Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Thực hiện pháp luật về hộ tịch của ủy ban nhân dân ở thành phố thái bình, tỉnh thái bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.67 KB, 109 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một
người từ khi sinh ra đến khi người đó chết. Đối với mỗi cá nhân, việc đăng ký
các sự kiện hộ tịch là sự xác nhận của nhà nước đối với sự tồn tại của họ và
trong rất nhiều trường hợp giúp họ bảo vệ các quyền của mình (xác định họ
tên, giới tính, quốc tịch, dân tộc, tơn giáo, tình trạng hơn nhân...). Đối với Nhà
nước, việc đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên
của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch,
trên cơ sở đó bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân và gia đình,
đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phịng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Vì vậy, thực hiện pháp luật về hộ tịch
khơng chỉ có ý nghĩa đối với từng con người cụ thể mà nó cịn có ý nghĩa
quan trọng đối với quản lý xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh quốc tế hiện nay,
khi mà quyền con người đã được nhận thức như một giá trị chung của nhân
loại thì hầu hết các quốc gia đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của
việc thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Ở Việt Nam, thực hiện pháp luật về hộ tịch được coi là nhiệm vụ quan
trọng trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thực hiện pháp luật về hộ tịch
là một trong những nội dung đảm bảo quyền con người, quyền cơ bản của
công dân trên thực tế. Qua các kỳ Đại hội, bằng các văn kiện, Đảng ta đã xác
định việc phải phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể,
nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã đề ra quan điểm: “Phải đảm bảo quyền con người,
quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển tồn diện…”
[18, tr.100]. Thể chế hố đầy đủ và kịp thời đường lối, chính sách của Đảng,
Nghị quyết của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm



2
2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách Tư
pháp đến năm 2020), Nhà nước ta đã chú trọng trong việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm ghi nhận và bảo vệ các quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trên thực tế. Đặc biệt là việc Quốc hội
vừa thông qua Hiến pháp sửa đổi 2013, vấn đề quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân được ghi nhận ngay tại chương II của Hiến
pháp và bổ sung thêm một số quyền mới. Cụ thể hóa đường lối của Đảng về
việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, thực hiện pháp luật, cải cách tư
pháp, cải cách thủ tục hành chính, Nhà nước ta đã quan tâm đến việc thực
hiện pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch trong từng giai đoạn thông qua
việc ban hành các văn bản pháp lý khác nhau. Từ Nghị định số 04/NĐ-CP
ngày 16/1/1961 đến Nghị định số 83/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
10/10/1998 và hiện nay là Nghị định 158/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch. Văn bản ban hành sau ln cố
gắng khắc phục những thiếu sót, hạn chế của văn bản ban hành trước.
Về mặt lý luận, thực hiện pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch đã
hình thành và phát triển từ rất lâu đời ở Việt Nam nên đã và đang thu hút sự
quan tâm của nhiều cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học pháp lý.
Nghiên cứu thực hiện pháp luật về hộ tịch khơng những có ý nghĩa khoa học
pháp lý, mà cịn có ý nghĩa chính trị, kinh tế và ý nghĩa xã hội, kết quả nghiên
cứu thực hiện pháp luật về hộ tịch nhằm đảm bảo quyền con người, quyền cơ
bản của công dân trên thực tế. Tuy nhiên, thực hiện pháp luật về hộ tịch là
lĩnh vực phức tạp, phạm vi rộng lớn, liên quan đến tất cả mọi công dân, nên
chưa được các nhà khoa học nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống, chưa hình thành
rõ nét các quan điểm lý luận làm cơ sở tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp
dụng pháp luật về hộ tịch trong thực tiễn. Do đó, việc tổ chức thực hiện pháp
luật về hộ tịch hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế về công tác đăng ký hộ
tịch, nguồn lực, hệ thống tổ chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch,…



3
Về thực tiễn, nằm trong thực trạng chung của cả nước, việc thực hiện
pháp luật về hộ tịch của UBND các cấp ở thành phố Thái Bình, tỉnh Thái
Bình đã và đang tác động tích cực đến đời sống pháp luật của tất cả các tầng
lớp dân cư; đồng thời, tác động đến chất lượng thực thi công vụ của chính
quyền địa phương. Các quyền nhân thân của cơng dân được đáp ứng kịp thời
khi họ có nhu cầu đăng ký các sự kiện hộ tịch. Vì thế, cơng tác thực hiện pháp
luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình đã khẳng định được vị trí,
vai trị trong thực tế cuộc sống, bảo đảm quyền con người, tạo được niềm tin
của nhân dân vào cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương. Tuy nhiên, cơng tác
thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình cịn bộc lộ
những hạn chế và những khó khăn, vướng mắc nhất định cần phải nghiên cứu
để đưa ra các giải pháp khắc phục, đó là: vì có q nhiều văn bản cùng điều
chỉnh trong lĩnh vực hộ tịch đã tạo nên độ phức tạp, gây khó khăn cho cơ
quan hộ tịch khi áp dụng, người dân cũng khó phân biệt việc hộ tịch của mình
sẽ được áp dụng theo văn bản nào. Phương thức đăng ký hộ tịch của UBND
chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp thủ cơng, mức độ tin học hóa cịn
rất hạn chế, hệ thống sổ hộ tịch chưa được cải tiến hợp lý nên hệ thống dữ liệu
hộ tịch bị phân tán, không kết nối được với nhau nên khả năng tra cứu, khai
thác phục vụ cho yêu cầu của người dân và nhu cầu quản lý của các cơ quan,
tổ chức là rất hạn chế. Hiện tại cịn tình trạng sự kiện hộ tịch phát sinh nhưng
đăng ký không kịp thời, chưa đầy đủ và thiếu chính xác; đăng ký quá hạn,
đăng ký lại còn chiếm tỷ lệ tương đối cao, một số tình huống phát sinh trong
quá trình thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND chưa có cách giải quyết…
Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo đảm quyền lợi cho người dân cũng
như thực hiện chức năng quản lý của nhà nước trên địa bàn thành phố.
Trong xu thế mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề thực hiện pháp
luật về hộ tịch nói chung và thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND ở thành
phố Thái Bình nói riêng cần phải tiếp tục nghiên cứu và tổ chức thực hiện để



4
nâng cao chất lượng hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch ở các địa phương
trên địa bàn thành phố nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong các
giao dịch hàng ngày, phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn thành phố Thái
Bình, góp phần vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, đảm bảo điều
kiện cho Việt Nam hội nhập và hợp tác quốc tế.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Thực hiện pháp
luật về hộ tịch của Ủy ban nhân dân ở thành phố Thái Bình, tỉnh Thái
Bình hiện nay" nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hiện pháp luật là một nội dung quan trọng của lý luận chung về
nhà nước và pháp luật. Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay, thực hiện pháp luật được đặt ra như
một nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công
dân. Nếu như pháp luật được ban hành mà không được triển khai vào thực tế
cuộc sống bằng thực hiện pháp luật thì pháp luật đó chỉ nằm trên giấy và
khơng có tác dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Với ý nghĩa quan trọng đó
mà thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về hộ tịch nói riêng
đã được nhiều cơng trình nghiên cứu, trong đó có cả những cơng trình nghiên
cứu về thực hiện pháp luật về hộ tịch đã được công bố như:
- Lê Thanh Bình: Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi phía Bắc
nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học
Luật Hà Nội, 2002.
- Lê Thu Hà: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định,
Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2011.
- Lê Thị Minh Hiếu: Thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Đại học Luật, Hà Nội, 2013.
- Nguyễn Tất Thắng: Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở tỉnh Bắc Ninh,

Luận văn thạc sĩ Luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2010.


5
Ngồi ra, cịn rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học
vấn đề thực hiện pháp luật về hộ tịch. Chẳng hạn như:
- Phạm Thanh Bình: Những điều cần biết về hộ tịch và đăng ký hộ tịch,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.
- Th.S Phạm Trọng Cường: Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, Nxb
Tư pháp, Hà Nội, 2007.
- Th.S Phạm Trọng Cường: Về quản lý hộ tịch, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2004.
- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp: Chuyên đề thông tin
khoa học pháp lý về hộ tịch, Hà Nội, 1995.
- Bài tham luận: Thực trạng công tác đăng ký và quản lý hộ tịch và việc
thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch của Nguyễn Thị Hoa,
Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực, Bộ Tư pháp, trình bày tại Diễn đàn đối
thoại chính sách pháp luật lần thứ nhất 2014.
- Lệ Hoa: Thực tiễn về quan hệ nuôi con nuôi trong nước, Tạp chí Dân chủ
pháp luật năm 2007, số chuyên đề về công chứng, hộ tịch và quốc tịch, tr.196.
- Hồng Lan: Giải quyết việc thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh
hộ tịch, xác định lại dân tộc và giới tính, Tạp chí Dân chủ pháp luật năm
2007, số chuyên đề về công chứng, hộ tịch và quốc tịch, tr.111.
- Lương Thị Lanh: Xem thường tính chính xác trong việc cấp giấy khai
sinh- hậu quả khó lường, Tạp chí Dân chủ pháp luật năm 2007, số chuyên đề
về công chứng, hộ tịch và quốc tịch, tr.159.
- Bài tham luận: Dự án luật Hộ tịch - bước tiến mới trong việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch của Nguyễn Công
Khanh, Cục trưởng Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực, Bộ Tư pháp, trình
bày tại Diễn đàn đối thoại chính sách pháp luật lần thứ nhất 2014.

- Bài tham luận: Đơn giản hóa thủ tục hành chính và giấy tờ cơng dân
trong Dự án Luật Hộ tịch của Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục Kiểm soát thủ


6
tục hành chính, Bộ Tư pháp, trình bày tại Diễn đàn đối thoại chính sách pháp
luật lần thứ nhất 2014.
Các cơng trình khoa học kể trên đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề cơ
bản như:
- Tập trung nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật
nói chung (Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thanh Bình: Thực hiện pháp luật
ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp) hoặc
nghiên cứu về thực hiện pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể (luận văn thạc sĩ của
các tác giả Lê Thu Hà: Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở tỉnh Nam Định).
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về hộ tịch trên thực tế, đề
xuất những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về hộ tịch (Các bài tham luận).
- Nghiên cứu về đăng ký và quản lý hộ tịch (Thạc sĩ Phạm Trọng
Cường: Về quản lý hộ tịch) và thực hiện pháp luật về hộ tịch ở một tỉnh
(Nguyễn Tất Thắng: Thực hiện pháp luật về hộ tịch ở tỉnh Bắc Ninh).
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật về hộ tịch
ở một tỉnh cụ thể chưa nhiều, đặc biệt là ở tỉnh Thái Bình, chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu chun sâu về thực hiện pháp luật về hộ tịch. Tuy
nhiên, các công trình đã được cơng bố có nội dung liên quan đến đề tài sẽ
được tác giả luận văn tham khảo, kế thừa có chọn lọc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích phân tích cơ sở lý luận của thực hiện pháp luật
về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình, phân tích đánh giá thực trạng
thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình, trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND ở

thành phố Thái Bình.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể:


7
- Hệ thống hóa và phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về hộ
tịch của UBND ở thành phố Thái Bình. Luận văn làm rõ khái niệm hộ tịch,
thực hiện pháp luật về hộ tịch; xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm, các
hình thức, nội dung, các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch của
UBND. Đồng thời, luận văn làm rõ tầm quan trọng của thực hiện pháp luật về
hộ tịch nói chung và của UBND ở thành phố Thái Bình nói riêng trong điều
kiện mở cửa, hội nhập hiện nay.
- Khái quát tình hình kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến thực hiện pháp
luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình và hệ thống cơ quan thực
hiện pháp luật về hộ tịch ở thành phố Thái Bình. Phân tích, đánh giá tình hình
thực hiện pháp luật về hộ tịch, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân
trong thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình trên cơ
sở nghiên cứu thực tiễn và những số liệu thống kê của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
- Đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực hiện pháp luật về hộ tịch của
UBND ở thành phố Thái Bình. Đề xuất những giải pháp mang tính khả thi để
đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái
Bình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật về hộ tịch
của Ủy ban nhân dân trên địa bàn thành phố Thái Bình.
- Luận văn nghiên cứu tình hình thực hiện pháp luật về hộ tịch trong
nước trên địa bàn thành phố Thái Bình từ năm 2009 đến nay (khơng nghiên
cứu thực hiện pháp luật về hộ tịch có yếu tố nước ngoài).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách
của Đảng cộng sản, của Nhà nước ta về nhà nước và pháp luật, về thực hiện
pháp luật nói chung và pháp luật về hộ tịch nói riêng.


8
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với phương pháp chuyên ngành.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, lịch sử cụ thể, phân tích tài liệu thứ cấp...
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, đầy đủ, toàn diện
và sâu sắc về thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn thành phố Thái Bình
nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp
luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình, đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về hộ tịch của cán bộ, công chức, các cơ quan thực hiện pháp luật về
hộ tịch ở thành phố Thái Bình và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ những đặc thù và thực trạng thực hiện pháp
luật về hộ tịch của UBND ở thành phố Thái Bình để đề xuất phương hướng
xử lý các tình huống hộ tịch phức tạp trên thực tế.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật và trách
nhiệm của công dân, của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện pháp luật về
hộ tịch ở thành phố Thái Bình.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định các chính
sách về hộ tịch, về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch

hóa gia đình ở tỉnh Thái Bình cũng như của cả nước trong thời gian tới. Luận
văn cũng có thể là nguồn tư liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu liên
quan đến vấn đề hộ tịch.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.


9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HỘ TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ
TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN

1.1.1. Khái niệm hộ tịch
Thực hiện pháp luật về hộ tịch là thực hiện pháp luật trong một lĩnh vực
cụ thể. Do đó, để hiểu khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch, trước hết
chúng ta cần hiểu khái niệm hộ tịch
Về khía cạnh ngơn ngữ, hộ tịch được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Hộ tịch: Các sự kiện trong đời
sống của một người thuộc sự quản lý của pháp luật. Đăng ký hộ tịch, khai báo
hộ tịch với công an khu phố” [66, tr.835].
Theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt: “Hộ tịch: quyển sổ ghi chép tên tuổi,
quê quán, nghề nghiệp của mọi người trong một địa phương” [27, tr.139].
Như vậy, các khái niệm trên đều chủ yếu giải thích về mặt ngữ nghĩa
của từ mà chưa hiểu đầy đủ về hộ tịch (chưa làm rõ các sự kiện trong đời sống
của một người gồm những sự kiện nào được coi là sự kiện hộ tịch, hoặc hiểu
chưa đầy đủ về khái niệm hộ tịch, coi hộ tịch chỉ gồm có tên tuổi, quê quán,
nghề nghiệp của một người). Thậm chí cịn nhầm lẫn giữa 2 khái niệm hộ tịch

và hộ khẩu (Đăng ký hộ tịch, khai báo hộ tịch với công an khu phố). Do đó,
trên thực tế hiện nay vẫn cịn khơng ít người dân, kể cả cán bộ, cơng chức cịn
chưa hiểu đầy đủ khái niệm hộ tịch, chưa phân biệt được hộ tịch với hộ khẩu.
Về mặt pháp lý: Là một khái niệm pháp lý, hộ tịch cũng là một trường
hợp đặc biệt trong hệ thống khái niệm pháp lý. Bản thân từ “hộ tịch” không
dễ định nghĩa, các nhà ngôn ngữ, các nhà khoa học pháp lý phải định nghĩa hộ
tịch bằng cách liệt kê các sự kiện hộ tịch và thể hiện nó trong văn bản quy


10
phạm pháp luật. Do đó, khi nghiên cứu khái niệm hộ tịch chúng ta không thể
không nhắc đến khái niệm “đăng ký hộ tịch” vì để hiểu được nội hàm của
khái niệm hộ tịch các nhà khoa học pháp lý phải liệt kê các sự kiện hộ tịch
trong khái niệm “đăng ký hộ tịch”
Khái niệm hộ tịch được đưa ra lần đầu tiên trong văn bản quy phạm
pháp luật đó là Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ:
“Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người
từ khi sinh ra đến khi chết”. “Đăng ký hộ tịch theo quy định là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền: Xác nhận các sự kiện: Sinh; kết hôn; tử; nuôi con
nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ,
tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký khai sinh,
khai tử quá hạn; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi;
Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ đăng
ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất
tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ hôn
nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
hoặc những sự kiện khác do pháp luật quy định.”
Tiếp đó, tại Khoản 1 Điều 1 Nghị định 158/NĐ-CP ngày 27/12/2005
của Chính phủ đưa ra khái niệm Hộ tịch: “Hộ tịch là những sự kiện cơ bản
xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết”.

Tại khoản 2 đưa ra khái niệm đăng ký hộ tịch: “Đăng ký hộ tịch theo
quy định của Nghị định này là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
a) Xác nhận các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ;
nhận cha, mẹ, con; thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch;
xác định lại giới tính; xác định lại dân tộc
b) Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi
vào sổ hộ tịch các việc: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly
hôn; hủy việc kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.


11
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền (UBND cấp có thẩm quyền xác nhận
các sự kiện: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay
đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác định lại
dân tộc) khi cơng dân có yêu cầu hoặc đối với những sự kiện hộ tịch mà
UBND khơng có thẩm quyền xác nhận thì căn cứ vào quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (Tòa án) để ghi vào sổ hộ tịch những sự kiện hộ tịch
như: xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc kết hôn trái
pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.
Như vậy, chỉ với sự kết hợp khái niệm hộ tịch và đăng ký hộ tịch thì
chúng ta mới hiểu một cách đầy đủ khái niệm hộ tịch, vì sự kiện hộ tịch của
một người từ khi sinh ra đến khi chết là những sự kiện nào thì khái niệm đăng
ký hộ tịch đã chỉ rõ.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác
định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Những
sự kiện đó là: sinh; kết hơn; tử; ni con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con;
thay đổi, cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch; xác định lại giới tính; xác
định lại dân tộc; xác định cha, mẹ, con; thay đổi quốc tịch; ly hôn; hủy việc
kết hôn trái pháp luật; chấm dứt nuôi con nuôi.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch của Uỷ

ban nhân dân
* Khái niệm thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND
Thực hiện pháp luật về hộ tịch là hoạt động có mục đích của các chủ
thể trong việc xác lập các quan hệ pháp luật về hộ tịch, làm cho những quy
định của pháp luật về hộ tịch đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực
tế hợp pháp của các chủ thể.
Nghiên cứu thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND cho thấy :
Thực hiện pháp luật về hộ tịch trước hết là một trong những hình thức
thể hiện chức năng, nhiệm vụ của UBND đã được pháp luật quy định. Khi các
quy phạm pháp luật về hộ tịch được ban hành thì Nhà nước mong muốn sử


12
dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo đảm quyền lợi của
công dân và phục vụ công việc quản lý của nhà nước và xã hội. Điều đó chỉ
có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật về hộ tịch do nhà nước ban hành
được các tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện một cách chính xác, đầy
đủ. UBND là một chủ thể cơ bản làm cho các quy phạm pháp luật về hộ tịch
được thực hiện trong thực tế, làm cho những yêu cầu, quy định của pháp luật
trở thành hiện thực bằng các hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch.
Thực hiện pháp luật về hộ tịch là hành vi hợp pháp của UBND các cấp.
Pháp luật hộ tịch được đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người, nên việc
thực hiện pháp luật về hộ tịch phải thể hiện ở hành vi pháp luật của con
người. Hành vi đó có thể là hành động hoặc khơng hành động phù hợp với
quy định của pháp luật. Nói khác đi, tất cả những hoạt động của UBND các
cấp mà được thực hiện phù hợp với các quy định của pháp luật về hộ tịch thì
đều được coi là biểu hiện của thực hiện pháp luật về hộ tịch. Hành vi thực
hiện pháp luật về hộ tịch của UBND là hành vi hợp pháp nên nó khơng trái
với pháp luật, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật, luôn phù
hợp với các quy định của pháp luật về hộ tịch.

Thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND các cấp là giai đoạn không
thể thiếu và vô cùng quan trọng của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Khi thực
hiện pháp luật về hộ tịch, một mặt nhằm đạt được những mục đích mà Nhà
nước mong muốn. Mặt khác, còn cho phép làm rõ những hạn chế, bất cập
của hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hộ tịch để từ đó có thể đưa ra
những giải pháp hữu hiệu cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản
quy phạm pháp luật về hộ tịch hiện hành và cơ chế đưa pháp luật hộ tịch
vào cuộc sống. Thực hiện pháp luật về hộ tịch nghiêm minh sẽ tạo ra trật tự
cần thiết để các quan hệ trong lĩnh vực hộ tịch tồn tại và phát triển theo
những định hướng mong muốn có lợi cho xã hội, cho nhà nước cũng như
cho các cá nhân.


13
Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm : Thực hiện pháp luật về hộ
tịch của UBND là hoạt động có mục đích của UBND trong việc xác lập các
quan hệ pháp luật về hộ tịch, làm cho những quy định của pháp luật về hộ
tịch đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các cơ
quan nhà nước và mọi công dân.
* Đặc điểm thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND
Ngoài những đặc điểm chung của thực hiện pháp luật, thực hiện pháp
luật về hộ tịch của UBND có những đặc điểm đặc thù sau:
Thứ nhất, về chủ thể: Chủ thể thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND
gồm UBND các cấp, các cán bộ, công chức nhà nước và các cá nhân
UBND các cấp thực hiện pháp luật về hộ tịch thông qua việc thi hành
công vụ của các cán bộ công chức thuộc UBND, cụ thể là tiến hành các hoạt
động đăng ký và quản lý hộ tịch.
Hiện nay, cơ quan nhà nước thực hiện pháp luật về đăng ký và quản lý
hộ tịch ở nước ta gồm:
Ở trung ương, Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất quản lý công

tác hộ tịch trong phạm vi cả nước. Bộ Tư pháp là cơ quan chuyên môn thực
hiện trực tiếp nhiệm vụ Chính phủ giao, chịu trách nhiệm và báo cáo cơng tác
trước Chính phủ về việc thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Ở địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện việc đăng ký và quản
lý hộ tịch trên địa bàn. Giúp việc cho UBND các cấp là Sở Tư pháp (cấp
tỉnh), Phòng tư pháp (cấp huyện) và công chức Tư pháp- hộ tịch (cấp xã).
Trên địa bàn thành phố thuộc tỉnh thì UBND thành phố và UBND các xã,
phường trên địa bàn thành phố là những cơ quan thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Trong việc thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND thì cịn một loại
chủ thể cùng tham gia và trong nhiều trường hợp ảnh hưởng rất lớn đến việc
thực hiện pháp luật của UBND. Đó là các cá nhân (công dân), là chủ thể phổ
biến trong hoạt động thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật về


14
hộ tịch nói riêng. Cá nhân thực hiện pháp luật về hộ tịch thông qua việc đăng
ký các sự kiện hộ tịch như khai sinh, khai tử, kết hôn, nhận ni con
ni...Nếu như cơng dân có ý thức tốt trong thực hiện pháp luật về đăng ký hộ
tịch thì việc thực hiện pháp luật của UBND sẽ thuận lợi và đúng pháp luật và
ngược lại, những sai phạm của công dân sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả
thực hiện pháp luật của UBND, thậm chí dẫn đến những sai sót trong thực
hiện pháp luật về hộ tịch của UBND.
Thứ hai, về phạm vi: Thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND có
phạm vi rất rộng lớn, cả về không gian và thời gian. Các sự kiện hộ tịch
không chỉ diễn ra trên phạm vi một địa phương mà diễn ra trên mọi miền đất
nước, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà nhu cầu giao lưu kinh tế, xã hội
đã khiến các quan hệ pháp luật về hộ tịch vượt ra khỏi phạm vi địa hạt của
một xã, huyện, tỉnh, thậm chí là quốc gia. Do đó, sự kiện hộ tịch của một cá
nhân không chỉ liên quan đến sự quản lý của UBND nơi người đó thường trú
mà còn liên quan đến nhiều địa phương khác trên địa bàn cả nước. Chẳng hạn,

sự kiện đăng ký khai sinh cho con của một người có hộ khẩu thường trú tại
UBND xã X, thuộc tỉnh HD nhưng lại có nhu cầu đăng ký khai sinh cho con
tại UBND xã Y thuộc tỉnh TB (nơi người đó đăng ký tạm trú). Về mặt thời
gian, thực hiện pháp luật về hộ tịch không chỉ liên quan đến các sự kiện hộ
tịch mới phát sinh mà còn liên quan đến nhiều sự kiện hộ tịch xuất hiện từ rất
lâu trong quá khứ (ví dụ việc cải chính, bổ sung, điều chỉnh hộ tịch hay đăng
ký quá hạn, đăng ký lại các sự kiện sộ tịch...)
Thứ ba, về mục đích: Do các sự kiện hộ tịch khơng mang tính kinh tế
mà đó là các giá trị nhân thân cho nên các chủ thể thực hiện pháp luật về hộ
tịch không nhằm mục đích lợi nhuận hay yếu tố vật chất mà mục đích chủ yếu
là để bảo vệ các quyền nhân thân của mình (đối với cơng dân) hoặc đảm bảo
trật tự xã hội (đối với nhà nước). Mục đích thực hiện pháp luật về hộ tịch của
UBND là nhằm đáp ứng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và thực


15
hiện chức năng, nhiệm vụ của UBND. Chính vì mục đích của thực hiện pháp
luật về hộ tịch nói trên đã là điều kiện thuận lợi cho UBND trong thực hiện
pháp luật về hộ tịch (hạn chế được tiêu cực khi thực hiện đăng ký các sự kiện
hộ tịch) nhưng mặt khác cũng là nguyên nhân dẫn đến ý thức của người dân
trong việc thực hiện nghĩa vụ đăng ký hộ tịch còn hạn chế (do hầu hết các sự
kiện hộ tịch khơng trực tiếp mang lại lợi ích kinh tế nên người dân không
quan tâm đến nghĩa vụ đăng ký hộ tịch).
Thứ tư, thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND là một hoạt động bổ trợ
tư pháp. Thực hiện pháp luật về hộ tịch được coi là hoạt động bổ trợ tư pháp
bên cạnh các hoạt động bổ trợ tư pháp khác như: công chứng, chứng thực,
giám định tư pháp, quốc tịch, luật sư....Bình thường, việc thực hiện pháp luật
về hộ tịch nhằm đáp ứng nhu cầu, bảo vệ quyền lợi của công dân và phục vụ
công việc quản lý của nhà nước. Nhưng trong trường hợp có yêu cầu của cơ
quan tiến hành tố tụng về việc sử dụng các giấy tờ hộ tịch để chứng minh một

sự kiện nhân thân liên quan đến một cá nhân nào đó để phục vụ cho việc điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án thì hoạt động thực hiện pháp luật của UBND lại
được coi là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp, phục vụ đắc lực cho
việc giải quyết các vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng.
1.1.3. Vai trò thực hiện pháp luật về hộ tịch của Uỷ ban nhân dân
Thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND là lĩnh vực thể hiện chức
năng xã hội của nhà nước, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính
quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến đổi về hộ tịch, trên cơ sở
đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, đồng thời góp phần xây
dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phịng, dân số, kế hoạch
hố gia đình. Cụ thể là:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND là cơ sở để Nhà
nước hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phịng... và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó. Vì một hệ


16
thống quản lý dữ liệu hộ tịch đầy đủ, chính xác, kịp thời là nguồn thông tin
quan trọng để hoạch định các chính sách xã hội có tính khả thi cao, tiết kiệm
chi phí cho xã hội. Ví dụ: Hệ thống quản lý hộ tịch cung cấp những thông tin
cơ bản về tình hình dân số như cơ cấu dân số theo độ tuổi, giới tính, dân tộc, tơn
giáo, nơi cư trú, tỷ suất sinh, chết, tình trạng hơn nhân...tại từng thời điểm để
phục vụ cho việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế-xã hội: bảo vệ sức
khoẻ nhân dân, chăm sóc bà mẹ trẻ em, phổ cập giáo dục, hơn nhân gia đình...
Thứ hai, thực hiện pháp luật về hộ tịch của UBND có vai trị quan trọng
trong việc bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được
ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật dân sự, như quyền đối với họ tên, quyền
xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền kết hôn, quyền được nuôi
con nuôi... Đăng ký hộ tịch chính là phương tiện để cơng dân được hưởng các
quyền đó. Các dữ liệu về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên các giấy tờ

hộ tịch (giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn...) là sự khẳng định về mặt
pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi cơng dân, mà qua đó có thể đánh giá
người đó có khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật hay không. Sự tồn
tại của một con người trong xã hội được đánh dấu bằng việc cơ quan đăng ký
hộ tịch có thẩm quyền cấp cho người đó một giấy khai sinh. Kể từ thời điểm
đó, đứa trẻ chính thức trở thành một chủ thể pháp luật độc lập, được pháp luật
bảo vệ. Hành vi đăng ký khai sinh của cơ quan hộ tịch là điểm khởi đầu cho
mọi mối quan hệ giữa công dân với nhà nước. Việc Nhà nước tổ chức đăng ký
và quản lý hộ tịch chính là sự bảo hộ của Nhà nước đối với việc thực hiện các
quyền con người, là sự thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước .
Thứ ba, thực hiện pháp luật về hộ tịch có vai trò to lớn đối với việc đảm
bảo trật tự xã hội. Qua hoạt động quản lý bằng hệ thống sổ hộ tịch giúp cho
việc truy tìm nguồn gốc của mỗi cá nhân như: ngày tháng năm sinh, nơi sinh,
dân tộc, quốc tịch, họ tên cha, mẹ... phục vụ cho công tác quản lý dân cư của
nhà nước. Các giấy tờ hộ tịch chứng minh các sự kiện hộ tịch của cá nhân còn


17
được sử dụng làm chứng cứ trong các vụ án hình sự, dân sự, lao động. Chẳng
hạn, để chứng minh một người phạm tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một
chồng theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam thì các cơ quan tiến hành
tố tụng phải sử dụng giấy tờ hộ tịch liên quan đến người đó, đó là sổ đăng ký
kết hơn và giấy chứng nhận kết hơn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
cho họ để chứng minh thời điểm có hành vi vi phạm thì họ đã kết hơn và chưa
ly hơn.
1.2. NỘI DUNG VÀ CÁC HÌNH THỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỘ
TỊCH CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN

1.2.1. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch của Uỷ ban nhân dân
1.2.1.1. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch của Uỷ ban nhân

dân cấp xã
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về đăng ký khai sinh:
Đăng ký khai sinh là một nội dung quan trọng trong thực hiện pháp luật
về hộ tịch của UBND cấp xã. Khai sinh là sự kiện hộ tịch đầu tiên gắn với
nhân thân của mỗi cá nhân khi được sinh ra. Khi đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đăng ký khai sinh có nghĩa là đứa trẻ chính thức được xác định
là một công dân của một nhà nước, được xác định họ và tên, giới tính, ngày
tháng năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tơn giáo….và chính thức xác lập mối quan
hệ pháp lý giữa công dân với nhà nước. Giấy khai sinh được coi là giấy tờ hộ
tịch gốc của mỗi cá nhân, tất cả các giấy tờ hộ tịch khác phải phù hợp với
những nội dung ghi trong giấy khai sinh. Do đó, khi người dân đến đăng ký
khai sinh cho trẻ thì UBND cấp xã phải thực hiện việc đăng ký cho họ theo
đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục đăng ký khai
sinh. Hiện nay, những vấn đề đó được quy định cụ thể tại Nghị định 158 và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của
người mẹ thực hiện việc đăng ký khai sinh cho trẻ em; nếu không xác định
được nơi cư trú của người mẹ, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của


18
người cha thực hiện việc đăng ký khai sinh. Trong trường hợp không xác định
được nơi cư trú của người mẹ và người cha, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi
trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc đăng ký khai sinh.
Để đảm bảo cho mọi cá nhân khi sinh ra đều được đăng ký khai sinh
cũng như yêu cầu quản lý của nhà nước, pháp luật về hộ tịch còn quy định
UBND cấp xã thực hiện đăng ký khai sinh cho những trường hợp đặc biệt như
khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi, cho trẻ sinh ra và sống được 24 giờ trở lên rồi
chết. UBND cấp xã thực hiện đăng ký khai sinh cho những trường hợp trên
theo đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về đăng ký kết hôn:

Kết hôn là một trong những quyền cơ bản của công dân. Việc công dân
đến Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn vừa là để đảm bảo quyền, vừa là
trách nhiệm của công dân. UBND cấp xã nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ
thực hiện việc đăng ký kết hôn khi xét thấy nam nữ đã đáp ứng đầy đủ các
điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình hiện hành. Khi
thực hiện pháp luật về đăng ký kết hôn, UBND cấp xã phải tuân thủ các quy
định của pháp luật về hộ tịch về thẩm quyền, trình tự, thủ tục (Nghị định 158)
Liên quan đến thực hiện pháp luật về đăng ký kết hơn, UBND cấp xã cịn
thực hiện việc cấp giấy xác nhận tình trạng hơn nhân cho cơng dân. UBND cấp
xã nơi công dân cư trú (thường trú hoặc tạm trú) cấp giấy xác nhận tình trạng
hơn nhân khi cơng dân khơng đăng ký kết hơn tại đó mà đăng ký kết hơn tại địa
phương khác. Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là căn cứ để UBND cấp xã nơi
tiến hành đăng ký kết hôn khẳng định việc kết hôn của công dân không vi phạm
nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng. Việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn
nhân của UBND cấp xã phải tuân theo quy định của pháp luật về thẩm quyền,
điều kiện, nội dung, giá trị của giấy xác nhận tình trạng hơn nhân.
Thứ ba, thực hiện pháp luật về đăng ký khai tử:
Khai tử vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân khi có người thân
chết. Do yêu cầu của thực hiện pháp luật về hộ tịch, công dân thực hiện đăng


19
ký khai tử cho người thân ngay cả khi không được hưởng một quyền lợi trực
tiếp nào từ việc đăng ký khai tử.
Đăng ký khai tử là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự
kiện chết của một người và ghi vào sổ đăng ký khai tử, cấp giấy chứng tử cho
người thân của họ. Trên cơ sở đó làm chấm dứt quan hệ pháp lý giữa người
chết với gia đình và đối với xã hội, đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
pháp lý của thân nhân người chết.
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú cuối cùng của người chết thực hiện

việc đăng ký khai tử. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối
cùng của người chết, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi người đó chết thực hiện
việc đăng ký khai tử.
UBND cấp xã còn thực hiện việc đăng ký khai tử cho trẻ chết sơ sinh,
cho người bị Toà án tuyên bố là đã chết. Trẻ em sinh ra sống được từ 24 giờ trở
lên rồi mới chết cũng phải đăng ký khai tử. Nếu cha, mẹ khơng đi khai khai tử,
thì cán bộ Tư pháp hộ tịch tự xác định nội dung để ghi vào Sổ đăng ký khai tử.
Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai tử phải ghi rõ "Trẻ chết sơ sinh".
Về thời hạn và trách nhiệm đi đăng ký khai tử, trình tự, thủ tục đăng ký
khai tử được UBND cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị định 158
Thứ tư, thực hiện pháp luật về đăng ký việc nuôi con ni:
Ni con ni là một chế định luật có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Việc
nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi
ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, đảm bảo cho con nuôi được nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình. Việc ni con ni chỉ có
giá trị pháp lý khi đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm con
nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.
UBND cấp xã thực hiện đăng ký việc nhận nuôi con nuôi khi các bên
đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định, thực hiện theo đúng trình tự,
thủ tục quy định tại Luật nuôi con nuôi.


20
Để đảm bảo cho việc nuôi con nuôi đúng mục đích, pháp luật hiện hành
quy định người nhận con ni phải có đủ các điều kiện như: Có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có điều kiện về sức khỏe,
kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con ni; Có tư
cách đạo đức tốt.
Đồng thời, pháp luật cịn quy định những người khơng được nhận con

ni: Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa
bệnh; Đang chấp hành hình phạt tù; Chưa được xóa án tích về một trong các
tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác;
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có cơng
ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi
phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Hiện nay (kể từ khi Luật Ni con ni có hiệu lực), pháp luật hiện
hành đã quy định về vấn đề ni con ni thực tế. UBND tỉnh Thái Bình đã
có quyết định 2340/QĐ-UBND ngày 05/10/2012 về việc phê duyệt Kế hoạch
triển khai thực hiện đăng ký nuôi con nuôi thực tế trên địa bàn tỉnh theo quy
định của Luật Ni con ni. Theo đó thì UBND cấp xã tiến hành đăng ký
việc nuôi con nuôi thực tế giữa công dân Việt Nam với nhau phát sinh trước
ngày 01/01/2011.
Thứ năm, thực hiện pháp luật về đăng ký việc giám hộ:
Giám hộ là việc cá nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền được
pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Giám hộ là một chế định thể hiện
sự quan tâm sâu sắc của Nhà nước và xã hội ta đối với người chưa thành niên
có hồn cảnh đặc biệt khó khăn và người mất năng lực hành vi dân sự, thể
hiện tính nhân đạo của pháp luật XHCN nhằm bảo vệ các quyền con người,
quyền cơ bản của công dân.


21
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người giám hộ hoặc nơi có trụ
sở của cơ quan, tổ chức đảm nhận giám hộ thực hiện đăng ký việc giám hộ.
Khi thực hiện pháp luật về đăng ký giám hộ, UBND cấp xã phải tuân
thủ các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký việc giám hộ theo
quy định của pháp luật.

Thứ sáu, thực hiện pháp luật về đăng ký việc nhận cha, mẹ, con:
Mỗi người sinh ra đều có cha và có mẹ, quyền có cha, mẹ là một quyền
khơng thể chối bỏ của con người, phù hợp với quy luật tự nhiên, đạo đức xã
hội. Việc nhận cha, mẹ, con nhằm mục đích đảm bảo cho đứa trẻ sinh ra được
chăm sóc tốt nhất, đảm bảo cho chúng có một gia đình thực sự để hồn thiện
nhân cách, trí lực và thể lực.
Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con là cơ sở để xác định mối quan hệ cha con, mẹ - con, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý về nhân thân, tài sản
trong quan hệ giữa cha, mẹ và con. Pháp luật về hộ tịch quy định việc đăng ký
nhận cha, mẹ, con hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện giữa các bên và khi
khơng có tranh chấp.
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được
nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.
Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện pháp luật về đăng ký nhận cha, mẹ,
con theo quy định của pháp luật (Nghị định 158 về đăng ký và quản lý hộ
tịch) về điều kiện, thủ tục đăng ký việc nhận cha, mẹ, con
Sau khi đăng ký nhận cha, mẹ, con, UBND cấp xã nơi đã đăng ký khai
sinh cho người con ghi bổ sung phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai
sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con, nếu phần khai về cha, mẹ
trước đây để trống.
Trong trường hợp Sổ đăng ký khai sinh đã chuyển lưu 1 quyển tại Ủy
ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Ủy ban nhân dân cấp
huyện), thì Ủy ban nhân dân cấp xã thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp
huyện để ghi tiếp việc bổ sung.


22
Trong trường hợp phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và
bản chính Giấy khai sinh của người con đã ghi tên người khác, không phải là
cha, mẹ đẻ, thì đương sự phải làm thủ tục cải chính theo quy định của Nghị
định 158 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Thứ bảy, thực hiện pháp luật về đăng ký quá hạn, đăng ký lại
Việc đăng ký quá hạn được thực hiện đối với những trường hợp đủ điều
kiện đăng ký nhưng chưa đăng ký và đảm bảo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ
tục. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi có thẩm quyền đăng ký khai sinh, khai tử
theo quy định của pháp luật thực hiện việc đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn.
Đăng ký lại các việc hộ tịch như sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi
được thực hiện khi các việc trên đã được đăng ký nhưng sổ hộ tịch và bản
chính giấy tờ hộ tịch bị mất hoặc hư hỏng không sử dụng được. UBND cấp xã
nơi đương sự cư trú hoặc nơi đã đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn trước đây
thực hiện việc đăng ký lại.
UBND cấp xã thực hiện pháp luật về đăng ký quá hạn, đăng ký lại theo
quy định tại Nghị định 158 về trình tự, thủ tục.
Thứ tám, thực hiện pháp luật về đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ
tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh
hộ tịch:
Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh trước đây có thẩm
quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người dưới 14 tuổi và bổ
sung hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi;
Phạm vi thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại
giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch bao gồm:
Thay đổi họ, tên, chữ đệm đã được đăng ký đúng trong Sổ đăng ký khai
sinh và bản chính Giấy khai sinh, nhưng cá nhân có u cầu thay đổi khi có lý
do chính đáng theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Cải chính những nội dung đã được đăng ký trong Sổ đăng ký khai sinh
và bản chính Giấy khai sinh, nhưng có sai sót trong khi đăng ký.


23
Xác định lại dân tộc của người con theo dân tộc của người cha hoặc
dân tộc của người mẹ theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Xác định lại giới tính của một người trong trường hợp giới tính của
người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự
can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.
Bổ sung những nội dung chưa được đăng ký trong Sổ đăng ký khai
sinh và bản chính Giấy khai sinh.
Điều chỉnh những nội dung trong sổ đăng ký hộ tịch và các giấy tờ hộ
tịch khác, không phải Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh.
UBND cấp xã thực hiện đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác
định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch theo thủ tục được quy
định tại Nghị định 158
Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện việc thay đổi, cải chính,
bổ sung, điều chỉnh hộ tịch mà sổ hộ tịch đã chuyển lưu một quyển tại Ủy ban
nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm gửi thơng
báo cho Ủy ban nhân dân cấp huyện về những nội dung thay đổi để ghi tiếp
vào sổ hộ tịch lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện.
Thứ chín, một số hoạt động thực hiện pháp luật về hộ tịch khác của
UBND cấp xã:
UBND cấp xã thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân
dân địa phương chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch;
UBND cấp xã quản lý, sử dụng, lưu trữ các loại giấy tờ hộ tịch, sổ hộ
tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp;
UBND cấp xã thực hiện việc cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch;
UBND cấp xã tổng hợp tình hình và số liệu thống kê hộ tịch báo cáo
Ủy ban nhân dân cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và hàng năm;
UBND cấp xã giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm theo
thẩm quyền


24
Cán bộ Tư pháp hộ tịch có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp xã

thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể theo quy định trên (trừ trường hợp
giải quyết tố cáo về hộ tịch theo thẩm quyền).
Trong thực hiện pháp luật về hộ tịch, cán bộ Tư pháp hộ tịch giúp Ủy
ban nhân dân cấp xã thực hiện việc các nhiệm vụ sau:
Thụ lý hồ sơ, kiểm tra, xác minh và đề xuất với Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã xem xét, quyết định việc đăng ký hộ tịch theo quy định của pháp luật;
Thường xuyên kiểm tra và vận động nhân dân đi đăng ký kịp thời các
sự kiện hộ tịch. Đối với những khu vực người dân còn bị chi phối bởi phong
tục, tập quán hoặc điều kiện đi lại khó khăn, cán bộ Tư pháp hộ tịch phải có
lịch định kỳ đến tận nhà dân để đăng ký những sự kiện hộ tịch đã phát sinh.
Cán bộ Tư pháp hộ tịch phải chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp xã
về những sự kiện hộ tịch phát sinh trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không
được đăng ký.
Sử dụng các loại sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch theo quy định của Bộ Tư pháp;
Tổng hợp tình hình và thống kê chính xác số liệu hộ tịch để Ủy ban
nhân dân cấp xã báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện theo định kỳ 6 tháng và
hàng năm;
Giữ gìn, bảo quản, lưu trữ sổ hộ tịch và giấy tờ hộ tịch; khi thôi giữ
nhiệm vụ phải bàn giao đầy đủ cho người kế nhiệm.
Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của
pháp luật về hộ tịch;
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm về tình hình đăng ký
và quản lý hộ tịch của địa phương. Trong trường hợp do buông lỏng quản lý
mà dẫn đến những sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức trong công tác
đăng ký và quản lý hộ tịch ở địa phương mình, thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp xã phải chịu trách nhiệm.


25
1.2.1.2. Nội dung thực hiện pháp luật về hộ tịch của Uỷ ban nhân

dân cấp huyện
Trong thực hiện pháp luật về hộ tịch, UBND cấp huyện thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được qui định tại Nghị định 158:
Thứ nhất, thực hiện giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho
người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ
sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi;
Thứ hai, cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ tịch
UBND cấp huyện thực hiện việc cấp bản sao giấy tờ hộ tịch từ sổ hộ
tịch khi cơng dân có u cầu và đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật.
Thứ ba, cấp lại bản chính giấy khai sinh. Việc cấp lại bản chính giấy
khai sinh được thực hiện trong trường hợp bản chính Giấy khai sinh bị mất,
hư hỏng hoặc phải ghi chú quá nhiều nội dung do được thay đổi, cải chính hộ
tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch hoặc điều
chỉnh hộ tịch mà Sổ đăng ký khai sinh còn lưu trữ được, thì được cấp lại bản
chính Giấy khai sinh.
UBND cấp huyện nơi lưu trữ sổ đăng ký khai sinh có thẩm quyền cấp
lại bản chính giấy khai sinh. Khi thực hiện việc cấp lại bản chính giấy khai
sinh, UBND phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện, trình tự,
thủ tục.
Thứ tư, chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức, thực hiện công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch đối với Ủy ban nhân dân cấp xã.
Thứ năm, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch cho cán bộ Tư pháp hộ
tịch. Hàng năm, UBND cấp huyện tiến hành rà sốt trình độ chun mơn,
nghiệp vụ của đội ngũ công chức Tư pháp-Hộ tịch cấp xã để tổ chức bồi
dưỡng nghiệp vụ kịp thời cho đội ngũ này.
Thứ sáu, tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về
hộ tịch.



×