Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Vai trò của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.17 KB, 104 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi thất bại bằng biện pháp quân sự chống lại cách mạng Việt Nam,
các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ âm mưu xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta
bằng nhiều biện pháp, trong đó chúng sử dụng chiến lược “DBHB” nhằm
hướng nước ta theo quỹ đạo TBCN. Chính vì vậy, đấu tranh phòng, chống
chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay là
nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu. Thực chất, đây là cuộc đấu tranh
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ XHCN
bằng nhiều cơng cụ, biện pháp trong đó có pháp luật.
Đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” được Đảng xác định là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giai đoạn hiện nay, để đấu tranh phịng,
chống có hiệu quả chiến lược “DBHB” đỏi hỏi những chủ trương, đường lối
của Đảng phải được thể chế hóa thành pháp luật để làm cơ sở pháp lý cho
toàn xã hội thực hiện. Hơn nữa, nước ta đang hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Do vậy, pháp luật khơng chỉ giữ vai trị quan
trọng trong q trình này mà nó cịn là cơng cụ hữu hiệu trong đấu tranh
phịng, chống chiến lược “DBHB”, là cơng cụ bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước,
bảo vệ chế độ XHCN cũng như các giá trị truyền thống tốt đẹp và thành quả
cách mạng mà nhân dân ta đã đạt được. Do vậy, pháp luật có vai trị quan trọng
trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” ở Việt Nam hiện nay.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng về phòng, chống chiến lược “DBHB”
nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: Luật
An ninh quốc gia năm 2004, Bộ Luật hình sự năm 1999, Luật giáo dục quốc
phòng, an ninh năm 2013, Luật di sản văn hóa năm 2012….Những văn bản quy
phạm pháp luật đó đã tạo dựng cơ sở pháp lý quan trọng để tồn xã hội tham gia
vào cơng tác đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”.
Đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong đấu tranh phòng chống



2
chiến lược “DBHB” ở Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng, qua đó có thể đề ra
phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của pháp luật
trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch
đối với nước ta hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN. Chính vì vậy đề tài: "Vai trò của pháp luật trong
đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hịa bình” ở Việt Nam hiện
nay" vừa mang tính cấp thiết cả trong lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay, pháp luật ln có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng, đã có rất
nhiều các cơng trình khoa học nghiên cứu về vai trị của pháp luật như:
Về luận văn, luận án có một số các cơng trình nghiên cứu sau:
- Nguyễn Quang Thiện (1996), Vai trò của pháp luật trong cuộc đấu tranh
chống lợi dụng nhân quyền, bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay, Luận án
phó tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Lê Đinh Mùi (1997), Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Vũ Anh Tuấn (2001), Vai trị của pháp luật trong việc bảo đảm cơng
bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Hà Việt Hưng (2004), Vai trò của pháp luật trong việc mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ
luật học, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Võ Mai Anh (2006), Vai trị của pháp luật trong quản lý nhà nước đối
với lĩnh vực bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Về các bài viết đăng trên các tạp chí

- Vai trị của pháp luật về đạo đức cơng chức Việt Nam, Lê Đình Mùi ,
Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, Số 4/2011
- Phạm Duy Nghĩa, Vai trị của pháp luật trong kiểm sốt đầu tư, Tạp


3
chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phịng Quốc hội, số 16/2011.
- Nguyễn Thị Thu Hường, Vai trò của pháp luật trong xây dựng đạo
đức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay, Triết học,
Viện Triết học, số 6/ 2012.
- Nguyễn Viết Tý, Vai trò của Pháp luật đối với phát triển bền vững ở
Việt Nam, Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 2/2013.
- Ngơ Thị Thu Ngà, Vai trị của pháp luật đối với đạo đức trong điều
kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Giáo dục lý luận, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, số 197 (5/2013).
- Trần Thị Hồng Thuý, Vai trò của pháp luật đối với việc xây dựng đạo
đức ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, số 6/2013.
Liên quan đến đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB”, có các
cơng trình khoa học, sách, báo, bài viết như:
- Kiên định con đường đã chọn và “Vết xe đổ” và bài học kinh nghiệm
của PGS Mai Trung Hậu và TS Ngô Hoan (NXB Lý luận chính trị ấn hành
năm 2007).
- Trương Tấn Sang, Nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống
“DBHB”, Tạp chí Cộng sản, số 816 tháng 10 năm 2010.
- Trần Duy, “DBHB” vẫn là một chiến lược nguy hiểm của các thế lực thù
địch chống phá Đảng ta, chế độ ta, Tạp chí Quốc phịng tồn dân.
- Bắc Hà, Chống “DBHB” nhiệm vụ quan trọng, Báo Quân đội nhân
dân ngày 24-4-2011
- Phạm Huy Tập, Phòng, chống “DBHB”, bạo loạn trên địa bàn biên

giới trong tình hình mới, Tạp chí Lý luận chính trị số 7 năm 2012.
- Ngọc Vân, Làm thất bại chiến lược “DBHB”: Dự luật nhân quyền
Việt Nam 2012 rào cản quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Báo Quân đội nhân dân
ngày 23 tháng 9 năm 2012.
- Đỗ Đức Điển, Một số vấn đề đáng chú ý trong chiến lược “DBHB”
của các thế lực thù địch. Tạp chí Quốc phịng tồn dân số 1 năm 2012.
- Dương Văn Cừ, “Xã hội dân sự” - một thủ đoạn của “diễn biến hồ
bình”, Báo Nhân dân ngày 31 tháng 8 năm 2012.
- Năm 2013 PGS.TS Vũ Văn Phúc chủ biên cuốn Phòng, chống “tự


4
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay. Đây là tập hợp
những bài tham luận của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà
khoa học…được tuyển chọn từ Hội thảo cùng tên do Tạp chí Cộng sản, Tổng
cục Chính trị quân đội nhân dân Việt Nam và Đảng uỷ khối các cơ quan trung
ương phối hợp tổ chức.
Về vai trò của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến lược
“DBHB” khơng có nhiều các cơng trình khoa học, sách, bài viết đăng trên các
tạp chí, luận văn, luận án nghiên cứu chuyên sâu, pháp luật chỉ được nhắc đến
với tư cách là một biện pháp cần phải thực hiện chứ chưa mang tính cấp thiết
và là cơng cụ hữu hiệu trong đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” của
các thế lực thù địch. Mặc dù vậy, những cơng trình nghiên cứu trên là những
tài liệu tham khảo có giá trị để tác giả nghiên cứu và hồn thiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu lý luận và làm rõ vai
trò của Pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” ở Việt
Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về vai trị của pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống chiến lược “DBHB” ở Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch ở Việt Nam trong thời
gian qua. Qua đó đánh giá khái quát những nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng
cao vai trò của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống “DBHB” ở Việt Nam
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu pháp luật với tư cách là một hiện tượng xã hội, là công cụ
của nhà nước để quản lý, bảo vệ, điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội
nhằm giữ vững ổn định chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà


5
nước, chế độ XHCN. Là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng giáo dục,
tuyên truyền và xử lý các hành vi thực hiện chiến lược “DBHB”, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả nghiên cứu một số vấn
đề mang tính lý luận về vai trò của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống
chiến lược “DBHB”, một số quy định của pháp luật liên quan đến nhiệm vụ
BVTQ Việt Nam XHCN và đề ra một số giải pháp bảo đảm vai trò của pháp
luật trong đấu tranh phòng chống chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch
ở nước ta hiện nay.
Không gian và thời gian: Q trình thể chế hóa quan điểm của Đảng,
giá trị, tác dụng của pháp luật trong đấu tranh, phòng, chống chiến lược
“DBHB” từ năm 1986 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung: Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu các vấn đề về
pháp luật, vai trò của pháp luật trong xã hội có giai cấp. Đây là những phương
pháp nghiên cứu mang tính khoa học và cách mạng nhằm đạt được mục đích,
yêu cầu nghiên cứu của luận văn.
Phương pháp cụ thể, học viên sử dụng các phương pháp sau: Lịch sử cụ
thể, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Lần đầu tiên đưa ra các khái niệm: Pháp luật về phòng chống chiến lược
“DBHB”; vai trò của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”.
- Bước đầu đánh giá khái quát vai trò của pháp luật trong đấu tranh
phòng, chống chiến lược “DBHB” ở Việt Nam.
- Phân tích, làm rõ vị trí, tác dụng của pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống chiến lược “DBHB” ở Việt Nam thời gian qua.


6
- Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng nêu trên, luận văn đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo tốt hơn nữa vai trò của pháp luật trong
đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trong thời gian qua, chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa học pháp
lý về vấn đề Vai trò của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến lược
“DBHB” ở Việt Nam. Luận văn góp phần làm phong phú thêm những đóng
góp của khoa học pháp lý về vai trò của pháp luật đối với xã hội đặc biệt là

trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm: 3 chương, 9 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
TRONG ĐẤU TRANH PHỊNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC
“DIỄN BIẾN HỊA BÌNH” Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT TRONG ĐẤU TRANH
PHỊNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HỒ BÌNH”

1.1.1. Khái niệm pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống chiến lược “diễn biến hịa bình”
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm “diễn biến hịa bình”
Để thực hiện mục tiêu chống phá, tiêu diệt chế độ XHCN, các thế lực
đế quốc thường sử dụng hai phương thức chủ yếu là thông qua chiến tranh và
thơng qua tác động chuyển hóa chế độ XHCN bằng kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, xã hội….nhằm làm suy yếu, biến chất dẫn đến sự tan rã, sụp
đổ chế độ XHCN, thường được gọi với cái tên là “DBHB” (“chuyển hóa hịa
bình”, “cách mạng màu”…) chống chế độ XHCN.
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về “DBHB”.
Trong cuốn “Hỏi đáp về “DBHB” và cách mạng màu” do Phạm Ngọc Hiền
làm chủ biên thì “DBHB” có những tên gọi khác nhau như: “Chuyển hố hồ
bình” (Peaceful change),“Biến đổi hồ bình” (Peace competition),“Vượt
trên hồ bình” (Beyand peace), chiến thắng không cần chiến tranh”,“cuộc
đại chiến thế giới khơng có khói súng”, tác giả cũng cho rằng: ““DBHB” là

chiến lược của chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ nhằm chuyển hóa
chế độ nhà nước XHCN sang chế độ nhà nước tư bản chủ nghĩa bằng các hình
thức, biện pháp, thủ đoạn, phương tiện phi quân sự” [34, tr.8].
Theo Bộ Quốc phòng nước ta: ““DBHB” là chiến lược cơ bản nhằm lật
đổ chế độ chính trị - xã hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước XHCN
từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động đứng đầu là Mỹ tiến hành”.
Trong thời gian qua, các nước đế quốc không chỉ sử dụng chiến lược


8
“DBHB” nhằm chống lại các nước XHCN, mà chúng còn sử dụng để làm
thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi chính phủ ở các nước có tư tưởng khơng
“thân” với “phương Tây” như ở Syria, Ucraina, Lybia…bằng các cuộc “cách
mạng đường phố”, “cách mạng màu”…
Như vậy, “DBHB” và cuộc đấu tranh phòng, chống chiến lược
“DBHB” thực chất là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc đã, đang và
sẽ tiếp tục diễn ra không chỉ ở các nước đi theo con đường XHCN, mà còn
diễn ra ở nhiều các quốc gia, khu vực khác trên thế giới.
Đối với các nước XHCN, bản chất của chiến lược “DBHB” là nhằm đẩy
mạnh q trình “tự chuyển hóa”, “tự diễn biến” ngay trong nội bộ đảng Cộng sản
cầm quyền và Bộ máy nhà nước XHCN kết hợp với các yếu tố tác động từ bên
ngoài, dẫn đến những sự cải cách tồn diện xã hội theo hướng có lợi cho các nước
đế quốc, bao gồm những nội dung sau:
Một là, chuyển hố, thay thế cơ sở tư tưởng - chính trị và cơ sở giai cấp
của chế độ XHCN bằng cơ sở tư tưởng - chính trị và cơ sở giai cấp xã hội của
chế độ tư bản chủ nghĩa trên cơ sở tuyên truyền xoá bỏ chủ nghĩa Mác –
Lênin, truyền bá và xác lập hệ tư tưởng tư sản ở các nước XHCN.
Hai là, chuyển hóa, thay đổi hệ thống chính trị của chế độ XHCN trên
cơ sở làm biến chất cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp

cũng như các tổ chức xã hội khác.
Ba là, thay đổi, chuyển hóa nền kinh tế theo định hướng XHCN sang nền
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở
tun truyền xóa bỏ chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất chính, đồng thời thúc
đẩy khuynh hướng tư hữu hóa, tư nhân hóa nền kinh tế ở các nước XHCN.
Bốn là, thay đổi, chuyển hóa văn hóa, lối sống XHCN sang văn hóa lối
sống tư sản trên cơ sở tuyên truyền, phản bác, phủ định văn hóa, lối sống
XHCN, đồng thời truyền bá văn hóa, lối sống của giai cấp tư sản.
Tóm lại, chiến lược“DBHB” là một trong những phương thức mà các
thế lực phản động sử dụng nhằm chống chủ nghĩa xã hội chủ yếu là bằng
biện pháp phi vũ trang, phi quân sự.


9
Chiến lược “DBHB” có một số đặc điểm như sau:
Một là, đây là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc nhằm vào các
nước tiến bộ trước hết là các nước XHCN nhằm thay đổi chế độ xã hội ở các
quốc gia này.
Hai là, chủ thể của chiến lược “DBHB” là chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là đế quốc Mỹ cùng với sự ủng hộ của các thế lực thù địch cùng nhau phối
hợp hành động.
Ba là, thực hiện chiến lược “DBHB” bằng những thủ đoạn rất tinh vi
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là, mục đích của chiến lược “DBHB” là làm thay đổi chế độ chính trị ở
các nước tiến bộ theo hướng có lợi cho các nước đế quốc.
Năm là, “DBHB” liên tục được chủ nghĩa đế quốc hoàn thiện về nội
dung và cách thức tiến hành để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia.
Sáu là, chiến lược “DBHB” diễn ra theo một quá trình từ thấp đến cao,
từ bộ phận đến toàn bộ để làm sụp đổ chế độ XHCN.

Đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” là yêu cầu tất yếu đặt ra
đối với các nước XHCN với cách thức khác nhau, trong đó pháp luật có vai
trị quan trọng.
1.1.1.2. Khái niệm pháp luật trong đấu tranh
phịng, chống chiến lược “diễn biến hịa bình”
Đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch
đối với cách mạng Việt Nam là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, có ý
nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN mà
nhân dân ta đang tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để đấu tranh phịng,
chống có hiệu quả chiến lược “DBHB” đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần sử
dụng nhiều cơng cụ, trong đó có pháp luật. Đây là cơng cụ hữu hiệu để tồn
xã hội đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” với hai nội dụng cơ bản.
Phòng ngừa chiến lược “DBHB”, chính là việc tồn xã hội bằng mọi
biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn các nguyên nhân, điều kiện về kinh tế,
chính trị, văn hóa - xã hội, tơn giáo, dân chủ, nhân quyền, quốc phịng, an


10
ninh và đối ngoại mà các thế lực lực thù địch lợi dụng để thực hiện chiến lược
“DBHB”. Phòng ngừa là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong công tác đấu tranh
phòng, chống chiến lược “DBHB”, phòng ngừa để hạn chế hành vi thực hiện
“DBHB” xảy ra, xã hội không phải gánh chịu những thiệt hại do hành vi đó
gây ra, Đảng và Nhà nước không phải thực hiện các giải pháp để khắc phục
hậu quả; bảo đảm sự ổn định mọi mặt của đời sống xã hội làm cơ sở cho sự
nghiệp xây dựng và BVTQ .
Chống chiến lược “DBHB”, là phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến
thủ tiêu các hiện tượng xã hội tiêu cực là điều kiện để các thế lực thù địch lợi
dụng nhằm thực hiện chiến lược “DBHB”. Đồng thời với đó là hạn chế đến
mức thấp nhất hậu quả, tác hại của hành vi thực hiện chiến lược “DBHB”,
bản chất của các nước đế quốc là luôn muốn thay đổi chế độ chính trị ở các

nước XHCN, do vậy chúng khơng ngừng thực hiện các âm mưu, thủ đoạn của
chiến lược “DBHB”, hoạt động phòng ngừa còn nhiều hạn chế, cho nên
những hành vi đó vẫn xảy ra. Do vậy, địi hỏi phải có cơ chế để các cơ quan
chức năng phối hợp kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi nhằm thực hiện
chiến lược “DBHB”.
Trong hai nội dung đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” khơng
được coi nhẹ nội dung nào, “DBHB” còn được thực hiện sẽ cản trở đến sự
nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN, cuộc sống bình yên của mỗi cá
nhân trong xã hội. Bản chất của chủ nghĩa đế quốc không hề thay đổi, chính
vì vậy pháp luật cần bảo đảm phịng ngừa bằng các quy định, chế tài… nhằm giữ
vững ổn định xã hội, tránh nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong nội
bộ Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân, hạn chế các nhân tố, điều kiện, tiền
đề cho các thế lực thù địch lợi dụng để tiến hành chiến lược “DBHB”.
Như vậy, đấu tranh phòng, chống “DBHB” là việc áp dụng đồng bộ
các biện pháp với sự tham gia của tồn xã hội vào việc ngăn ngừa khơng để
cho hành vi “DBHB” xảy ra, nhanh chóng phát hiện và xử lý kịp thời các
hành vi thực hiện âm mưu, thủ đoạn “DBHB” góp phần xây dựng và BVTQ


11
Việt Nam XHCN.
Pháp luật là công cụ hữu hiệu và quan trọng để nhà nước thực hiện
chức năng quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, thiết lập trật tự kỷ cương xã
hội, bảo vệ các quan hệ xã hội, trừng trị những hành vi xâm hại đến lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân trong xã hội. Pháp luật có vai trị
đặc biệt quan trọng quyết định đến sự tồn vong của nhà nước cũng như giữ
vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế đất nước, chính vì vậy pháp luật là
cơng cụ hiệu quả, quan trọng trong đấu tranh phòng, chống chiến lược
“DBHB” của các thế lực thù địch.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật về đấu tranh phịng chống chiến lược

“DBHB” có thể được hiểu là tổng hợp các quy định góp phần vào việc phòng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi xâm hại đến sự tồn tại của chế độ
XHCN, truyền thống văn hóa, nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân và
đối ngoại của nhà nước. Nếu hiểu theo nghĩa này thì khơng thể có quy phạm
pháp luật trực tiếp đề cập vấn đề đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB”
bởi vì có nhiều quy định trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã
hội, quốc phịng an ninh, đối ngoại gián tiếp tác động đến việc đấu tranh
phòng, chống chiến lược “DBHB”. Như vậy, các quy phạm pháp luật trong
phòng, chống chiến lược “DBHB” nằm rải rác ở nhiều văn bản của nhiều
ngành luật khác nhau, các quy phạm pháp luật đó khơng phải lúc nào cũng
trực tiếp thể hiện mục đích phịng chống chiến lược diễn biến hịa bình, Ví dụ
như các quy định trong Luật Di sản Văn hóa năm 2012, Luật giáo dục Quốc
phòng-An ninh năm 2013, Luật an ninh quốc gia năm 2004… Chính vì những
lý do trên mà việc nghiên cứu để hệ thống hóa pháp luật về đấu tranh phịng,
chống chiến lược “DBHB” khơng phải là cơng việc dễ dàng.
Pháp luật về phịng, chống chiến lược “DBHB” có quan hệ chặt chẽ với
an ninh quốc gia, nhưng pháp luật về an ninh quốc gia cũng khơng bao hàm
hết các quy định về đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB”. Luật an ninh
quốc gia năm 2004 là một văn bản pháp luật quy định tương đối đầy đủ về các


12
vấn đề liên quan đến lĩnh vực thuộc về an ninh quốc gia, nhưng nếu chỉ tìm hiểu
đấu tranh phịng chống chiến lược “DBHB” ở góc độ này thì lại là khơng đầy đủ,
vì cịn liên quan đến nhiều vấn đề khác như: Chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn
hóa, tơn giáo, dân chủ, nhân quyền…
Từ những phân tích trên có thể hiểu Pháp luật về đấu tranh phịng,
chống chiến lược “DBHB” là tổng hợp các quy phạm pháp luật
thể chế hóa quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đấu
tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” nhằm xác định các biện

pháp phòng ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các âm mưu, thủ
đoạn nhằm thực hiện chiến lược “DBHB” trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa - xã hội, tơn giáo, dân chủ, nhân quyền,
quốc phịng, an ninh và đối ngoại, góp phần xây dựng và bảo
vệ chế độ XHCN.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến
lược “diễn biến hịa bình”
Pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” có một số
đặc điểm sau:
Một là, pháp luật về phòng, chống chiến lược diễn biến hịa bình xác
định các biện pháp phịng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của
chiến lược “DBHB”.
Hai là, pháp luật trong đấu tranh phòng chống chiến lược “DBHB”
điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
phòng ngừa các âm mưu, thủ đoạn nhằm thực hiện chiến lược “DBHB” và
các quan hệ giữa các cơ quan chức năng của nhà nước với các tổ chức, cá
nhân trong việc phát hiện, xử lý các hành vi thực hiện chiến lược “DBHB”;
quy định biện pháp được áp dụng để phòng ngừa, đồng thời quy định vai trò,
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong đấu tranh phòng, chống chiến
lược “DBHB”.
Ba là, pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” gồm
các quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước có chức năng


13
thực hiện phòng, chống chiến lược “DBHB”, các quy định về hợp tác quốc tế,
vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và các biện pháp bảo đảm nhằm
đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” có hiệu quả.
Bốn là, pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” sử
dụng các cách thức, phương pháp tác động nhằm hạn chế, ngăn chặn, phòng

ngừa, phát hiện, xử lý hành vi thực hiện “DBHB” để bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Phương pháp điều
chỉnh của nó mang tính quyền uy, phục tùng kết hợp với biện pháp phòng
ngừa, giáo dục và tuyên truyền.
Năm là, pháp luật về phòng, chống chiến lược “DBHB” mang tính định
hướng, thể hiện trong hầu hết các ngành luật, liên quan đến hầu hết các chủ
thể và các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Mục đích đấu tranh phịng, chống
chiến lược “DBHB” ẩn chứa trong nội dung pháp luật, điều chỉnh quan hệ xã
hội trên các lĩnh vực liên quan đến sự tồn tại và phát triển của chế độ XHCN.
Pháp luật về phòng, chống chiến lược “DBHB” điều chỉnh các quan
hệ xã hội với mục đích như sau:
Quan hệ xã hội trong lĩnh vực kinh tế, kinh tế được rất nhiều ngành luật
điều chỉnh, trong đó có luật Hiến Pháp với chế định về chế độ kinh tế, điều
chỉnh các quan hệ kinh tế nhằm phục vụ cho những mục tiêu chính trị, kinh tế
- xã hội nhất định. Các quan hệ xã hội trong lĩnh vực này luôn là đối tượng bị
các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá. Vì vậy, nội dung của pháp luật về
đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” trên lĩnh vực kinh tế là ngăn
chặn, phát hiện, xử lý hành vi xâm hại đến quan hệ kinh tế được nhà nước
XHCN thừa nhận và bảo vệ, thực hiện ý đồ chuyển hóa, thay đổi sang nền kinh
tế thị trường tự do theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Ngăn chặn các hành động:
tuyên truyền nhằm xóa bỏ chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy
khuynh hướng tư hữu hóa, tư nhân hóa nền kinh tế ở các nước XHCN.
Quan hệ xã hội trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, tư tưởng văn hóa
chính là phần “hồn” của mỗi quốc gia dân tộc. Hệ tư tưởng sẽ quyết định đến


14
con đường, hướng phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Các nước tư bản
chủ nghĩa có hệ tư tưởng tư sản, các nước XHCN theo hệ tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lê nin và các lãnh tụ vĩ đại của cách mạng. Về văn hóa, Bác Hồ đã

từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Do vậy, phải ngăn chặn các
hành vi thực hiện âm mưu chuyển hóa, thay thế cơ sở tư tưởng - chính trị và cơ
sở giai cấp xã hội của chế độ XHCN bằng cơ sở tư tưởng chính trị và cơ sở giai
cấp xã hội của chủ nghĩa tư bản. Pháp luật phải góp phần quan trọng vào việc
giữ vững cơ sở tư tưởng là chủ nghĩa Mác- Lênin, ngăn chặn việc xác lập, truyền
bá tư tưởng phản động của hệ tư tưởng tư sản vào các nước XHCN.
Quan hệ xã hội trong lĩnh vực tôn giáo - dân tộc, ngăn chặn hành vi lợi
dụng những khó khăn ở những vùng đồng bào dân tộc ít người để kích động
tư tưởng địi ly khai. Pháp luật phải có những quy định để ngăn chặn, xử lý
hành vi lợi dụng chính sách về tôn giáo của nhà nước để thực hiện những
hành vi nhằm thực hiện âm mưu tơn giáo hóa dân tộc, kích động chia rẽ mối
đồn kết giữa các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo và người không theo tôn
giáo, giữa các tổ chức tôn giáo với Đảng, Nhà nước…
Quan hệ xã hội trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngăn chặn và xử lý
hành vi lợi dụng xu thế mở rộng, hợp tác quốc tế hiện nay để kích động địi
phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lĩnh vực quốc phòng, an
ninh và đối với lực lượng vũ trang. Pháp luật phải thể chế hóa quan điểm
“Đảng lãnh đạo quân đội và công an tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, khẳng
định bảo đảm quốc phòng, an ninh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân; ngăn chặn âm mưu địi phi chính trị hóa qn đội…
Quan hệ xã hội trên lĩnh vực đối ngoại: Ngăn chặn, xử lý âm mưu thủ
đoạn trên lĩnh vực đối ngoại, các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương của nhà
nước XHCN mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế với các nước trên thế giới để
tuyên truyền và hướng các nước này đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Chia
rẽ mối quan hệ, đồn kết, hợp tác cùng có lợi với các quốc gia láng giềng. Hạn
chế sự mở rộng quan hệ hợp tác của Việt Nam đối với các nước lớn trên thế giới,


15
tìm cách ngăn cản những dự án đầu tư quốc tế vào các nước XHCN.

1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG ĐẤU
TRANH PHÒNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HỒ BÌNH”

1.2.1. Khái niệm vai trị của pháp luật trong đấu tranh phòng,
chống chiến lược “diễn biến hòa bình”
Vai trị được hiểu là tác dụng, chức năng trong sự hoạt động, phát triển
của sự vật, hiện tượng hoặc chỉ “tác dụng, chức năng của ai hoặc cái gì trong
sự phát triển chung của một tập thể, một tổ chức” [68]. Như vậy, vai trị chính
là những tác dụng của sự vật, hiện tượng này với các sự vật hiện tượng khác,
phản ánh đặc trưng, bản chất của chủ thể, mang tính khái qt và bao trùm, nó
thể hiện tầm quan trọng của chủ thể trong mối tương quan với các chủ thể
khác. Khi nói đến vai trị của pháp luật là đề cập đến tầm quan trọng của pháp
luật trong mối quan hệ với đảng cầm quyền, nhà nước, tổ chức và cá nhân
cũng như các vấn đề khác của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, tư
tưởng, văn hóa, đạo đức...
Đối với Đảng cầm quyền, pháp luật có vai trị là cơng cụ để thể chế hóa
các chủ trương, đường lối của Đảng, làm cho các chủ trương, đường lối,
chính sách của đảng mang tính quyền lực nhà nước và được thực hiện trong
toàn xã hội. Thông qua pháp luật, đảng cầm quyền kiểm tra tính hiệu quả, sự
cần thiết của các chủ trương, đường lối của mình trong thực tiễn, gắn với mục
tiêu lãnh đạo Nhà nước và xã hội của mình.
Với Nhà nước, pháp luật có vai trị đặc biệt quan trọng, vì đây là công
cụ, phương tiện bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Không những vậy, pháp luật là công cụ để bảo vệ sự
tồn tại và phát triển của Nhà nước, Nhà nước cũng có thể tự hồn thiện mình
thơng qua pháp luật. Pháp luật mặc dù do nhà nước ban hành và bảo đảm thực
hiện nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan của nhà
nước một cách đơn giản mà nó còn xuất phát từ những nhu cầu khách quan
của xã hội. Pháp luật chỉ có thể phát huy được hết tác dụng nếu phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Pháp luật cần có quyền lực nhà nước

bảo đảm mới có thể phát huy hết tác dụng trọng thực tế đời sống, vì vậy pháp


16
luật không thể đứng trên nhà nước. Nhu cầu về pháp luật còn là nhu cầu tự
thân của bộ máy nhà nước chính vì vậy, pháp luật có vai trị quan trọng trong
tổ chức và thực hiện các chức năng của bộ máy nhà nước.
Đối với các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân, pháp luật
là phương tiện bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân thông qua
pháp luật và các tổ chức của mình để kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chống lại các
hành vi quan liêu, sách nhiễu nhân dân.
Như vậy, pháp luật được xem như là phương tiện quan trọng, ghi nhận
các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, bảo đảm sự
hoạt động đồng bộ và có hiệu quả.
Với những đặc trưng của mình, pháp luật cịn tác động đến các quan hệ
xã hội cũng như các quy phạm xã hội khác. Thông qua các quy định của pháp
luật có làm thể phát sinh, thay đổi hoặc chấm quan hệ xã hội, phù hợp với lợi
ích của Nhà nước và tồn xã hội. Pháp luật cũng có thể bảo đảm cho các quy
phạm xã hội khác như các phong tục, tập quán…được tồn tại và phát triển
hoặc chấm dứt phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước.
Pháp luật ln có tác động và ảnh hưởng rất mạnh mẽ tới các quan hệ
xã hội nói chung, cũng như tới tất cả các yếu tố của thượng tầng chính trị
pháp lý nói riêng. Để thấy rõ vai trị của pháp luật cần phải xem xét nó ở góc
độ cụ thể gắn với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước và nhu cầu điều
chỉnh bằng pháp luật của các quan hệ xã hội. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn,
muốn thực hiện tốt sự quản lý của nhà nước, đẩy nhanh sự phát triển của xã
hội thì cần chú trọng phát huy vai trị của pháp luật, khơng ngừng hồn thiện
và phát huy hiệu lực của hệ thống pháp luật.
Đối với vai trò của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến lược

“DBHB” thì đây là một vấn đề cịn mới, chưa thực sự có một đề tài khoa học
nghiên cứu và đưa ra các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy,
để xây dựng khái niệm về vai trị của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống
chiến lược “DBHB” cần phải xuất phát từ lý luận về vai trò của pháp luật, qua


17
đó xác định rõ hơn, đầy đủ và khái quát nhất. Khái niệm đó phải thể hiện
được mục tiêu, quan điểm của Đảng, nội dung của nhiệm vụ phòng chống
chiến lược “DBHB”.
Trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”, pháp luật bảo vệ
Đảng, bảo vệ Nhà nước, các giá trị của chế độ XHCN, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân trong xã hội trước âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch. Tạo hành lang pháp lý, cơ sở quan trọng để toàn xã hội thực hiện
nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”.
Với những ý nghĩa và phân tích đó chúng ta có thể hiểu vai trò của
pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” như sau:
Vai trò của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến lược
“DBHB” chính là thơng qua pháp luật để chủ trương, đường lối của Đảng về
đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” được thực hiện trên quy mơ
tồn xã hội; xác lập cơ sở pháp lý cho các chủ thể tham gia, thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi thực
hiện âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “DBHB”, góp phần xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN.
1.2.2. Nội dung vai trò của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống
chiến lược “diễn biến hịa bình” ở Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Pháp luật thể chế hoá quan điểm của Đảng về phịng, chống
chiến lược “diễn biến hịa bình”
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, do nhà nước ban hành, thể hiện
ý chí của giai cấp thống trị và là nhân tố để điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Một đặc trưng nổi bật của pháp luật đó là tính ý chí, vì pháp luật ra đời bao
giờ cũng gắn liền với ý chí của một giai cấp, một lực lượng chính trị nắm
quyền nhất định nào đó, khơng có pháp luật nào lại khơng mang tính ý chí.
Pháp luật chính là sự cụ thể hóa đường lối, chủ trương của giai cấp cầm quyền
trở thành những quy tắc xử sự phù hợp với mục tiêu, lợi ích của giai cấp cầm
quyền. Khơng những vậy, pháp luật cịn là cơng cụ quản lý, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ngăn ngừa và trừng trị những hành vi


18
vi phạm pháp luật.
Ở Việt Nam, từ khi có Đảng ra đời, với chủ trương, đường lối đúng
đắn của mình, Đảng đã đưa cả dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Công cuộc xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN cịn rất nhiều khó
khăn, thử thách địi hỏi Đảng phải luôn đề ra những chủ trương, đường lối
đúng đắn và được Nhà nước cụ thể hóa bằng pháp luật một cách triệt để,
trở thành những khuôn mẫu, mơ hình cho các xử sự của mọi chủ thể trong
xã hội. Thể chế hóa các quan điểm của Đảng thành pháp luật chính là q
trình xây dựng, hồn thiện, tổ chức và thực hiện pháp luật cũng như nâng
cao tính hiệu quả của pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện
nay. Thực tiễn cho thấy nếu như những quan điểm, chủ trương của Đảng
được cụ thể hóa thành pháp luật, trở thành những quy tắc, ứng xử chung
cho tồn xã hội thì những quan điểm, chủ trương đó sẽ nhanh chóng đi vào
đời sống và được thực hiện trên quy mơ tồn quốc, qua đó kiểm nghiệm
tính đúng đắn của các chính sách mà Đảng đề ra, từ đó Đảng có sự điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn.
Vai trò của pháp luật trong đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB”
chỉ có được khi thơng qua hoạt động xây dựng, tổ chức thực hiện, bảo vệ
pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật cho toàn xã hội. Qua đó những quan
điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về đấu tranh phòng, chống chiến lược

“DBHB” được thể chế hóa thành các quy định pháp luật cụ thể. Đấu tranh
phòng, chống chiến lược “DBHB” là vấn đề tương đối phức tạp, nhạy cảm,
liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, đòi hỏi chúng ta
phải kết hợp hài hòa hai nhiệm vụ xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.
Thông qua pháp luật Nhà nước xác định những mục tiêu, nhiệm vụ cho từng
thời kỳ cách mạng, qua đó các chủ thể trong xã hội nhận biết và ứng xử phù
hợp giữa lợi ích của cá nhân với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Pháp luật
không chỉ là các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra nhằm quy phạm hóa chính
sách của nhà nước về phòng chống, chiến lược “DBHB”, bảo vệ Đảng, bảo vệ


19
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi chủ thể trong xã hội, mà thơng
qua đó để các chủ thể có thể nhận biết được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Từ chỗ chỉ là quan điểm, đường lối để
bảo vệ chế độ XHCN của Đảng Cộng sản, vấn đề đấu tranh phòng, chống
chiến lược “DBHB” trở thành mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra cho tồn xã hội.
Chính vì vậy, những hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của quốc
gia, dân tộc, lợi dụng các vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền, đi ngược lại
với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc thì đều phải bị xử lý trên cơ sở
các quy định của pháp luật.
Quan điểm về đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” được thể
hiện trong hệ thống pháp luật của Nhà nước thông qua việc các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, qua đó quy
định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật cụ thể
cùng với đó là các biện pháp xử lý, các chế tài tương ứng với các hành vi vi
phạm pháp luật. Hành vi thực hiện chiến lược “DBHB” rất đa dạng, với nhiều
cách thức tiến hành, đơi khi nó lại ẩn chứa trong các lợi ích về kinh tế, chính
trị, xã hội, việc xác định và ngăn chặn triệt để là rất khó khăn. Trong khi đó,
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, địi hỏi phải mang tính khách quan,

tính khách quan chính là điều kiện hàng đầu để pháp luật phát huy vai trị của
mình trong phịng, chống chiến lược “DBHB”. Pháp luật phải thể hiện được
sự phù hợp của mình với các điều kiện kinh tế xã hội, phải đảm bảo vai trò
bảo vệ Đảng, Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, đồng thời
cũng khơng làm kìm hãm q trình phát triển, hội nhập của đất nước đối với
thế giới.
1.2.2.2. Pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý để toàn Đảng, tồn qn và
tồn dân đấu tranh phịng, chống chiến lược “diễn biến hịa bình”
“DBHB” là một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch thực hiện
nhằm xóa bỏ chế độ XHCN trên phạm vi toàn thế giới trong đó Việt Nam là một
trọng điểm. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn đúng đắn của chủ tịch Hồ


20
Chí minh, của Đảng và của tồn dân tộc Việt Nam. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta đã chứng minh cho chân lý chỉ có chủ nghĩa xã hội đất nước
ta mới có độc lập, nhân dân ta mới được hưởng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc. Chính vì vậy, đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” là yêu cầu đặt
ra không chỉ với một tổ chức hay một cá nhân riêng lẻ nào mà nó nhiệm vụ đặt
ra cho tồn xã hội. Trong đó, Đảng đề ra chủ trương, đường lối và chủ trương,
đường lối đó được cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật, pháp luật là cơ
sở pháp lý quan trọng để tồn xã hội thực hiện. Chính vì vậy, thông qua pháp
luật mà các chủ thể trong xã hội nhận biết được quyền hạn của mình đến đâu,
nghĩa vụ phải thực hiện như thế nào trong đấu tranh phịng, chống chiến lược
“DBHB”. Đặc biệt, thơng qua pháp luật để nhận biết âm mưu, thủ đoạn thực
hiện chiến lược “DBHB” để từ đó có cách xử sự phù hợp.
Trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” pháp luật còn đề ra
những giải pháp, cách thức để các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình trong khn khổ, phạm vi của pháp luật để vừa đảm bảo phát triển kinh
tế, vừa phịng, chống có hiệu quả các hành vi thực hiện âm mưu “DBHB”.

Thông qua chức năng điều chỉnh, pháp luật xác lập các hành lang pháp lý cần
thiết cho các quan hệ xã hội, sự phát triển các quan hệ xã hội trong đó có các
quan hệ pháp luật về đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”. Qua đó,
đảm bảo cho các chủ thể thực hiện đúng, chính xác các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về các vấn đề có liên quan.
Pháp luật cịn là phương tiện thơng báo quan điểm chính thức của Nhà
nước, của xã hội về khuôn mẫu của hành vi, về mơ hình giải quyết các vấn đề
và phương thức điều chỉnh các vấn đề xã hội. Thông qua pháp luật, các chủ
thể có thể biết được phương thức, biện pháp và phương tiện dùng để đạt được
mục đích của hành vi. Đồng thời, pháp luật cũng chỉ rõ những hậu quả pháp
lý có thể phải gánh chịu khi các chủ thể khơng thực hiện đúng để từ đó điều
chỉnh hành vi của mình cho phù hợp.
Thơng qua quy định của pháp luật, chủ thể lựa chọn cho mình cách


21
thức xử sự phù hợp, có nghĩa là chủ thể tùy vào chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, dựa vào các quy định của pháp luật có liên quan đến lĩnh vực
đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” để có những cách thức ứng xử
phù hợp. Pháp luật vừa quy định những quyền mang đặc tính nhất định vừa
quy định những nghĩa vụ bắt buộc cho các chủ thể thực hiện có hiệu quả quy
định của pháp luật.
Pháp luật về đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” vừa phải bảo
đảm tính cưỡng chế của Nhà nước, vừa mang tính giáo dục, thuyết phục cao,
là công cụ để các chủ thể trong xã hội thực hiện nhiệm vụ phòng, chống chiến
lược “DBHB”.
Với vai trò là cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng, chống chiến
lược “DBHB”, pháp luật đã trở thành phương tiện phản ánh quan điểm của
Đảng, là cơng cụ quan trọng để tồn xã hội thực hiện nhiệm vụ xây dựng và
BVTQ Việt Nam XHCN nói chung, đấu tranh phịng, chống chiến lược

“DBHB” nói riêng.
1.2.2.3. Pháp luật là công cụ sắc bén, hiệu quả trong đấu tranh
phịng, chống chiến lược “diễn biến hịa bình”
Pháp luật có một đặc tính quan trọng đó là nó mang tính quyền lực Nhà
nước, được bảo đảm thực hiện trên quy mơ tồn xã hội sức mạnh cưỡng chế
của Nhà nước. Trong khi đó, để thực hiện chiến lược “DBHB” các thế lực thù
địch sử dụng nhiều biện pháp, cách thức gây mất ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội. Chỉ có pháp luật mới có các chế tài hữu hiệu để ngăn chặn có
hiệu quả hành vi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện âm mưu, thủ đoạn của
chiến lược “DBHB”.
Để đề phòng hành vi lợi dụng các vấn đề về “dân tộc”, “tôn giáo”,
“dân chủ”, “nhân quyền”…trong thực hiện chiến lược “DBHB” của các thế
lực thù địch, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn
chặn. Trong đó, pháp luật là cơng cụ sắc bén và hữu hiệu, thông qua quy
định của pháp luật về các vấn đề trên, thể hiện quan điểm của của Đảng và


22
Nhà nước về các vấn đề mang tính bảo đảm quyền tự do, dân chủ của mỗi
công dân, pháp luật tơn trọng và bảo vệ các quyền đó. Từ quy định pháp
luật, chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm phù hợp với
lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội. Sự rõ ràng của pháp luật góp
phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước…
Để đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” có hiệu quả, Đảng và
Nhà nước cần phải có những lực lượng mang tính chun trách, có chun
mơn cao. Tuy nhiên trên thực tế, “DBHB” được thực hiện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Vì vậy, cùng với các lực lượng làm nịng cốt, phải
huy động được sức mạnh của tồn xã hội. Thông qua pháp luật để quy định
chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm cho từng lực lượng cũng như toàn xã hội

nhằm đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn thực hiện
chiến lược “DBHB” của thế lực thù địch.
1.2.2.4. Pháp luật có vai trị nâng cao nhận thức của tồn xã hội
trong đấu tranh phịng, chống chiến lược “diễn biến hịa bình”
Pháp luật với những đặc tính của mình là phương tiện quan trọng để
giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho toàn xã hội. Thông qua pháp luật,
người dân nhận thức được quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về
vị trí, vai trò, ý nghĩa của vấn đề đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”,
nêu cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, trách nhiệm của công dân đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt
Nam XHCN.
Những quy định của pháp luật luôn tạo ra những điều kiện thuận lợi để
mọi chủ thể trong xã hội thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, từ đó tự điều
chỉnh hành vi, bảo đảm quyền và lợi ích của mình nhưng cũng phải bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể các chủ thể khác.
Vai trò giáo dục của pháp luật thể hiện ở hoạt động xây dựng pháp luật,
khi Nhà nước thực hiện việc lấy ý kiến của người dân về một văn bản quy phạm


23
pháp luật hay một lĩnh vực pháp luật, thì đồng thời với đó những nội dung của
dự thảo luật phải được tuyên truyền, người dân phải tìm hiều thì mới có thể tham
gia đóng góp ý kiến được. Hơn nữa, sự tham gia của người dân cũng là xuất phát
từ thực tiễn của hoạt động “DBHB” và đấu tranh phòng, chống, cho nên góp
phần nâng cao hiểu biết và nhận thức của tồn xã hội về vị trí, vai trị, ý nghĩa
của cơng tác đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB”.
Quá trình tổ chức thực hiện pháp luật với các hình thức như: tuân thủ
pháp luật, áp dụng pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật sẽ giáo
dục tính tự giác, tinh thần trách nhiệm với Nhà nước và xã hội, trong đó có ý
thức về đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB”. Các hoạt động áp dụng

pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” đặc biệt là của cơ
quan bảo vệ pháp luật như Tòa án, Viện kiểm sát có tác động mạnh mẽ tới ý
thức chấp hành pháp luật của tồn xã hội.
Thơng qua pháp luật, người dân hiểu được quyền và nghĩa vụ, trách
nhiệm của mình trong đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” qua đó có
những xử sự phù hợp với quy định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả
cơng tác này trong thực tế.
Như vậy, pháp luật không chỉ tác động đến hành vi, mà còn tác động
đến nhận thức của tồn xã hội, góp phần nâng cao nhận thức của tồn xã hội
về đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” từ đó thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu, u cầu của cơng tác đấu tranh phịng, chống âm mưu, thủ đoạn
thực hiện chiến lược “DBHB” của thế lực thù địch đối với cách mạng Việt
Nam hiện nay.
1.3. CÁC ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT ĐẤU TRANH
TRONG PHỊNG, CHỐNG CHIẾN LƯỢC “DIỄN BIẾN HỒ BÌNH”

Pháp luật về đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” ra đời là
nhằm mục đích ngăn ngừa mọi hành vi thực hiện âm mưu, thủ đoạn phá hoại
cách mạng nước ta. Chính vì vậy, pháp luật sẽ phát huy được vai trị của mình
trong đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” khi tình hình chính trị


24
được giữ vững, nền kinh tế không ngừng phát triển, văn hóa - xã hội được bảo
đảm, có một hệ thống pháp luật đồng bộ…
1.3.1. Điều kiện về chính trị
Chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn, có tính chất quyết định đến tiến
trình lịch sử phát triển xã hội; nó ra đời khi xã hội phân chia giai cấp, hình thành
nhà nước, đấu tranh giai cấp và xây dựng nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích, quyền
lợi của các giai cấp, bảo vệ chủ quyền và phát triển của các quốc gia.

Trong mối quan hệ giữa pháp luật với chính trị, cả hai có mối quan hệ
tác động qua lại lẫn nhau, đều thuộc kiến trúc thượng tầng, xuất hiện và tồn
tại trên cơ sở của chế độ kinh tế nhất định.
Pháp luật ra đời xuất phát từ những nhu cầu khách quan, trên cơ sở của
một chế độ kinh tế nhất định, đồng thời nó là sự thể hiện ý chí, quan điểm chính
trị của giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị hay nói cách khác Đảng cầm quyền
lãnh đạo xã hội thông qua cương lĩnh, nghị quyết của Đảng. Những cương lĩnh,
nghị quyết đó chỉ đi vào đời sống xã hội và được xã hội thực hiện một cách rộng
rãi nhất khi nó được thể chế hóa thành pháp luật, trở thành ý chí chung của tồn
xã hội. Pháp luật khơng chỉ thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền mà nó cịn thể
hiện ý chí, quan điểm của các tầng lớp giai cấp khác trong xã hội. Đường lối
chính trị của Đảng chỉ đạo tồn bộ q trình xây dựng, nội dung và tổ chức thực
hiện pháp luật. Pháp luật về phòng chống chiến lược “DBHB” ở nước ta được
hình thành trên cơ sở các quan điểm, đường lối của Đảng về đấu tranh phịng,
chống chiến lược “DBHB”, đó là những quan điểm chỉ đạo xuất phát từ lý luận
và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Để phịng chống có hiệu quả, phát huy tốt vai
trò của Pháp luật đòi hỏi sự quan tâm, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của cả hệ
thống chính trị, từ các cấp ủy Đảng, các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức,
nhân viên cơ quan nhà nước cũng như các tổ chức chính trị.
Chính vì vậy, muốn phát huy vai trò của pháp luật trong đấu tranh
phịng, chống chiến lược “DBHB” địi hỏi cần có nhiều điều kiện trong đó
điều kiện về chính trị có vai trị rất quan trọng. Khi chính trị ổn định, các thiết


25
chế trong hệ thống chính trị có sự thống nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng cầm
quyền được giữ vững, tồn xã hội có được sự gắn kết, người dân được tham
gia rộng rãi vào các hoạt động của nhà nước trong đó có hoạt động thực hiện
pháp luật về phịng chống chiến lược “DBHB” thì vai trị của pháp luật trong
đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” được bảo đảm tốt hơn.

Chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết, bảo đảm cho việc phát huy vai
trò của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” bởi mục
đích chính của diễn biến hịa bình là lật đổ chế độ XHCN, thay đổi chế độ
chính trị ở quốc gia mà chúng thực hiện diễn biến hịa bình. Để thực hiện
được mục tiêu này, chúng thực hiện hàng loạt các biện pháp, cách thức nhằm
làm cho giai cấp cầm quyền, cho toàn xã hội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
theo con đường tư bản chủ nghĩa. Do vậy bảo đảm sự ổn định chính trị cũng
là điều kiện quan trọng để phát huy vai trị của pháp luật nói chung, vai trò
của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” nói riêng.
Tính dân chủ trong xã hội ngày càng được mở rộng, người dân ngày
càng được bảo đảm quyền dân chủ trực tiếp và rộng rãi hơn là điều kiện
quan trọng để họ trực tiếp tham gia vào các hoạt động của Nhà nước, trong
đó có hoạt động thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về đấu
tranh phịng chống chiến lược “DBHB” nói riêng. Qua đó, họ nhận thức và
thực hiện pháp luật về phịng chống chiến lược diễn biến hịa bình một cách
tự giác hơn. Việc phát huy dân chủ, bảo đảm tính công bằng trong xã hội
cũng là điều kiện để đấu tranh phịng, chống chiến lược “DBHB” có hiệu
quả hơn.
Pháp luật về đấu tranh phòng, chống chiến lược “DBHB” gần như trực
tiếp, cơng khai bảo vệ sự ổn định về chính trị, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, cho nên vai trị của pháp luật ln phụ thuộc vào các
điều kiện chính trị của đất nước, nếu tình hình chính trị bất ổn, các tổ chức
chính trị - xã hội hoạt động khơng có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng khơng tốt đến
vai trị của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Chính trị ổn


×