Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Luận văn thạc sĩ Văn hóa học-Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở tỉnh bến tre hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.91 MB, 106 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề bảo vệ di sản văn hố nói chung và gìn giữ, phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm một cách
nhất quán. Từ Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 đến Nghị quyết 05
của Bộ Chính trị (khóa VI) năm 1987 - Đặc biệt là từ Nghị quyết V của Ban
Chấp hành Trung ương (khóa VIII) năm 1998 đến nay, Đảng ta xác định rõ:
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường
văn hóa là nguồn lực nội sinh quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc
gia. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, thực hiện cơng nghiệp hóa và đơ thị
hóa theo hướng hiện đại, chúng ta quyết tâm xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đầm đà bản sắc dân tộc, để đạt tới mục tiêu Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
Những năm gần đây, cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất
nước, nhiều sinh hoạt lễ hội truyền thống được phục hồi và phát triển nhộn
nhịp; một số lễ hội hiện đại ra đời và cũng được nâng cao, hoàn thiện dần;
một số lễ hội vốn có qui mơ nhỏ từ một làng, nay đã phát triển thành những lễ
hội tiểu vùng, lễ hội vùng thu hút đông đảo người tham gia, khơng chỉ là cư
dân tại chỗ mà cịn có những người ngồi địa phương, du khách quốc tế, v.v...
Sự phát triển của lễ hội đã thúc đẩy nhu cầu và nhiệm vụ nghiên cứu
lễ hội. Đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về di sản văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc được thực hiện. Nhiều lễ hội dân gian với tư cách là một
bộ phận quan trọng của văn hoá cổ truyền đã và đang được nhiều người quan
tâm khảo cứu trên những góc độ khác nhau, từ đó đã tạo cho chúng ta có
những điều kiện để tìm hiểu và so sánh với nhiều lễ hội của các cộng đồng
dân cư trong cả nước.


2


Có thể nói, lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng được
hình thành sớm và tồn tại lâu bền trong lịch sử loài người. Lễ hội có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học, tiềm ẩn trong trí nhớ tâm thức của con người và
chỉ bộc lộ ra thông qua hành vi hoạt động, qua sự tiếp nhận và thể hiện của
từng con người cụ thể và vai trò sáng tạo của cá nhân rất rõ rệt. Bản chất lễ
hội là đa dạng và phong phú, vừa mang tính bền chắc, vừa mỏng manh, nó âm
thầm, lặng lẽ mai một, đơi khi biến mất mà ít khi nghe được tiếng chuông
cảnh báo. Cho nên sự nhận thức đầy đủ và sâu sắc về các giá trị lễ hội đối với
việc giữ gìn bản sắc và phát huy những giá trị vốn có của nó trong đời sống
đương đại và có biện pháp, có cơ chế chính sách thích hợp đối với cơng tác
bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội rất là cấp bách, cần thiết, là trách nhiệm của
mỗi chúng ta.
Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành của Đồng bằng sông Cửu Long.
Là một trong những vùng đất giàu truyền thống yêu nước, bất khuất, được các
thế hệ người dân Bến Tre bền bỉ nối tiếp nhau kế thừa một cách xuất sắc, từ
buổi đầu khai hoang lập ấp, chống quân xâm lược, đến thời kỳ thành lập
Đảng, rồi kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đất cù lao chính là nơi sinh ra
và hội tụ của những danh nhân như: Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký,
Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Sương Nguyệt Anh... Trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc, nổi bật là trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bến
Tre đã lập nhiều thành tích vang dội như: Phong trào Đồng Khởi diễn ra ngày
17/1/1960 rồi nhanh chóng lan rộng toàn miền Nam, với sự ra đời của Đội qn
tóc dài và Ba mũi giáp cơng (đã được ghi vào Từ điển lịch sử quân sự Việt Nam)
và tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn miền Nam, Bến Tre được tuyên
dương danh hiệu Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ diệt ngụy.
Truyền thống văn hóa Bến Tre ln được kế thừa và sáng tạo trong
tiến trình lịch sử. Từ truyền thống tự lực tự cường, đoàn kết chống lại thú dữ
trong thời kỳ khai hoang lập ấp, được sáng tạo nâng lên thành chủ nghĩa anh



3
hùng cách mạng trong sự nghiệp chống ngoại xâm với phong trào Đồng Khởi
năm 1960 và sáng tạo nên phong trào Đồng Khởi mới trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Mỗi giai đoạn đều có sự sáng tạo nên
thang bậc giá trị văn hóa mới, sức mạnh tinh thần mới, đáp ứng yêu cầu mới
của lịch sử. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bến Tre vẫn cịn các di tích lịch sử của
người Việt cổ, với một số lễ hội và các kho tàng văn hóa dân gian phong phú
và đa dạng. Tuy nhiên, trải theo tiến trình lịch sử của dân tộc thì tỉnh Bến Tre
do ảnh hưởng của chiến tranh khốc liệt, do biến đổi của lịch sử, nên lễ hội ít
được chú ý và chưa phát huy được giá trị to lớn của nó. Vì vậy, nhiều giá trị lễ
hội tại đây bị mai một, thất truyền, việc nghiên cứu phục dựng lễ hội chưa
được quan tâm đúng mức…
Với tư cách là người con của Bến Tre, được sinh ra và lớn lên từ
chính mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, được hiểu và gắn bó cũng như
được hưởng thụ từ nhiều khía cạnh của lễ hội. Trong phạm vi đề tài luận văn
Thạc sĩ của mình. Tác giả chọn đề tài: “Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở
tỉnh Bến Tre hiện nay” để nghiên cứu, tìm hiểu và nâng cao hiểu biết những
giá trị lễ hội của địa phương, làm giàu cho hành trang tri thức của mình để
phục vụ công tác được tốt hơn trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua có nhiều cơng trình nghiên cứu về lễ hội nói
chung, nghiên cứu về lễ hội ở các vùng văn hóa, của các tộc người. Việc
nghiên cứu về lễ hội ở một địa phương cụ thể, chẳng hạn ở Bến Tre, cho đến
nay vẫn còn thưa vắng. Liên quan đến những cơng trình này, có thể kể đến:
Các cuốn sách, đề tài khoa học, trong đó có đề cập đến lễ hội:
- Lễ hội cổ truyền của Viện Văn hóa dân gian, Nxb khoa học xã hội
(1992). Cơng trình đề cập đến các vấn đề lễ hội trong đời sống tinh thần, môi
trường tự nhiên và xã hội liên quan đến việc hình thành lễ hội, lịch sử lễ hội,
cơ cấu, phân loại lễ hội.



4
- Lễ hội Việt Nam trong phát triển du lịch của Dương Văn Sáu, Hà
Nội 2004. Tác giả xây dựng mơ hình, cơ cấu tổng thể về hệ thống xã hội nói
chung, đề cập đến vai trị của lễ hội, đồng thời cụ thể hóa những biện pháp,
cách thức tiến hành, triển khai các nội dung của từng công việc trong lễ hội.
- Trịnh Hồi Đức với cơng trình Gia Định thành thơng chí (1820 1822). Trong cơng trình này, tác giả có nhắc đến một hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng điển hình đó là lễ cúng Kỳ n của người Việt [17, tr.184]. Đây
là cơng trình đầu tiên viết về đất nước, con người thành Gia Định, (bao
gồm vùng đất Nam Bộ ngày nay), cơng trình này khơng miêu thuật một lễ
hội nào cụ thể.
- Những năm đầu thế kỷ XX, Phan Kế Bính viết về “Việt Nam phong
tục” (1915), ông không miêu tả một lễ hội nào cụ thể mà chỉ đề cập đến việc
thờ thần, việc tế tự, nhập tịch, Đại lễ, Lễ Kỳ an. Thu Linh - Đặng Văn Lung với
Lễ hội truyền thống và hiện đại (1984) [37, tr.92], GS. Đinh Gia Khánh tiếp cận
lễ hội cổ truyền như một thành tố văn hóa dân gian (folklore) [33, tr.76].
- Cơng trình văn hóa và cư dân Đồng bằng sơng Cửa Long - của
Nguyễn Cơng Bình, Lê Xuân Diệm Mạc Đường được công bố. Trong cuốn sách
này tác giả đề cập đến 5 lễ hội tiêu biểu ở Đồng bằng sông Cửu Long để minh
chứng sự đa dạng về văn hóa ở vùng Đồng bằng sơng Cửu Long trong đó có
Bến Tre. Cơng trình Văn hóa dân gian của người Việt ở Nam Bộ. Cuốn Từ điển
hội lễ Việt Nam (1993). Tác giả đã giới thiệu, miêu thuật 403 mục từ về nghi lễ,
các trò chơi, trị diễn...trong đó có một số lễ hội tiêu biểu liên quan ở Bến Tre.
Ngồi ra trong nhiều cơng trình khác, nghiên cứu văn hóa Việt Nam
cũng đề cặp đến lễ hội dưới nhiều gốc độ khác nhau.
* Những luận án, luận văn tiến sĩ, thạc sĩ nghiên cứu về lễ hội ở
các địa phương trong cả nước như:
- Năm 2003 - Luận án Tiến sĩ “Về biểu tượng trong lễ hội dân gian
truyền thống (qua khảo sát lễ hội dân gian truyền thống vùng châu thuộc Bắc
bộ nước ta)” - Của tác giả Nguyễn Văn Hậu.



5
- Luận án tiến sĩ “ Lễ hội truyền thống Việt Nam nhìn từ gốc độ Mỹ
học” - Của tác giả Hồ Hoàng Hoa.
- Năm 2005 - Luận án Tiến sĩ “Lễ hội là một trong những đối tượng
của Mỹ học”.
- Năm 2010 - Luận án Tiến sĩ “Lễ hội của người Việt Đồng bằng sông
Cửu Long, truyền thống và phát triển” - Của tác giả Nguyễn Xuân Hồng.
- Năm 2010 - Luận văn Thạc sĩ “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản lễ hội
truyền thống Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ” - Của tác giả Tống Minh Tồn,....
* Các cơng trình nghiên cứu về tỉnh Bến Tre, có:
- Thạch Phương - Đồn Tứ (chủ biên), “Địa chí Bến Tre” (Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2001). Quyển sách này có tính chất như một cuốn “Bách
khoa tồn thư” về Bến Tre, đặc biệt khi trình bày và luận giải vấn đề để lấy
phương pháp lịch sử làm nịng cốt. Mặc dù, cuốn sách ít đề cập đến lễ hội nhưng
đã giúp cho luận văn này có cái nhìn tổng quát về đất và người của Bến Tre.
- Năm 2005, tác giả Lư hội công bố bộ sưu tập “Các hình thức diễn
xướng dân gian ở Bến Tre”. Cuốn sách này được ra đời bên cạnh giá trị về âm
nhạc, cuốn sách còn đề cập đến những giá trị lễ hội truyền thống với những
bài hát mang tính lễ nghi trong hát sắc bùa Phú Lễ, vì nó vừa mang tính lễ
nghi nơng nghiệp pha tạp với pháp thuật đạo giáo, vừa phục vụ nhu cầu vui
chơi, giải trí của nhân dân trong dịp tết Nguyên đán.
- Năm 2006, Lư Hội với “Các hoạt động lễ hội tại Bến Tre” và “Di
sản văn hóa phi vật thể tỉnh Bến Tre”. Tác giả đi sâu giới thiệu các giá trị văn
hóa của đình làng Bến Tre, đặc biệt ông dành cả chương IV để viết về lễ hội
Kỳ yên và các giá trị nhân văn.
- “Dân ca Bến Tre” - Sở VHTT Bến Tre - 2000 do Lưu Nhất Vũ và Lê
Giang chủ biên.
* Kịch bản phim tài liệu, phóng sự: Các lễ hội truyền thống và lễ hội

hiện đại - Do Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Bến Tre sản xuất, cùng một số
bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, website…


6
Các cơng trình đã nêu trên thực sự là những gợi ý quý báu, đề cập đến lễ
hội với nhiều nội dung, nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình nào nghiên cứu sâu về lễ hội ở tỉnh Bến Tre hiện nay. Trên cơ sở các
công trình của tác giả đi trước, luận văn đi vào nghiên cứu thực trạng lễ hội ở
tỉnh Bến Tre hiện nay, đề xuất những giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy giá
trị của lễ hội trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về lễ hội, luận văn nghiên cứu
thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội trong phát triển kinh tế - xã hội
trên địa bàn tỉnh Bến Tre; đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở tỉnh Bến Tre
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lễ hội, và vai trò của lễ hội ...
- Đánh giá thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội trong phát
triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong thời gian vừa qua.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo
tồn và phát huy giá trị lễ hội vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bến
Tre trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động bảo tồn
và phát huy giá trị lễ hội ở tỉnh Bến Tre.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy

giá trị lễ hội ở tỉnh Bến Tre từ năm 1986 đến nay.
- Về không gian: Các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Bến Tre.


7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng về xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài phương pháp nghiên cứu chun ngành Văn hóa học, luận văn
cịn sử dụng hệ thống các phương pháp liên/đa ngành: phân tích - tổng hợp;
phương pháp điền dã, điều tra xã hội học, đối chiếu và so sánh, logic và lịch
sử, thống kê và phân loại văn bản… để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống
về giá trị lễ hội trong đời sống cộng đồng người Bến Tre. Trên cơ sở đó, góp phần
giúp cho cơng tác lãnh đạo, quản lý văn hóa ở tỉnh Bến Tre có những cơ sở khoa
học trong thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở địa phương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về bảo tồn và phát
huy giá trị lễ hội ở tỉnh Bến Tre.
- Luận văn là tài liệu tham khảo đối với những người quan tâm về văn
hóa lễ hội, văn hóa vùng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.



8
Chương 1
QUAN NIỆM VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI
CỦA TỈNH BẾN TRE
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI

1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
1.1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa
Văn hóa là tổng thể các hoạt động sáng tạo của con người trong quá
trình sinh tồn. Hoạt động sáng tạo ấy đã sản sinh ra những kinh nghiệm sống
được đúc kết lại thành truyền thống và thị hiếu, các giá trị và các chuẩn mực
xã hội có tính định hướng cho một cộng đồng nhất định.
Giá trị từng được coi “là cái làm cho mọi vật có ích, có lợi có ý nghĩa,
là cái đáng q về mặt nào đó” [63, tr.371] hoặc là “giá trị là phạm trù triết
học, xã hội học chỉ tính có ích, có ý nghĩa của sự vật hiện tượng tự nhiên hay
xã hội, có khả năng thỏa mãn nhu cầu phục vụ lợi ích của con người” [64,
tr.97]. Nhấn mạnh đến vai trò tiếp nhận của chủ thể đối với giá trị, các nhà
nghiên cứu xã hội học Việt Nam khẳng định: Bất cứ sự vật nào đó cũng có thể
xem là có giá trị, dù nó là vật thể hay tư tưởng, miễn là nó được người ta thừa
nhận, người ta cần đến nó như một nhu cầu hoặc cấp cho nó một vị trí quan
trọng trong đời sống của họ… Trong giá trị đều chứa đựng những yếu tố nhận
thức, yếu tố tình cảm và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự
vật, hiện tượng mang giá trị thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể.
Như vậy, có thể thấy, xét về mặt nguyên tắc, giá trị là phạm trù mang
tính xã hội, được biểu hiện như những chuẩn mực, những biểu tượng văn hóa
có tính định hướng, được cộng đồng xã hội lựa chọn, cùng nhau chia sẻ và tôn
vinh. Cho nên, khi xem xét các giá trị văn hóa nói chung, giá trị văn hóa



9
truyền thống nói riêng cần phải có nhận thức thống nhất quan niệm về giá trị,
từ đó soi vào những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể để hiểu rõ hơn về các
giá trị văn hóa hiện tồn tại.
Giá trị văn hoá là giá trị xã hội thuộc về lĩnh vực tinh thần (chân - thiện
- mỹ) được phản ánh trong các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức, tư tưởng, tình
cảm của mỗi cá nhân về cộng đồng. Giá trị văn hóa là tồn bộ các giá trị vật
chất và tinh thần thể hiện chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng
nhân văn, được biểu hiện trong hoạt động sống cũng như được kết tinh trong
các sản phẩm của cá nhân, cộng đồng dân tộc. Trong sự biến đổi và phát triển
của lịch sử, những giá trị văn hóa ngày một phát triển bám rễ sâu vào đời sống
cộng đồng, dần trở thành những hạt nhân hun đúc nên hệ giá trị đặc trưng của
nền văn hóa và là chỉ số đánh giá trình độ và tính chất đã đạt được của một
cộng đồng.
Văn hóa nhân loại là văn hóa đa bản sắc với nhiều hệ giá trị tồn tại
song song, đan xen nhau. Nói khác đi, đằng sau mỗi nền văn hóa đều ẩn tàng
một hệ giá trị, và đằng sau mỗi hệ giá trị có ẩn dấu một nền văn hóa đặc
trưng. Vì vậy, có thể nói rằng, giá trị văn hóa là cốt lõi của vấn đề văn hóa, là
căn cứ để xem xét, đánh giá và xác định bản sắc văn hóa của một dân tộc. Khi
hệ giá trị văn hóa đã hình thành thì nó có vai trị định hướng cho các mục tiêu,
phương thức và hành động của con người trong xã hội, trở thành vốn xã hội,
nguồn lực xã hội trong phát triển.
1.1.1.2. Quan niệm về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
Trong nghiên cứu, cũng như trong hoạt động bảo tồn chúng ta thường
hay bắt gặp ba thuật ngữ đó là: bảo quản, bảo vệ và bảo tồn.
Nếu bảo quản cho thấy việc sử dụng những biện pháp kỹ thuật để gìn
giữ, chăm sóc để đối tượng có thể tồn tại lâu dài; bảo vệ là làm cho đối tượng
được chăm sóc khơng bị xâm phạm thì bảo tồn mang ý nghĩa rộng hơn của



10
hoạt động giữ gìn một cách an tồn khỏi sự tổn hại, sự xuống cấp hoặc phá
hại và đảm bảo sự bền vững cho đối tượng.
Cho đến nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về bảo tồn, song tựu
chung lại có những hướng cơ bản sau:
Bảo tồn nguyên vẹn hay còn gọi là bảo tồn trong dạng “tĩnh”. Trong đó,
chủ yếu là vận dụng kỹ thuật để đảm bảo giữ nguyên trạng thái hiện vật như
sự vật vốn có về kích thước, vị trí, đường nét màu sắc, kiểu dáng đối với di
sản vật thể. Đối với văn hóa phi vật thể, bảo tồn ở dạng “tĩnh” là tiến hành
điều tra sư tầm, thu thập các dạng thức văn hóa phi vật thể như nó vốn có, lưu
giữ chúng ở dạng bản ghi chép hoặc mô tả bằng băng hình, bằng băng hoặc
các dạng khác để có thể lưu giữ được lâu nhất…
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa hay bảo tồn ở dạng “động” tức là bảo tồn
các hiện tượng văn hóa vốn cổ giữ gìn những nét cơ bản của di tích, cố
gắng phục chế lại nguyên trạng di sản văn hóa vật thể. Đối với các di sản
văn hóa phi vật thể, bảo tồn “động” trên cơ sở kế thừa là bảo tồn các hiện
tượng văn hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng, giữ gìn, bảo vệ
vốn cổ đồng thời làm giàu và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể trong q
trình phát triển. Bảo tồn theo quan điểm phục hồi nguyên dạng di sản văn
hóa phi vật thể chính là mong muốn “lý tưởng” nhất, hồn hảo nhất. Nếu
khơng thể bảo tồn nguyên dạng thì phải bảo tồn theo hiện dạng đang có.
Bởi theo quy luật của thời gian thì các di sản văn hóa phi vật thể ngày càng
có xu hướng xa dần nguyên gốc. Do vậy, nếu không thể khơi phục được
ngun gốc thì bảo tồn hiện dạng là điều cần phải thực hiện và có ý nghĩa
khả thi nhất, làm cho di sản văn hóa đó có thể tiếp tục song hành cùng xu
hướng phát triển của cuộc sống.
Phát huy gía trị văn hóa là những hành động nhằm đưa văn hóa vào
thực tiễn xã hội với ý nghĩa là nguồn nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự
phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất và tinh thần cho con người,



11
cũng là theo đuổi tính mục tiêu của văn hóa đối với sự phát triển xã hội. Phát
huy còn bao hàm ý nghĩa đó chính là mơi trường tốt nhất để bảo tồn và làm
giàu chính bản thân văn hóa.
Xét cho cùng văn hóa khơng thể được bảo tồn và làm giàu nếu như
không được phát huy trong đời sống xã hội. Chính trong mơi trường xã hội
sống động, văn hóa sẽ được ni dưỡng, bảo tồn, được sinh sơi, nảy nở như
một cơ thể sống. Phát huy giá trị văn hóa chính là việc khai thác, sử dụng các
sản phẩm văn hóa một cách có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, xét cho cùng, bảo tồn và phát huy là hai mặt của một vấn
đề, có mối liên quan hữu cơ với nhau, cái này là tiền đề cho sự tồn tại của cái
kia, thiếu đi một cái sẽ làm mất đi ý nghĩa tổng thể và toàn vẹn. Bởi lẽ, văn
hóa là cái thể hiện sức sống của làng xã, quốc gia, dân tộc, được trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn mà không đem ra sử dụng thì
khơng phát huy được giá trị ẩn chứa trong mỗi di sản văn hóa, theo quy luật
thời gian sẽ làm phai mờ và nhanh chóng bị chìm vào quên lãng. Chỉ khi giá
trị di sản văn hóa được phát huy thì mới có cơ sở, và điều kiện để bảo tồn di
sản một cách trọn vẹn. Bảo tồn sẽ làm cơ sở cho sáng tạo, phục vụ phát huy
và ngược lại phát huy giúp cho bảo tồn di sản văn hóa được tốt hơn. Vì vậy,
cần xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, để bảo tồn không cản
trở sự phát triển, trái lại còn tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững. Đồng thời
khi xem xét một hiện tượng văn hóa cụ thể, nhất là các hiện tượng văn hóa
phi vật thể thì bảo tồn và phát huy là hai mặt của một hoạt động cần được
nhận thức và thực hiện nhất quán.
1.1.2. Quan niệm về bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội và việc nghiên
cứu bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở tỉnh Bến Tre hiện nay
1.1.2.1. Quan niệm về lễ hội
Lễ hội xuất hiện sớm, không ngừng vận động và trường tồn trong tiến
trình lịch sử - văn hóa, lễ hội đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển luôn luôn



12
là một hình thức sinh hoạt cộng đồng tổng hợp cao nhiều loại hình sinh hoạt
văn hóa và là thành tố khơng thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa bình thường
của mọi cộng đồng dân tộc, quốc gia.
Lễ hội của mỗi cộng đồng thường gắn bó với lịch sử khai phá, bảo vệ
và xây dựng của cư dân trên từng vùng đất cụ thể, được tạo nên bằng sự kết
hợp của nhiều thành tố văn hoá, chứa đựng những phong tục, tập qn, tín
ngưỡng, tơn giáo, nghệ thuật biểu diễn…trong một khơng gian nhất định. Văn
hóa lễ hội là minh chứng cho sự tồn tại và hòa hợp của con người và tự nhiên
trong tiến trình lịch sử. Gắn liền với những bước đi lịch sử, lễ hội cổ truyền là
một bảo tàng phong phú về đời sống văn hóa của cộng đồng, nó cũng phán
ánh q trình lao động, chiến đấu đầy khí phách của nhân dân cùng những
biến cố xã hội quan trọng. Lễ hội là dịp để con người giao lưu, cộng cảm và
trao truyền những đạo lý, tình cảm, những mỹ tục, thuần phong những khát
vọng cao đẹp, củng cố tinh thần cố kết cộng đồng, tình u q hương, đất
nước và lịng tự hào về nguồn gốc lịch sử của mình.
Hiện nay, định nghĩa hay khái niệm lễ hội còn nhiều cách hiểu cách lý
giải khác nhau trong giới nghiên cứu. Theo Từ điển tiếng Việt, đó là cuộc vui
chung có tổ chức, có các hoạt động lễ nghi mang tính văn hóa truyền thống của
dân tộc. Lễ hội gồm hai phần: lễ và hội. Trong lễ hội thì sự phân chia giữa lễ và
hội chỉ là tương đối, thực tế có những sinh hoạt văn hố dân gian chỉ có lễ mà
khơng có hội hoặc ngược lại. Theo nhà nghiên cứu Bùi Thiết “lễ hội là các hoạt
động đạt đến các trình độ lễ nghi, hội là các hoạt động lễ nghi đã đạt đến các
trình độ cao hơn, trong đó có các hoạt động văn hóa truyền thống” [56].
Khác một chút với quan niệm trên, một chuyên gia về lĩnh vực văn
hóa dân gian GS, TS. Nguyễn Xuân Kính cho rằng: “Lễ hội là một tổng thể
gồm nhiều yếu tố, mang nhiều ý nghĩa, gồm lễ và hội, có phần linh thiêng và
có phần đời thường, có cả ước mong và hiện thực, có tính văn nghệ giải trí và

có cả tinh thần thượng võ” [36, tr.44].


13
Theo quan điểm trong cơng trình nghiên cứu: Lễ hội Việt Nam trong
sự phát triển du lịch của Dương Văn Sáu chủ biên, cho rằng: Lễ hội là một
sinh hoạt văn hóa dân gian ngun hợp mang tính cộng đồng cao của các tầng
lớp nhân dân, diễn ra trong những chu kỳ về không gian và thời gian nhất định
để tiến hành những nghi thức mang tính biểu trưng về sự kiện nhân vật được thờ
cúng. Những hoạt động này nhằm để tỏ rõ những ước vọng của con người, để
vui chơi giải trí trong tính cộng đồng cao. Lễ hội là những hoạt động sinh hoạt
văn hóa mà ở đó có sự gắn kết khơng thể tách rời của cả nội dung và hình thức
của hai thành tố cơ bản là lễ và hội…Từ đó tác giả cho rằng:
Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, diễn ra trên một
địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc
lại một sự kiện nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại, đồng thời là dịp
để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên,
thần thánh và con người trong xã hội [50, tr.35].
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu văn hóa vẫn chưa nhất quán trong việc
sắp xếp cụm từ “lễ hội” hay “hội lễ” nên GS. Ngô Đức Thịnh chỉ ra một cách
cụ thể:
Lễ hội là một hiện tượng tổng thể, không phải là thực thể chia đôi
(phần lễ và phần hội) một cách tách biệt như một số học giả đã quan
niệm mà nó được hình thành trên cơ sở một cốt lỗi nghi lễ tín
ngưỡng nào đó, rồi từ đó nảy sinh là tích hợp các hiện tượng sinh
hoạt văn hóa, phái sinh để tạo nên một tổng thể lễ hội. Cho nên
trong lễ hội, phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phát
sinh tích hợp [58, tr.13].
Trong cuốn Hội hè Việt Nam, các tác giả đã định nghĩa khái niệm lễ
hội như sau: “Hội và lễ là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam

chúng ta. Hội và lễ có sức hấp dẫn lơi cuốn các tầng lớp trong xã hội để trở


14
thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ” [45,
tr.32]. Theo tác giả thì lễ hội là hai phạm trù hợp nhất thành một sinh hoạt văn
hóa cộng đồng hồn chỉnh. Và tác giả đi đến khẳng định “lễ và hội là một thể
thống nhất khơng chia tách trong hoạt động tín ngưỡng và tơn giáo của con
người. Lễ là phần đạo, phần tín ngưỡng, phần thế giới tâm linh sâu lắng của
con người. Còn hội là tập hợp các trị diễn có tính lễ nghi, có nhiệm vụ bổ
sung cho lễ, hồn chỉnh ý nghĩa và nội dung của một sinh hoạt cộng đồng tại
một thời điểm nhất định.
Trong các cơng trình nghiên cứu: Lễ hội truyền thống trong xã hội
hiện đại của GS. Đinh Gia Khánh và GS.TS. Lê Hữu Tầng chủ biên [36,
tr.76], Lễ hội cổ truyền và hiện đại của PGS.TS. Thu Linh, PGS.TS. Đặng
Văn Lung [37, tr.92], Quản lý lễ hội truyền thống trong tình hình hiện nay của
PGS.TS. Lê Hồng Lý, các nhà nghiên cứu đều thống nhất với nhau ở việc
xem cấu trúc lễ hội bao gồm phần lễ và phần hội và chúng có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nhà nghiên cứu Trần Bình Minh cịn chỉ ra rằng: “lễ và hội hịa
quyện xoắn xít với nhau để cùng biểu thị một giá trị nào đó của một cộng
đồng, trong lễ có hội và trong hội có lễ [40, tr.120].
Một nhà văn hóa người Nga Mikhail Bakhtin, đã cung cấp một sự
kiến giải có tính ngun lý về lễ hội. Ông viết: “Hội hè (mọi kiểu) - đó là một
hình thái ngun sinh rất quan trọng của văn hóa nhân loại. Khơng thể tìm
nguồn gốc và khơng thể cắt nghĩa nó xuất phát từ những điều kiện thực tiễn
và những mục tiêu của lao động xã hội, hoặc là - hình thức giải thích cịn
dung tục hơn - từ nhu cầu sinh vật (sinh lý) là được nghỉ ngơi thường kỳ. Hội
hè bao giờ cũng có một nội dung hàm nghĩa sâu, một nội dung thế giới quan
cơ bản và sâu sắc”. Theo ơng, khơng có một khâu nào trong tồn bộ q trình
lao động, “tự thân chúng lại có thể trở thành hội hè”. Hay hiểu một cách khác

là lễ hội không chỉ xuất phát thuần túy từ quá trình lao động, từ những


15
phương tiện vật chất, mà trước hết từ mục tiêu cao nhất của sự tồn tại nhân
sinh tức là từ thế giới tinh thần, tư tưởng, từ lý tưởng sống [2, tr.31-32].
Từ các quan điểm về lễ hội của các nhà nghiên cứu, các học giả nêu
trên cho thấy có nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về lễ hội, tùy thuộc
vào gốc độ tiếp cận, nhưng nhìn chung các học giả, các nhà nghiên cứu điều
đã chỉ ra cấu trúc hai mặt trong một chỉnh thể của lễ hội, đó là hai yếu tố:
“Lễ” và “Hội”, phần lễ có tính nghiêm trang bắt buộc một cách bài bản với
những quy định cụ thể về các nghi lễ, lễ tiết cặn kẽ để mọi người tuân thủ; phần
hội với các trò vui, trò diễn, cuộc đấu phong phú, đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi, vui
chơi, giải trí, tâm linh, tính ngưỡng của mọi người dự hội. Hội gắn liền với lễ và
chịu sự quy định nhất định của lễ, có lễ mới có hội [37, tr.32]. Phần “Lễ” gắn
với những tín ngưỡng của đời sống tâm linh bằng các nghi thức, nghi lễ thể hiện
sự tơn kính, ngợi ca, cầu xin...Phần “Hội” là dịp các thành viên trong cộng đồng
và khách thập phương gặp gỡ, trao đổi; là dịp mà các sinh hoạt vui tươi giải trí
của cộng đồng được tổ chức cho đơng đảo người dự.
Như vậy, tính định hình tương đối của một hiện tượng văn hóa đã cho
phép chúng ta phác thảo ra diện mạo của lễ hội. Các yếu tố và thành phần của
lễ hội khơng chỉ gắn với nhau một cách hình thức mà chúng còn quy định lẫn
nhau. Với một cấu trúc độc đáo nên lễ hội là hệ thống mở, cho phép tiếp nhận
nhiều loại hình hoạt động văn hóa khác vào trong tổ hợp của nó, lại vừa đủ
định loại về mặt hình thái để phản ánh một cách cao nhất tư tưởng và tình
cảm của nhân dân qua các thời đại và để làm trịn chức năng của nó trong đời
sống tinh thần của con người. Có ý nghĩa quan trọng trong một không gian và
thời gian thiêng liêng và bằng những lễ thức trang trọng cùng các loại hình
văn hóa cộng đồng hướng đến sự kiện đó; các lễ hội đều xuất phát từ nhu cầu
của nhân dân thường diễn ra như một cơ hội để con người thể hiện tấm lịng

sùng kính của mình với đức tin mà mình đã chọn.


16
Đặc trưng của lễ hội
Là một hoạt động văn hóa xã hội mang tính tổng thể, lễ hội vừa
biểu hiện tính đặc trưng vừa mang tính khái qt, nó phản ánh sự ra đời và
tồn tại trong những điều kiện khác nhau của đời sống xã hội. Lễ hội là một
công đoạn của sản xuất nông nghiệp, là kết thúc một chu kỳ sản xuất cũ,
mở đầu một chu kỳ mới, lễ hội đáp ứng nhu cầu thưởng thức các giá trị văn
hóa tinh thần của người nơng dân, phản ánh đặc điểm tính ngưỡng, phong
tục tập quán, sự phân tầng xã hội, vai vế trong làng xã qua tế lễ; thể hiện
khát vọng của người nông dân cầu mong cho mưa thuận gió hịa, mùa màn
tươi tốt, con cháu đầy đàn, thể hiện sự khát khao vươn tới cái đẹp của
người nơng dân. Do đó, đặc trưng của lễ hội được biểu hiện ở nhiều tính
chất khác nhau như:
Tính thời gian: Bất kỳ lễ hội nào cũng phải tồn tại trong khơng gian
của nó, khơng có lễ hội phi thời gian, không gian. Nghi thức thờ cúng tổ tiên,
thần thánh theo những chu kỳ thời gian nhất định, hoặc tồn tại trong tâm thức
người dân và dần dần trở thành lịch trình sinh hoạt của họ.
Qua thực tế thì thường lễ hội cổ truyền gắn liền với mùa xuân, cũng
có nhiều lễ hội được tổ chức theo xuân thu nhị kỳ; ngoài ra với những lễ hội
hiện đại thường diễn ra trọng thể vào những năm chẳn, những dịp kỷ niệm
tròn năm năm, mười năm, năm mươi năm...các sự kiện chính trị, qn sự,
văn hóa xã hội của đất nước.
Tính khơng gian: Lễ hội bao giờ cũng gắn với một địa điểm, một địa
phương nhất định, do người dân ở khu vực đó tổ chức và trước hết dành cho
nhân dân địa phương đảm nhận và hưởng thụ những giá trị và lợi ích do lễ hội
đem lại, sau đó mới dành cho khách du lịch gần xa. Chủ nhân của lễ hội chính
là nhân dân, họ là những người sáng tạo, nuôi dưỡng và tổ chức lễ hội. Mỗi lễ

hội đều gắn với kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của cư dân nơi đó; ra đời,


17
tồn tại và phát triển trong nhân dân, do vậy, lễ hội bao giờ cũng mang bản sắc
văn hóa dân tộc, vùng miền đặc sắc.
Mỗi địa phương có một tục lệ riêng góp phần vào kho tàng bản sắc văn
hóa truyền thống, thơng qua việc tìm hiểu tục lệ sẽ làm rõ một phần lịch sử của
địa phương; chính vì thế, lễ hội là nơi góp phần giữ gìn truyền thống lịch sử. Ở
mỗi địa phương, không gian trung tâm của lễ hội truyền thống gắn với các cơng
trình Di tích lịch sử văn hóa của nơi đó như: Đình, đền, chùa, miếu...
Đối với những lễ hội hiện đại thường diễn ra ở các trung tâm đô thị,
trung tâm hành chính, chính trị văn hóa xã hội của các địa phương, diễn ra ở
chính những nơi diễn ra các sự kiện chính trị, quân sự nổi bậc mà hệ quả của
nó có tác động, ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ đến đời sống xã hội, góp phần
quyết định tiến trình phát triển của lịch sử, địa phương, quốc gia, dân tộc.
Phân loại lễ hội
Lễ hội là một loại hình sinh họat văn hóa của một tập thể người. Bản
chất của lễ hội là đa dạng. Nhiều nhà nghiên cứu có những cách tiếp cận và
đặt ra những tiêu chí để phân loại lễ hội.
Quy chiếu theo lịch đại, lễ hội được phân loại thành lễ hội cổ truyền
và lễ hội hiện đại. Lễ hội cổ truyền là những lễ hội được hình thành từ trong
lịng xã hội tiền cơng nghiệp, được lưu truyền đến ngày nay, gồm có lễ hội
dân gian - một bộ phận của văn hóa dân gian truyền thống và lễ hội tôn giáo
gắn với sinh hoạt của các tơn giáo. Lễ hội hiện đại (cịn được gọi là lễ hội
mới, lễ hội cách mạng,…) được ra đời trong thời đại ngày nay.
Quy chiếu theo cấp độ tổ chức và quy mô xã hội, lễ hội được phân
loại thành lễ hội làng; lễ hội tiểu vùng hoặc lễ hội vùng (thường gắn với
những cơ sở tín ngưỡng tơn giáo của địa phương như đình, miếu, lăng, đền...;
đã được thiết chế hóa mang tính “chun mơn”, tương đối nền nếp, ổn định;

có những nét đặc thù và chi phối mạnh mẽ cộng đồng người của một làng


18
hoặc một vùng,…); lễ hội quốc gia, dân tộc (có quy mô to lớn và tổ chức chi
phối sâu rộng tới mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, quốc gia,...)
Quy chiếu theo, đặc điểm nội dung và đối tượng cử lễ, lễ hội đuợc
phân loại thành những loại hình, như: Lễ hội gắn với các nghi lễ nông nghiệp
cổ truyền, lễ hội tưởng niệm các nhân vật lịch sử, lễ hội gắn với tín ngưỡng
phồn thực và giao duyên, lễ hội tôn vinh truyền thống nghề nghiệp, lễ hội lịch
sử - văn hóa, lễ hội tơn giáo, lễ hội thi tài… Có thể nói, việc phân loại lễ hội
chỉ mang tính tương đối, nhưng là cơ sở để tìm ra những đặc trưng bản chất
của từng lễ hội.
1.1.2.2. Quan niệm về giá trị lễ hội
Trước hết, phải khẳng định rằng, giá trị lễ hội là một loại giá trị văn
hố. Lễ hội vốn là một sinh hoạt văn hóa mang tính nguyên hợp, chứa đựng
nhiều thành tố từ những sáng tác ngơn từ truyền miệng đến hình thức, nội
dung tế lễ và nghệ thuật trình diễn, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật âm nhạc,
múa… làm nên một khơng gian sinh hoạt tinh thần sống động, đáp ứng những
nhu cầu nhất định của cộng đồng. Giá trị của lễ hội chính là những khía cạnh
nhân văn, nhân bản hướng đến chân, thiện, mỹ mà lễ hội mang lại cho cộng
đồng, được khái quát thành các nội dung cơ bản sau:
Giá trị cố kết cộng đồng
Lễ hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong văn hoá và phong tục, mang
đậm bản sắc dân tộc, phản ánh tâm hồn của những người lao động, có ý nghĩa
và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống tinh thần, đặc biệt là trong đời sống
ở nông thôn. Lễ hội thường hướng tới những đối tượng thiêng liêng mà cộng
đồng cho rằng cần phải suy tôn, là dịp để con người giao lưu, cộng cảm và
trao truyền những đạo lý tình cảm cùng những mỹ tục và khát vọng cao đẹp,
lễ hội còn là cái cầu nối của quá khứ và hiện tại, củng cố tinh thần cố kết cộng

đồng tình yêu quê hướng đất nước, lòng tự hào về cội nguồn và lịch sử của


19
mình. Chính vì vậy mà 1ễ hội bao giờ cũng có sức thu hút, mời gọi kỳ lạ đối
với nhiều lớp người, nhiều lứa tuổi khác nhau.
Thực tế cho thấy lễ hội nào cũng thuộc về của một cộng đồng người
nhất định, lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng là chất kết dính
tạo nên sự cố kết cộng đồng, là mơi trường góp phần quan trọng tạo nên sự
cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng. Ngày nay trong điều kiện
đổi mới, một xã hội hiện đại, khi con người có điều kiện khẳng định bản thân
của mình thì tự thân mỗi người đơi khi lại rơi vào tình trạng độc lập, riêng
biệt, tách rời cuộc sống xã hội. Trong điều kiện như vậy, con người càng
muốn bù đắp sự thiếu hụt của mình từ cộng đồng để thốt khỏi tâm trạng cơ
đơn của mình trong xã hội hiện đại, sự bù đắp đó được tìm thấy trong các kỳ
lễ hội. Do đó, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng
đồng và tạo nên sự kết cấu cộng đồng ấy [59, tr.185].
Giá trị tâm linh
Gắn liền với các chặng đường lịch sử, lễ hội là một bảo tàng phong
phú về đời sống tinh thần - văn hoá của cộng đồng, đồng thời nó cũng phản
ánh q trình lao động, chiến đấu đầy khí phách của nhân dân và những biến
cố quan trọng của xã hội. Do đó, lễ hội có tác động sâu sắc đến đời sống tâm
linh, tư tưởng tình cảm và tính cách của con người ở mỗi vùng đất qua nhiều
thế hệ. Thực tế cho thấy, sức lan tỏa của lễ hội diễn ra liên tục và mạnh mẽ,
tác động đến tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, cốt cách của nhiều thế hệ,...
Nói đến tâm linh là nói đến “cái ý niệm sâu xa bên trong được bao
trùm bởi cái gì đó thật linh diệu huyền bí mà con người tự cảm nhận được”
[48, tr.62]. Lễ hội là trung tâm tích tụ, lưu truyền văn hóa của dân tộc, của địa
phương, thể hiện đời sống tâm linh của cộng đồng làng xóm đối với thần
thánh, là dịp để nhân dân bày tỏ lịng sùng kính, biết ơn, cầu nguyện những

điều mong ước trong cuộc sống, là dịp để dân làng tiếp cận với thần để thần


20
ban sức mạnh vật chất và tinh thần. Trong cuộc sống không lúc nào mọi ước
mong trong lao động của con người cũng được thực hiện trôi chảy đầy đủ, mà
trái lại, đôi khi những yếu tố khách quan làm hủy hoại những ước muốn trong
đời sống của con người, thì con người khơng chỉ khổ sở vì thiếu thốn vật chất,
mà còn rất căng thẳng về mặt tinh thần, về tâm linh. Do vậy con người cần tổ
chức các lễ hội để cúng thần linh, cầu mong thần linh phù hộ để vượt qua khó
khăn trong cuộc sống. Khi thực hiện xong lễ hội, tâm linh của họ cảm thấy
thanh thản, nhẹ nhàng và tự tin trong cuộc sống, trong lao động sản xuất.
Trong đời sống, con người luôn hướng về cái cao cả thiêng liêng
“chân, thiện, mỹ”, cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó
có niềm tin tơn giáo, tín ngưỡng. Như vậy, tơn giáo, tín ngưỡng thuộc về đời
sống tâm linh; chính tơn giáo, tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm
thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người, làm trạng thái thăng
hoa từ đời sống trần tục, hiện hữu. Trở về với lễ hội, con người dường như
được tắm mình trong dịng nước mát đầu nguồn của văn hóa dân tộc, tận
hưởng những giây phúc thiêng liêng, cao cả, được sống trong những giờ phút
giao cảm đầy tinh thần cộng đồng. Từ đó, có thể thấy rằng lễ hội đã thuộc về
phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh [59, tr.186]
Giá trị giáo dục
Lễ hội góp phần nâng cao hiểu biết về cội nguồn và bản sắc văn hóa
dân tộc. Dù ở đâu, trong lễ hội nào, những hoạt động diễn ra trong lễ hội đều
nhằm ôn lại quá khứ một địa phương, một cộng đồng dân cư. Những hoạt
động đó nhằm nhắc lại vai trị, cơng lao của thành thần, của các bậc tiền nhân.
Đó cũng là cội nguồn của tự nhiên, đất nước, xóm làng và cội nguồn của cả
hệ thống tơn giáo - tín ngưỡng truyền thống. Hoạt động lễ hội là hoạt động
văn hóa mang tính tưởng niệm hướng về sự kiện và nhân vật lịch sử được dân

chúng địa phương thờ cúng. Nó trở thành nền tảng cơ sở để giáo dục quần


21
chúng nhân dân, nhắc nhở các thế hệ con cháu ôn lại truyền thống của cha
ông, nhớ ơn các bậc tiền nhân có cơng với nước, với địa phương. Các lễ thức,
nghi thức, trị diễn, huyền tích về thần thánh...đều thể hiện đạo lý “Uống nước
nhớ nguồn” trong hằng số tâm thức Việt Nam. Những lễ hội với nhiều nội
dung và hình thức khác nhau nhưng đều bày tỏ thái độ trân trọng quá khứ, tôn
vinh tiền nhân, những người có cơng với nước. Đây chính là động thái hướng
về truyền thống của thế hệ đương thời” [50, tr.42].
Trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tồn cầu hóa, con người
càng có nhu cầu hướng về tìm lại cái cội nguồn tự nhiên của mình, hịa mình
vào với mơi trường thiên nhiên, trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc
cộng đồng và bản sắc văn hóa của mình trong cái chung của văn hóa nhân
loại. Chính nền văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội là một biểu tượng
đáp ứng nhu cầu ấy và đó cũng là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ
hội đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại [59, tr.185]
Giá trị nguồn lực văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội
Như trên đã đề cập, phát huy giá trị văn hóa là những hành động
nhằm đưa văn hóa vào thực tiễn xã hội với ý nghĩa là nguồn nội lực, tiềm
năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi ích vật chất
và tinh thần cho con người, cũng là theo đuổi tính mục tiêu của văn hóa đối
với sự phát triển xã hội, là tạo môi trường tốt nhất để bảo tồn và làm giàu
chính bản thân văn hóa.
Lễ hội chính là một giá trị nguồn lực văn hố có chức năng điều tiết
và thúc đẩy xã hội theo những mục tiêu phát triển của từng thời kỳ, giai đoạn
khác nhau. Lễ hội không chỉ đơn thuần là một giá trị tinh thần đặc thù. Thông
qua tổ chức lễ hội, hoạt động của cộng đồng hồn tồn có thể được gắn kết
với các cuộc triển lãm về thành tựu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, các

hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao, hàng thủ công mỹ nghệ, các liên hoan
du lịch làng nghề truyền thống... nhằm khai thác, phát huy các thế mạnh của


22
địa phương cũng như liên kết giữa các địa phương, các vùng với nhau trong
phát triển kinh tế, xã hội.
Giá trị đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân
Lễ hội là một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống tinh thần
của nhân dân, đến với lễ hội chúng ta hình như.
Được tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn, tận hưởng những
giây phút thiêng liêng, được sống trong những giờ phút giao cảm hồ
hỡi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phơ bày những gì tinh
túy, đẹp đẽ nhất của bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức
trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy, đẹp đẽ khác hẳn
ngày thường [57, tr.07].
Chính vì lẽ đó, lễ hội đã đáp ứng cơ bản nhu cầu của đời sống văn hóa
tinh thần của con người.
Người dân sau một thời gian lao động sản xuất vất vả và muốn nghỉ
ngơi, vui chơi, bù đắp thiếu hụt đều có nhu cầu bổ sung nguồn năng lượng
tiêu hao thông qua việc tham gia các lễ hội, ở đây họ được bù đắp, khám phá
những điều mới mẻ, hấp dẫn của đời sống văn hóa.
Lễ hội chính là thời điểm mà ở đó đơng đảo các tầng lớp nhân dân
giành thời gian nhàn rỗi, tiền bạc của mình cho quá trình vui chơi,
giao thoa với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giải tỏa
những ức chế trong công việc, trong cuộc sống thường nhật, đồng
thời là dịp gặp gỡ, đón tiếp giao lưu với những người bà con, họ
hàng, bạn bè trong từng vùng, trong khu vực được giao lưu với
nhau...Đây là một trong những nguyên nhân đầy tinh thần nhân bản,
giúp lễ hội có sức sống mạnh mẽ trong đời sống xã hội qua hàng

nghìn năm lịch sử [50, tr.49].
1.1.2.3. Quan niệm về bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội


23
Hiện nay, xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập văn hóa ngày càng trở
nên sâu rộng, bản lĩnh văn hóa Việt Nam đang phải đối mặt trực tiếp với
những thách thức lớn, liên quan đến sự sống còn của dân tộc. Trong việc xử lý
mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa với tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế có ý nghĩa to
lớn. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa là nhằm mục đích xây dựng văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bởi vì việc bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa chính là để làm cho văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần trở thành
tinh hoa văn hóa nhân loại.
Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội là gìn giữ và khai thác làm lan tỏa
những giá trị văn hóa của lễ hội trong sự phát triển vận động theo quy luật
khách quan của đời sống cộng đồng. Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội là
những hành động nhằm đưa lễ hội vào thực tiễn xã hội với ý nghĩa là nguồn
nội lực, tiềm năng góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội, mang lại những lợi
ích vật chất và tinh thần cho con người, cũng là theo đuổi tính mục tiêu của
văn hóa đối với sự phát triển xã hội.
Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội hiện nay đang trở
thành vấn đề cần thiết, nhất là việc xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và
phát triển, dưới sự tác động nhiều mặt của điều kiện kinh tế, xã hội ở các địa
phương và trong cả nước. Thực tế cho thấy, các hình thái văn hóa phi vật thể,
trong đó có lễ hội ở nước ta đang đứng trước nhiều nguy cơ mai một hoặc
biến dạng. Do vậy, cần phải xác lập một quan điểm kế thừa và phát huy giá trị
lễ hội một cách đúng đắn.
1.1.2.4. Định hướng nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội ở
tỉnh Bến Tre hiện nay của luận văn

Thứ nhất, gắn liền với những bước đi lịch sử, lễ hội của tỉnh Bến Tre
là một bảo tàng phong phú về đời sống văn hóa của cộng đồng, phản ánh q
trình lao động, chiến đấu đầy khí phách của nhân dân cùng những biến cố xã


24
hội quan trọng. Lễ hội là dịp để con người giao lưu, cộng cảm và trao truyền
những đạo lý, tình cảm, những mỹ tục, thuần phong những khát vọng cao đẹp,
củng cố tinh thần cố kết cộng đồng, tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự
hào về nguồn gốc lịch sử của mình.
Lễ hội ở Bến Tre, dù quy mơ lớn hay nhỏ cũng điều có ý nghĩa biểu
dương sức mạnh cộng đồng, thu hút cả tâm trí và sức lực của mỗi thành viên
và tạo điều kiện để họ vừa sáng tạo vừa hưởng thụ văn hóa, đồng thời cũng
đóng vai trị phổ biến các giá trị văn hóa của lễ hội địa phương với cơng
chúng của địa phương khác.
Tìm hiểu lễ hội ở tỉnh Bến Tre, có thể thấy, việc thờ tự ln có sự hỗn
dung trong diễn trình văn hóa (mặt lịch đại), tính chất khơng thuần nhất của
các nhóm cộng đồng sinh hoạt theo nghề nghiệp (mặt đồng đại) trong quan hệ
đối với đối tượng thờ cúng, mục đích cầu cúng nhất là lễ hội lớn và có độ bao
phủ rộng khắp cộng đồng như lễ hội Kỳ yên (Cầu an), lễ Tết Đoan Ngọ, Tết
Trung Thu…(mặt lịch đại).
Vì vậy, luận văn xác định lấy tiêu chí quy chiếu theo lịch đại để phân
chia lễ hội và xem xét lễ hội ở Bến Tre ở hai loại lớn: lễ hội cổ truyền và lễ
hội hiện đại. Lễ hội cổ truyền là những lễ hội được hình thành từ trong lịng
xã hội tiền cơng nghiệp, được lưu truyền đến ngày nay, gồm có lễ hội dân
gian - một bộ phận của văn hóa dân gian truyền thống và lễ hội tôn giáo gắn
với sinh hoạt của các tơn giáo. Lễ hội hiện đại (cịn được gọi là lễ hội mới, lễ
hội cách mạng…) được ra đời trong thời đại ngày nay.
Việc xem xét lễ hội theo cấp độ tổ chức và quy mô xã hội cũng như
theo đặc điểm nội dung và đối tượng cử lễ như đã được đề cập ở phần phân

loại lễ hội nêu trên sẽ được nhuyễn vào trong khi đề cập các nội dung cụ thể
của các lễ hội.


25
Thứ hai, nếu tính trên số lượng hoạt động lễ hội được tổ chức ở Bến
Tre hàng năm thì con số thống kê sẽ lên tới hàng trăm, theo một thống kê
chưa chính thức của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bến Tre là 601 lễ hội.
Tuy số lượng như vậy nhưng hầu hết các hoạt động lễ hội ở Bến Tre chỉ thuộc
về một số lễ hội nhất định, nhất là những lễ hội có độ phủ sóng rộng như lễ hội
gắn với các thiết chế như đình, miếu, lăng hoặc các lễ hội gắn với các sự kiện
lịch sử, cách mạng hiện đại…Vì vậy, luận văn sẽ chọn cách đi sâu nghiên cứu
thực tiễn một số lễ hội tiêu biểu ở hai loại hình cổ truyền và hiện đại để làm căn
cứ cho những nhận định đánh giá chung về bức tranh bảo tồn và phát huy giá trị
lễ hội ở tỉnh Bến Tre hiện nay, từ đó xác định những vấn đề đặt ra về bảo tồn và
phát huy giá trị lễ hội trong thời gian tới ở Bến Tre.
Thứ ba, luận văn cũng quan niệm bảo tồn và phát huy là hai mặt của
một vấn đề, có mối liên quan hữu cơ với nhau, cái này là tiền đề cho sự tồn tại
của cái kia, thiếu đi một cái sẽ làm mất đi ý nghĩa tổng thể và tồn vẹn. Bởi
lẽ, lễ hội chính là cái thể hiện sức sống của làng xã, quốc gia, dân tộc, được
trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn mà không đem ra
sử dụng thì khơng phát huy được giá trị ẩn chứa trong mỗi di sản văn hóa,
theo quy luật thời gian sẽ làm phai mờ và nhanh chóng bị chìm vào quên lãng.
Chỉ khi giá trị di sản văn hóa được phát huy thì mới có cơ sở, và điều kiện để
bảo tồn di sản một cách trọn vẹn. Bảo tồn lễ hội sẽ làm cơ sở cho sáng tạo,
phục vụ phát huy lễ hội và ngược lại phát huy giúp cho bảo tồn di sản văn hóa
lễ hội được tốt hơn. Vì vậy, việc tiến hành nghiên cứu của luận văn cũng
khơng bóc tách hai vấn đề bảo tồn và phát huy lễ hội.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - VĂN HÓA - XÃ HỘI TỈNH
BẾN TRE


1.2.1. Lịch sử hình thành phát triển vùng đất Bến Tre
Bến Tre là một trong 64 tỉnh thành của Việt Nam. Quá trình hình
thành và phát triển của Bến Tre gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển


×