt động của quản
lý nhà nước, nó thực hiện quản lý một lĩnh vực của đời sống - xã hội, đó là
lĩnh vực BVMT. Đây là một nhiệm vụ của cơ quan cơng quyền, của các cấp
chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong bộ máy nhà nước. Một
trong những công cụ quản lý đảm bảo thực thi và mang lại hiệu quả nhất
trong hoạt động quản lý của Nhà nước đó là cơng cụ pháp luật. Pháp luật
được coi là công cụ hữu hiệu tác động lên ý thức, hành vi của con người,
trong các hoạt động của họ, trong đó có hoạt động khai thác, sử dụng hợp lý
tài nguyên và BVMT.
Pháp luật về BVMT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật

Việt Nam, đây là công cụ, phương tiện để Nhà nước thực hiện quản lý một


15
cách có hiệu quả đối với lĩnh vực BVMT, một lĩnh vực đa dạng, phức tạp đan
xen nhiều mối quan hệ tác động của các chủ thể (cá nhân, tổ chức) và các yếu
tố tự nhiên ảnh hưởng đến môi trường hàng ngày, hàng giờ. Vì vậy, Nhà nước
cần phải xây dựng và ban hành một hệ thống các quy phạm pháp luật tương
đối hoàn thiện, đồng bộ để điều chỉnh và thực hiện nhiệm vụ quản lý, BVMT
trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Qua việc mơ tả và phân tích các nội dung liên quan đến công tác quản
lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT ở trên, tác giả luận văn cho rằng: Quản
lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường là một hoạt động mang tính
tổ chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, nhằm
thực thi các hoạt động như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, tổ chức thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực đời sống xã hội liên
quan đến bảo vệ môi trường, đồng thời thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ môi trường. Đây là quá trình được thực hiện dưa trên cơ sở các quy định
của pháp luật về BVMT nhằm điều chính các quá trình xã hội và hành vi của
mọi cá nhân, tổ chức để làm hài hòa các mối quan hệ giữa con người với môi
trường. Phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu mọi mặt của
con người, nâng cao chất lượng cuộc sống, BVMT sinh thái, đảm bảo mục
tiêu phát triển bền vững nhằm hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước trong công tác BVMT.
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật về
bảo vệ môi trường
1.1.2.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ mơi trường là
hoạt động có tính chất liên ngành và đa ngành
Từ khái niệm về bảo vệ môi trường, chúng ta thấy đối tượng quản lý

trong lĩnh vực BVMT rất đa dạng và phức tạp, khó giới hạn về mặt khơng
gian, cũng như thời gian, vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính vơ hình.


16
Những yếu tố cấu thành môi trường như đất đai, tài ngun, khống sản, mặt
nước... là những thứ mang tính hữu hình có thể xác định được; cịn ánh sáng,
khơng khí, tiếng ồn... là những thứ vơ hình khó có thể xác định được về mặt
không gian và thời gian. Do vậy, trong công tác quản lý phải thiết lập và phối
kết hợp liên ngành, đa ngành giữa các cơ quan có thẩm quyền chung và cơ
quan có thẩm quyền riêng, giữa cơ quan chuyên trách về BVMT với cơ quan
quản lý nhà nước về các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động BVMT. Do
đó, các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, cũng như địa phương phải có
sự phối kết hợp và quản lý đan xen. Đơn cử như khi nước sông Thị Vải bị ô
nhiễm, đòi hỏi rất nhiều cơ quan phải vào cuộc và phối kết hợp để giải quyết,
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chuyên môn quản lý chuyên ngành
phải chịu trách nhiệm chính, nhưng các cơ quan khác phải vào cuộc để giải
quyết ngăn ngừa và khắc phục hậu quả ô nhiễm cũng như việc xác định
nguyên nhân gây ơ nhiểm và mức độ ơ nhiễm đó là Bộ Công thương, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Cơng an, Tịa án Nhân dân, Viện
Kiểm sát nhân dân..., chính quyền địa phương các cấp và chính người dân địa
phương nơi có sự cố mơi trường phải vào cuộc để cùng phối kết hợp giải
quyết.
Hệ thống cơ quan quản lý BVMT được thiết lập từ Trung ương đến địa
phương, đứng đầu là Chính phủ sau là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, bao gồm:
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thông, Bộ
Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Công
an (Tổng cục Cảnh sát môi trường)...
Các cơ quan ở địa phương: Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân
các cấp, các Sở, Ban, ngành có liên quan như: Sở Tài nguyên và Môi trường,

Sở Nông nghiêp và Phát triển nông thôn, Chi cục Kiểm lâm, Sở Xây dựng, Sở
Công thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Y tế ...
sự đa ngành và liên ngành được thể hiện trong chức năng, nhiệm vụ và thẩm


17
quyền của các cơ quan này liên quan đến vấn đề BVMT. Do vậy, trong q trình
quản lý phải có sự phối kết hợp liên ngành để tạo sự thống nhất về quan điểm và
cách thức quản lý để mạng lại hiệu quả trong công tác BVMT. Đồng thời phải tổ
chức thực hiện hết sức khoa học, tránh chồng chéo, mâu thuẫn với nhau.
Văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
BVMT cũng có tính chất liên ngành, nó được quy định ở nhiều ngành luật
khác nhau, đầu tiên là Luật Hiến pháp đạo luật gốc, sau đó đến Luật Bảo vệ
mơi trường, Luật Dân sự, Luật hình sự, Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước,
Luật Khoáng sản, Luật Hàng hải, Luật Phát triển và Bảo vệ rừng..., trong đó
Luật Bảo vệ mơi trường là văn bản pháp lý quan trong nhất về lĩnh vực
BVMT. Do đó, khi xây dựng luật và các văn bản quản lý nhà nước về BVMT
phải đảm bảo tính hệ thống, tính khoa học, nhằm trách sự mâu thuẫn, chồng
chéo về mặt quy định pháp lý đồng thời trách việc bỏ trống quy định pháp
luật về BVMT và phải bảo đảm tính đồng bộ, khả thi.
Nhiệm vụ hiện nay của các chủ thể kinh tế đó là phát triển kinh tế đi
đơi với BVMT đây là một địi hỏi khó khăn. Thực tế không thể phủ nhận
rằng, không dễ dàng kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với BVMT, khai
thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Nhưng ngược lại BVMT
cũng chính là duy trì những điều kiện để kinh tế có thể phát triển bền vững và
lâu dài, do đó khơng thể tách mục tiêu BVMT ra khỏi mục tiêu phát triển kinh
tế. Sự kết hợp giữa mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu BVMT là yêu cầu
tất yếu khách quan của Nhà nước. Chính điều này địi hỏi cần phải có sự phối
hợp, hợp tác giữa các ngành, các cấp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về
BVMT đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững.

1.1.2.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ
môi trường là sự biểu hiện tập trung cao nhất quyền lực
và ý chí của con người đối với tự nhiên
Chức năng quan trọng nhất của Nhà nước đối với BVMT là tổ chức


18
quản lý, điều hành các quan hệ phát sinh giữa con người, cộng đồng xã hội
trong quá trình tác động vào mơi trường tự nhiên. Sự quản lý đó chỉ được
thực hiện bởi ý chí tập trung và biểu thị bằng quyền lực của con người thông
qua hệ thống pháp luật của nhà nước. Điều này đã được C.Mác và Ph.
Ăngghen rút ra khi nghiên cứu pháp luật tư sản “Pháp luật của các ơng chỉ là
ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung
là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định” [11,
tr.132]. Trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT xét trong mối quan
hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên thì Nhà nước đại diện cho con người và
xã hội và là mắt khâu trung gian của của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên.
Do vậy, quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT là cơ sở pháp lý bảo đảm
mối quan hệ bền vững giữa tự nhiên và con người.
Sản xuất vật chất là một tất yếu khách quan của loài người, để duy trì
sự tồn tại và phát triển. Chính sản xuất vật chất mà con người đã tác động vào
môi trường tự nhiên, việc tác động này ngày một tăng lên để nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất của bản thân và xã hội. Nhu cầu của con người về các nguồn
tài nguyên không ngừng tăng lên cả về số lượng, chất lượng và mức độ phức
tạp theo trình độ phát triển của xã hội, chính nhu cầu này buộc con người phải
tiến hành quá trình sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên trong môi
trường. Nhưng không phải lúc nào con người cũng có ý thức BVMT, khai
thác hạn chế, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và khắc phục sự cố mơi trường.
Điều đó, dẫn đến hậu quả là tài ngun ngày càng cạn kiệt, mơi trường ngày
càng suy thối, ô nhiễm. Hậu quả là con người phải trả giá cho những hành

động của mình gây ra đối với mơi trường do làm trái quy luật tự nhiên, bệnh
tật ngày càng gia tăng, thiên tai, lũ lụt ngày càng nhiều, thời tiết, khí hậu ngày
càng khắc nghiệt. Cũng chính nhu cầu cuộc sống bản thân, con người phải
nhận ra rằng cần có hành động bảo vệ thiên nhiên, BVMT sống và phải có
chiến lược đối với cơng tác BVMT, nếu không muốn đối mặt với những hậu


19
quả xấu từ mơi trường do mình gây ra. Con người cần phải sống hài hịa, thân
thiện hơn với mơi trường, cần có ý thức BVMT, cần phải khai thác tài nguyên
thiên nhiên một cách hợp lý, tiết kiệm và khoa học. Để hiện thực hóa nhiệm
vụ này khơng ai khác chính Nhà nước với chức năng của mình phải tiến hành
thực hiện quản lý BVMT.
Pháp luật là ý chí, là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội. Bằng quyền
lực của mình Nhà nước bảo đảm cho pháp luật được thực thi có hiệu lực, hiệu
quả. Thơng qua các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa
phương để thực hiện vai trò quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT. Các
cá nhân, tổ chức, đơn vị nào không chấp hành pháp luật vi phạm về BVMT sẽ
bị xử lý theo quy định của pháp luật, bên cạnh đó pháp luật cũng địi hỏi
chính các cơ quan nhà nước, các chủ thể quản lý nhà nước phải chấp hành và
thực thi nghiêm minh pháp luật. Chính q trình quản lý này là biểu hiện tập
trung cao nhất ý chí quyền lực của con người đối với mơi trường. Vì vậy, pháp
luật hay nhà nước chẳng qua chỉ là ý chí và quyền lực của con người biểu hiện
mà thôi.
1.1.2.3. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ mơi trường địi
hỏi nghiệp vụ kỹ thuật cao
Như chúng ta đều biết, môi trường là một lĩnh vực rất phức tạp, nó ln
vận động, biến đổi, bị chi phối bởi quá trình vận động và biến đổi của tự
nhiện. Do đó, hoạt động quản lý trên lĩnh vực này hết sức phức tạp đòi hỏi
phải sử dụng đồng bộ nhiều loại phương tiện, công cụ hỗ trợ và địi hỏi phải

có sự vào cuộc của nhiều cấp, nhiều ngành cùng phối hợp thì mới mang lại
hiệu quả. Một trong những công cụ hỗ trợ quan trọng nhất đó là cơng cụ kỹ
thuật, phải có cơng cụ kỹ thuật tiên tiến, đồng bộ mới có thể giúp hỗ trợ cho
cơ quan quản lý nhà nước trong cơng tác kiểm tra, giám sát và kiểm sốt chất
lượng mơi trường được tốt, đồng thời giúp xác định chính xác mức độ gây ơ
nhiễm để có chế tài xử lý thích hợp nhằm BVMT. Phải có đầy đủ các phương


20
tiện kỹ thuật để có thể xác định được hiện trạng môi trường, hàm lượng, trữ
lượng, các tiêu chuẩn kỹ thuật trong đánh giá tác động môi trường, các thiết bị
quan trắc mơi trường... Phải có cơng cụ kỹ thuật hỗ trợ mới cung cấp cho con
người những thông tin có cơ sở khoa học, từ đó các cơ quan quản lý nhà nước
về môi trường mới đề ra được các giải pháp, phương án BVMT một cách khả
thi và hiệu quả. Việc sử dụng phương tiện kỹ thuật sẽ giúp cho việc giám
định, đánh giá để đưa ra những kết luận chính xác mức độ thiệt hại do những
hành vi vi phạm pháp luật BVMT gây ra cho môi trường, từ đó mới xác định
trách nhiệm của các chủ thể, trên cơ sở đó mới đưa ra được các quyết định xử
lý một cách chính xác, thuyết phục.
Việc sử dụng cơng cụ, phương tiện hỗ trợ kiểm sốt, đánh giá tác động
của mơi trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm giảm thiểu tiêu cực tới
môi trường, hạn chế các tác động tiêu cực của dự án, hoạt động phát triển tới
mơi trường.
1.2. NỘI DUNG, VAI TRỊ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

1.2.1. Nội dung quản lý nhà nước bằng pháp luật về
bảo vệ môi trường
Quản lý nhà nước bằng pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta hiện
nay theo nghĩa chung nhất được hiểu là quá trình nhà nước bằng cách thức,

công cụ và phương tiện khác nhau tác động đến các hoạt động của con người
nhằm làm hài hịa mối quan hệ giữa mơi trường và phát triển sao cho vừa thỏa
mãn nhu cầu về mọi mặt của con người vừa bảo đảm được chất lượng của
môi trường sống. Mặc dù Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 không liệt kê
những nội dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường như Luật Bảo vệ môi
trường năm 1993, nhưng qua nghiên cứu, đánh giá có thể rút ra những nội
dung quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cơ bản như sau:
1.2.1.1. Nhà nước xây dựng, ban hành hệ thống chính sách, pháp


21
luật bảo vệ môi trường
Để BVMT Nhà nước sử dụng tổng hợp các biện pháp như chính trị,
kinh tế, giáo dục, công nghệ..., các biện pháp này sẽ hỗ trợ, tương tác cho
nhau, nhằm giữ cho môi trường trong lành, ngăn chặn và khắc phục những
hậu quả xấu do con người, thiên nhiên gây ra. Trong các biện pháp BVMT,
mỗi biện pháp có điểm mạnh và điểm hạn chế riêng, trong đó pháp luật là một
trong những cơng cụ quản lý của nhà nước mang lại hiệu quả nhất.
Pháp luật BVMT là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do
nhà nước ban hành hay thừa nhận, thể hiện ý chí chung của tồn xã hội, thơng
qua Nhà nước, phản ánh phù hợp với các quy luật tự nhiên, quy luật của đời
sống xã hội, phản ánh nguyện vọng được sống trong môi trường trong lành
của con người nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội
với BVMT, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, nó là các văn bản quy
định những điều được làm và những điều không được làm và những điều kiện
bắt buộc phải thực hiện để BVMT, đồng thời nó cũng quy định các chế tài để
buộc những người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định
của pháp luật về BVMT phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý tương ứng với
hành vi do mình gây ra cho môi trường.
Để quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT đạt được hiệu quả, đảm

bảo mục tiêu phát triển bền vững, một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
Nhà nước đó là phải xây dựng và ban hành được một hệ thống chính sách,
pháp luật đồng bộ và tương đối hoàn chỉnh, đủ về số lượng, đảm bảo về chất
lượng, có tính khả thi cao trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đồng thời phải có chiến lược,
sách lược và tầm nhìn về cơng tác BVMT lâu dài, với mục tiêu nhất quán phát
triển phải đi đôi với BVMT. Việc xây dựng chiến lược BVMT đánh dấu một
bước chuyển quan trọng của Nhà nước trong cả nhận thức lý luận và nhận
thức về tính cấp thiết của vấn đề BVMT ở Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh


22
phát triển kinh tế - xã hội và thấy rõ tầm quan trọng của việc BVMT.
Xây dựng và ban hành văn bản quản lý là khâu quan trọng trong hoạt
động quản lý nhà nước bằng pháp luật, là hình thức, phương tiện không thể
thiếu được của chủ thể quản lý nhà nước. Sự có mặt của các văn bản pháp luật
trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước có thể được hiểu như sự
“tập trung quyền lực của nhà nước, nhằm điều hành có hiệu quả nhất hoạt
động quản lý bằng pháp luật”.
Tóm lại, hoạt động xây dựng pháp luật về BVMT là hoạt động của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân được Nhà nước trao quyền, có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, theo những trình tự thủ tục nhất định nhằm
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về
BVMT, đồng thời thể hiện ý chí chung của toàn xã hội thành các quy định của
pháp luật về bảo vệ môi trường và là công cụ để thực hiện quản lý nhà nước
bằng pháp luật về BVMT.
Từ những phân tích và lý giải ở trên chúng ta thấy tầm quan trọng của
cơng tác xây dựng chính sách, pháp luật bảo đảm cho nhiệm vụ quản lý nhà
nước bằng pháp luật về BVMT là một đòi hỏi tất yếu khách quan. Muốn hoạt
động quản lý nhà nước về BVMT hay một lĩnh vực kinh tế - xã hội nào khác

đạt hiệu quả, trước hết chúng ta phải có một hành lang pháp lý đầy đủ, đồng
bộ và có tính khả thi. Đây là một việc làm hết sức khóa khăn cần sự vào cuộc
của các cấp, các ngành, của chính quyền địa phương các cấp, có sự tham gia
của mọi tầng lớp nhân dân, các nhà khoa học, cần tham khảo kinh nghiêm
quốc tế, nhưng phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam trách sự sao chép, máy
móc, cứng nhắc và phải đảm bảo quy luật khách quan. Môi trường là một
trong yếu tố vật chất luôn vận động và biến đổi theo các quy luật tự nhiên. Do
đó, cơng tác xây dựng pháp luật về BVMT phải ln ln được hệ thống hóa
và pháp điển hóa thường xuyên đáp ứng yêu cầu quản lý theo mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Tiếp tục rà soát, chỉnh


23
sửa bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT và các văn bản pháp
luật có liên quan để đảm bảo sự phù hợp, thống nhất, tránh chồng chéo, mâu
thuẫn. Cần xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT
đang thiếu so với yêu cầu thực tiễn của công tác BVMT hiện nay.
1.2.1.2. Tổ chức thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường
Hiệu quả điều chỉnh của các văn bản pháp luật đến đâu, nó có được đi
vào cuộc sống hay khơng, một trong những việc làm mang tính quyết định đó
là tổ chức hiện hiện pháp luật hay nói cách khác là đưa pháp luật đi vào thực
tiễn đời sống. Một văn bản pháp luật có chất lượng, hồn thiện đến đâu nhưng
nêu không tổ chức thực hiện, không tuyên truyền, giải thích thì văn bản đó
cũng chỉ là văn bản mà thơi, nó chỉ có giá trị trên giấy. Pháp luật tự mình
khơng thể đi vào cuộc sống mà phải tổ chức thực hiện pháp luật. Theo giáo
trình lý luận nhà nước và pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2008: “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các
quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống trở thành những hành
vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật” [46].
Từ khái niệm và phân tích ở trên, có thể khẳng định tổ chức thực hiện

pháp luật về BVMT là một yêu cầu tất yếu khách quan của quản lý nhà nước
bằng pháp luật về BVMT. Việc xây dựng pháp luật về BVMT và tổ chức thực
hiện pháp luật về BVMT phải tiến hành một cách đồng bộ thì hoạt động quản
lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT mới có hiệu quả. Tổ chức thực hiện
pháp luật về BVMT chính là q trình tổ chức thực hiện quan hệ pháp luật về
BVMT, nhằm đưa pháp luật về BVMT đi vào cuộc sống.
Cũng như hoạt động thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật
về BVMT được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau: có thể là hoạt động
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tổ chức xã hội, hoặc cũng có thể là
hành vi của mỗi cá nhân với nhiệm vụ BVMT. Thực hiện pháp luật về BVMT
được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hành vi hợp pháp của chủ thể pháp luật.


24
Hành vi đó có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với quy định của pháp luật về
BVMT. Vì vậy, tất cả các hoạt động của các chủ thể pháp luật phù hợp với các
quy định của pháp luật về BVMT được coi là hoạt động thực hiện pháp luật
về BVMT.
Tổ chức thực hiện pháp luật trong quản lý nhà nước bằng pháp luật về
BVMT là một hình thức của thực hiện pháp luật về BVMT. Nó được thực
hiển bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với tư cách là chủ thể quản lý nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các quy phạm pháp luật về BVMT. Đây là một
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự thủ tục
luật định. Ví dụ: quy trình thẩm định và phê duyệt đánh giá tác động môi
trường được thực hiện bởi một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về BVMT với một bên là cá nhân, tổ chức
thuộc đối tượng quản lý của pháp luật về BVMT có nghĩa vụ phải tuân thủ,
chấp hành và thực thi các quy định của pháp luật về BVMT.
Để tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT và
nhằm đưa pháp luật BVMT thực sự là công cụ quản lý của nhà nước trong

việc BVMT của nước ta trong giai đoạn hiện nay, thì việc tổ chức thực hiện
pháp luật BVMT không chỉ diễn ra đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
mà cịn phải biết huy động nguồn lực xã hội, các tổ chức chính trị, đồn thể
nhân dân, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ, các cá nhân có thể tham
gia hoạt động BVMT, trên cơ sở pháp luật hiện hành về BVMT.
Trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT cần xem xét tới
các yếu tố có tính chi phối, ảnh hưởng đến hiệu quả tác động trong các quan
hệ xã hội, như phong tục, tập quán, văn hóa vùng miền, trình độ dân trí, điều
kiện kinh tế xã hội của từng vùng, từng địa phương để đạt hiệu quả cao trong
nhiệm vụ BVMT. Phải biết kết hợp các chuẩn mức xã hội khác cùng với
chuẩn mực pháp luật để cùng điều chỉnh một quan hệ xã hội có tính phức tạp
đó là lĩnh vực BVMT. Cùng với việc sử dụng công cụ pháp luật để quản lý


25
BVMT cần có các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục để thực
hiện mục tiêu BVMT. Cuối cùng để mọi người dân, mọi tổ chức hiểu và thấy
được tầm quan trọng của công tác BVMT và coi BVMT là bảo vệ chính mình,
từ đó nâng cao ý thức về BVMT.
Để tổ chức thực hiện pháp luật về BVMT trong quản lý nhà nước về
BVMT ở Việt Nam đạt hiệu quả, tránh tình trạng chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ và đùn đẩy trách nhiệm, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan quản lý chuyên ngành với nhau. Cần phân công rõ trách nhiệm, quyền
hạn của từng cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý nhà nước về
BVMT. Tổ chức, xây dựng cơ chế phối hợp đảm bảo thực hiện cơng tác
BVMT vì mục tiêu phát triển chung của đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
cơng chức thực sự có trình độ, năng lực chun mơn, nắm vững pháp luật về
BVMT, có bản lĩnh chính trị, thực thi nhiệm vụ BVMT một cách hiệu quả.
1.2.1.3. Hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường

Quản lý nhà nước là sự tác động có định hướng của chủ thể quản lý lên
đối tượng bị quản lý nhằm mục đích nhất định. Sự tác động của chủ thể quản
lý lên đối tượng bị quản lý là một quá trình phức tạp gồm nhiều dạng hoạt
động khác nhau, trong đó hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát là một yếu tố
khơng thể thiếu trong q trình quản lý. Do đó, hoạt động kiểm tra, thanh tra
và giám sát là một công đoạn không thể thiếu trong quá trình quản lý nhà
nước bằng pháp luật về BVMT. Để việc tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ
không đi chệch mục tiêu, đảm bảo đúng quy trình và đạt được mục đích đề ra,
địi hỏi tất yếu là phải có kiểm tra, giám sát q trình thực hiện. Hiệu quả của
hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật về BVMT phụ thuộc rất lớn vào
hoạt động kiểm tra, thanh tra và giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật
về BVMT.
Kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật BVMT là những


×