Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH: NƯỚC ĐÔC LẬP, MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯƠC HƯỞNG TỰ DO, HẠNH PHÚC, THÌ ĐỘC LẬP CŨNG CHẲNG CÓ NGHĨA LÝ GÌ. LÀM RÕ Ý NGHĨA CỦA LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.48 KB, 14 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------****------

BÀI TẬP LỚN MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: PHÂN TÍCH LUẬN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH:
"NƯỚC ĐƠC LẬP, MÀ NGƯỜI DÂN KHÔNG ĐƯƠC
HƯỞNG TỰ DO, HẠNH PHÚC, THÌ ĐỘC LẬP CŨNG
CHẲNG CĨ NGHĨA LÝ GÌ". LÀM RÕ Ý NGHĨA CỦA
LUẬN ĐIỂM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY?

Họ và tên SV: Ngơ Gia Tráng
Lớp tín chỉ: Actuary 62
Mã SV: 11208187
GVHD: TS Nguyễn Hồng Sơn
HÀ NỘI, NĂM 2022

0


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................2
I. Cơ sở lựa chọn mục tiêu độc lập – dân tộc..................................................2
II.

Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và XHCN.................3

a. Cách mạng giải phóng dân tộc......................................................................3
b. Cách mạng xã hội chủ nghĩa.........................................................................4
III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay...................................6


1. Một số thành tựu đã đạt được trong xây dựng và phát triển con người7
2. Những khó khăn tồn tại và hạn chế..........................................................9
3. Những vấn đề đặt ra (giải pháp) trong xây dựng và phát triển con
người hiện nay.................................................................................................10
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................12
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................13

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong suốt chiều dài bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông ta, trải qua bao
nhiêu hy sinh, mất mát, hẳn mỗi người dân Việt Nam ta đều thấu hiểu giá trị to lớn của độc lập
dân tộc. Nhưng liệu độc lập đã đủ chưa? Độc lập có phải là mục đích cuối cùng mà mỗi người
con Việt Nam đều hướng đến? Hay hạnh phúc, tự do mới chính là mục đích ấy?
Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một vị lãnh tụ thiên tài, vừa là một danh nhân văn hóa thế
giới và một nhà lý luận, tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam. Trong toàn bộ di sản về tư tưởng
mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội luôn là một trong những vấn đề trung tâm và được thể hiện rõ ràng, xuyên suốt qua quá trình
hoạt động thực tiễn của cách mạng trong nước và trên thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý
nghĩa gì…”
Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa độc lập dân tộc phải gắn với con đường xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta hãy làm rõ luận điểm trên.

PHẦN NỘI DUNG
I.

Cơ sở lựa chọn mục tiêu độc lập – dân tộc


Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhận thức về con đường giải phóng dân
tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời. Do chưa có một
đường lối kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch sử, dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu
hướng dân chủ tư sản nên không tránh khỏi thất bại và bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các
phong trào yêu nước của nhân dân ta. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đi bắt đầu con đường đi tìm đường
cứu nước. Trong q trình bơn ba ở nước ngồi, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu các cuộc cách mạng
lớn trên thế giới, tìm hiểu nghiên cứu các kiểu nhà nước và khảo sát cuộc sống của nhân dân các
dân tộc bị áp bức. Tiếp xúc với Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước giải phóng dân tộc. Sự kiện
đó đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến
chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng
sản. Lý luận về cách mạng không ngừng của Lênin có ảnh hưởng rất sâu sắc đến tư tưởng của
Người, cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa 2 cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và
cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định của thành quả cách mạng của giải phóng
dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, Đối với các nước thuộc địa như nước Việt Nam giai đoạn này, độc
lập dân tộc trước nhất chỉ có thể có được khi cách mạng giải phóng dân tộc thành cơng . Tuy
nhiên, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cuối cùng của độc lập dân tộc khơng chỉ dừng lại ở giai đoạn
hồn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà phải thực hiện tiếp cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Có thể nhận thấy rằng dưới góc độ giải phóng, giành được độc lập dân tộc mới chỉ là
cấp độ đầu tiên. Giải phóng về mặt chính trị, tự bản thân nó chưa phải là cơng cuộc giải phóng
hồn tồn, hay nói cách khác, độc lập dân tộc là tiền đề đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, đi
tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lơgíc lịch sử tự nhiên của sự vận động phong trào giải
phóng dân tộc tất yếu dẫn tới chủ nghĩa xã hội do bản chất cách mạng triệt để của nó. Nghiên
2


cứu Cương lĩnh dân tộc của Lênin : bình đẳng, tự quyết, đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc,
Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thắng lợi, phải tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc địi

hỏi trước hết phải đảm bảo cho dân tộc đó quyền tự quyết dân tộc, quyền lựa chọn chế độ chính
trị, lựa chọn con đường và mơ hình phát triển, độc lập cả về chính trị, kinh tế, văn hóa. Vì vậy,
chỉ có thể tiến hành thành cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước giành được độc lập
thì dân tộc ấy mới có thể chọn lựa con đường phát triển đất nước đi theo chủ nghĩa xã hội. Nói
cách khác, giành được độc lập dân tộc là tiền đề cho việc xây dựng chế độ XHCN - Độc lập dân
tộc cũng đòi hỏi phải thực sự bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, con người được phát triển tồn diện, hạnh phúc, có năng lực làm chủ. Độc
lập tự do địi hỏi phải xóa bỏ tình trạng áp bức bóc lột, nơ dịch của dân tộc này đối với dân tộc
khác về kinh tế, chính trị và tinh thần. Sự trao đổi, hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước dựa
trên ngun tắc tơn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, vì một thế giới khơng có
chiến tranh, khơng có sự hoành hành của cái ác, của những sự tàn bạo và bất công, bảo đảm cho
con người sống trong an ninh và hạnh phúc. Vì vậy, để đảm bảo độc lập dân tộc thực sự và giữ
vững thành quả ấy, cả nước phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật của thời đại, đáp ứng
nguyện vọng ngàn đời của nhân dân ta là độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Người nói “chúng ta
tranh được tự do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập thì tự do, độc lập cũng
khơng làm gì”. Để giữ vững độc lập, tự chủ, để đảm bảo cho nhân dân một cuộc sống ấm no
hạnh phúc, chúng ta khơng có con đường nào khác là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc khơng chỉ mang lại độc
lập thống nhất cho tổ quốc, mà trong từng bước phải mang lại tự do, hạnh phúc cho toàn dân

II. Con đường để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và XHCN.
a. Cách mạng giải phóng dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi trước nhất phải đi theo con
đường cách mạng vô sản, tư tưởng này thể hiện rõ qua luận điểm “chỉ có giải phóng giai cấp vơ
sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng chỉ có thể sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản và cuộc cách mạng thế giới”. Người đã sớm chỉ ra cách mạng giải phóng dân tộc phải
đi theo con đường của cách mạng vô sản và cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của
cách mạng thế giới. Lập trường dứt khốt này của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là phù hợp với trào
lưu tiến hóa của lịch sử, vừa nói đến tính triệt để trong tư tưởng Hồ Chí Minh khi đặt cách mạng
giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản.

Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi cịn phải do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo. Quan điểm này đã được Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc, khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Cách mệnh trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm
lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt. Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin. Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành cơng thì phải
dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống
nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin”.
3


Bên cạnh đó, Người cũng chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của
tồn dân, trên cơ sở liên minh công – nông. Người nhận định rằng cách mạng giải phóng dân
tộc là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người, vì vậy phải đồn kết
tồn dân, sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp
rộng rãi đó khơng được qn cái cốt của nó là cơng - nơng .
Hồ Chí Minh cũng chỉ rằng muốn giải phóng dân tộc phải thực hiện con đường cách
mạng bạo lực. Người khẳng định: "Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn
giải phóng thì phải đánh phát xít Nhật và thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh
chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng quân sự thì phải có tổ chức. Muốn tổ
chức thành cơng thì phải có kế hoạch, có quyết tâm". Khẳng định giải phóng dân tộc bằng con
đường cách mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh ln chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh
thủ khả năng hịa bình và phát triển của cách mạng.

b. Cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội được nói đến một cách thiết thực, cụ
thể, dễ hiểu: “CNXH trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thốt nạn, bần cùng, làm cho
mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”. “Nước độc lập mà

dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập tự do cũng khơng có ý nghĩa gì”.“CNXH là làm
sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau có
thuốc, già khơng lao động được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt được dần dần
được xóa bỏ”; “CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do
nhân dân tự xây dựng lấy”. Nói tóm lại “CNXH là làm sao cho dân giàu nước mạnh”, từ
những lời phát biểu ngắn gọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể khái quát những nét
đặc trưng bản chất sau đây của CNXH :
-

Một là CNXH là là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước phải phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động để huy động được tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

-

Hai là CNXH là một xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
ngày càng hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu nhằm không ngừng
nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

-

Ba là CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó, người với người
là bạn bè, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có
cuộc sống tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẳn có
của mình.

-

Bốn là CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng
ít, khơng làm thì khơng hưởng, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đở để tiến

kịp miền xuôi.

4


-

Năm là CNXH là cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự
lãnh đạo của Đảng .

Đó là những bản chất của CNXH và cũng là những mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta đang ra
sức phấn đấu để đạt tới.
Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó
bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả hai bình diện : cộng đồng và cá nhân. Đó là
phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc động lực chủ yếu để phát triển đất nước.
Đó là phát huy sức mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này
phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức,
truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện cơng bằng xã hội .Đó là khắc phục
các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, đấu tranh chống tham ơ, lãng phí, quan liêu, chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười
biếng, không chịu học tập cái mới. Đó cũng là những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
Về con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra những đặc điểm và
mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam nhưng bao trùm, “to nhất” là đặc điểm từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH, không phải kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN”
Về độ dài của thời kỳ quá độ, Người nói “xây dựng CNXH là mộtcuộc đấu tranh cách mạng
phức tạp, gian khổ lâu dài”.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, về phương diện kinh tế - văn hóa, Hồ Chí Minh chỉ
rõ : “.. phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH …có cơng nghiệp và nơng nghiệp
hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải

tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới mà xây dựng nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Về chính trị, nội dung quan trọng nhất để đảm bảo thắng lợi của công cuộc cách mạng này là
giữ vững, tang cường và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải được chỉnh đốn, nâng
cao sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Mặt
khác phải củng cố, tăng cường vai trò của Nhà nước, xây dựng những thể chế dân chủ, dựa vào
dân, liên hệ chặt chẽ với dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân, thực sự là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất;
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân và trí thức, do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; củng cố và tăng cường sức mạnh tồn bộ hệ thống chính trị cũng như
từng thành tố của nó trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng nhất quán của Hồ
Chí Minh, đồng thời phải xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
cách mạng XHCN. Về phương diện quốc tế, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta buộc chúng ta phải có ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các
điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn chế những khó khăn để xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Về bước đi của thời kỳ quá độ, Người đã chỉ rõ : “Ta xây dựng CNXH từ 2 bàn tay trắng đi
lên thì khó khăn cịn nhiều và lâu dài”, “phải làm dần dần”, “không thể một sớm một chiều”, “ai
nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ
quá độ ở Việt Nam phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tuỳ theo hoàn cảnh”, nhưng chớ
ham làm mau, ham rầm rộ … đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần ..”

5


Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam, Người luôn
nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều rập khn kinh
nghiệm nước ngồi, phải suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

III. Ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn đi lên CNXH ở nước ta giai đoạn hiện
nay, Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:

Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, trong đó
bao trùm lên tất cả là động lực con người, trên cả ha bình diện: cộng đồng và cá nhân. Đó là phát
huy sức mạnh đồn kết của cả cộng đồng dân tộc – động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Đó
là phát huy sức mạnh của con người được giải phóng để làm chủ. Để phát huy sức mạnh này
phải tác động vào nhu cầu, lợi ích của con người, phát huy động lực chính trị, tinh thần đạo đức
truyền thống, quyền làm chủ của người lao động, thực hiện cơng bằng xã hội. Đó là khắc phục
các trở lực kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, bao gồm đấu tranh chống chủ quan, bảo
thủ, giáo điều, lười biếng, không chịu học tập cái mới. Đó cũng là những trở lực đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước tình hình hiện nay, mặc dù CNXH đang ở vào giai đoạn thoái trào tuy nhiên CNXH
vẫn là sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và sự lựa chọn đi theo con đườg XHCN
của Hồ Chí Minh và nhân dân là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Đất nước đang đứng trước
những thử thách lớn lao của thời đại, hồn cảnh lịch sử địi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải kiên
định con đường mục tiêu của mình và phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một q trình
cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây
khơng chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua,
mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế
- xã hội. Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biến
đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, và q trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xem. Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta
cũng chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, vì vậy thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài
là một lịch sử tất yếu. Đồng thời, với sự lâu dài đó. Thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát
triển khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen

nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, “các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội”. Trong bối
cảnh khó khan đó. Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định: “Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo, dân tộc ta là một dân
6


tộc anh hùng, nhân dân ta có lịng u nước nồng nàn, có truyền thống đồn kết và nhân ái, cần
cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng
bước xây dựng được những cơ sở vật chất – kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học
và cơng nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình tồn
cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”. Ngày nay, để giữ vững độc lập dân
tộc trong xây dựng CNXH giai đoạn hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững định hướng
XHCN, tự chủ về kinh tế và giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhân tố quyết định và
đảm bảo cho sự phát triển đất nước đúng định hướng đó là tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý hiệu quả của Nhà nước, sự đồn kết thống nhất của các tổ chức chính trị và đội ngũ
cán bộ đảng viên.
Với sự soi đường của tư tưởng HCM, Đảng đã xác định cụ thể những bước đi như sau :
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất q
độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái
cũ.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa
cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc."
Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển. “Tăng trưởng kinh tế đi đơi với phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và
đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước."

1. Một số thành tựu đã đạt được trong xây dựng và phát triển con người
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Đại
hội VI (năm 1986), và hơn 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên Chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đến nay, Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức
7


quan trọng. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội,
tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới – thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao. Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn
đề mơ hình phát triển xã hội – mơ hình chỉ nghĩa xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một
cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định: “Xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng là một xã hội Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm

no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam
bình đẳng đồn kết tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với các nước trên thế giới”
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính tồn cầu cịn rất
chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7% trên một năm, tuy hơi thấp hơn kế
hoạch (7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực. Như
vậy, trong vòng 20 năm (1991 – 2001), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34% trên một năm. Thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới
nói chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp 4,4 lần năm 1990, gấp 2,1 lần năm 2000 (thời kỳ 2001
– 2011 bình quân đạt 7,14%/ năm). Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng
trưởng tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp
khóc khăn thì đây là mức tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính
tăng 3,4% so với năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm
2012 tăng 6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập
khẩu hàng hóa tăng 18,3%. Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ kim
ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới. Vốn FDI
tính từ 1988 đến tháng 7/2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên 96,6 tỷ USD. Vốn
ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35 tỷ USD. Nhìn chung, các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong đó sự phát triển ổn định của
ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; sản
phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại; chất lượng được cải
thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị
trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành
công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và
đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm
(2011 – 2015) trong những năm sau đạt kết quả vững chắc hơn.
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến
việc nước ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành

phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tích cực, chủ động, sáng tạo của
nhân dân. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đối của Việt Nam năm 1988
chỉ đạt 86 USD/người/năm, nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu nhập thấp để trở thành nước có
thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ 1991 đến 2000, trung bình mỗi năm cả nước đã
8


giải quyết cho khoảng 1 – 1,2 triệu người lao động có cơng ăn việc làm; những năm 2001 –
2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 – 1,5 triệu người; những năm
2006 – 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Cơng tác dạy nghề từng bước phát triển,
góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990 lên khoảng 40% năm 2010.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mơ, đa dạng hóa về loại hình trường lớp. Năm
2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính
đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh, thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 84% (1980) lên 90,3% (2007). Từ 2006 đến nay,
trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%, cao đẳng và đại học
tang 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã hội cho vay
với lãi suất ưu đãi để theo học.
Cơng tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến 60%
dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm
từ 81% (1990) xuống còn khoảng 28% (2010); tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm
tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm chủng mở rộng được thực hiện, nhiều
dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của
người dân từ 63 (1990) tăng lên 72 tuổi hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561
năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm 2005
và 0,725 năm 2007. Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người xếp thứ 129 trên
tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ sự phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển của con người, thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình qn đầu người cao hơn
Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số HDI của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số
đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và
học vấn cao hơn chỉ số về kinh tế.
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị,
xã hội, quốc phịng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng
khích lệ về thực hiện tiến bộ và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày
càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành cơng của đổi mới,
khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao
hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam
thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

2. Những khó khăn tồn tại và hạn chế
Mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu rất khả quan về xây dựng và phát triển con
người trong hơn 30 qua, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề đáng quan ngại, đó là: tình
trạng suy thối về đạo đức, nhân cách cũng đang có chiều hướng gia tăng. Một bộ phận thanh
niên có xu hướng chạy theo lối sống khơng lành mạnh, ít quan tâm sinh hoạt chính trị, coi
thường truyền thống cách mạng, dao động, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, coi thường giá trị cuộc sống, kỷ cương pháp luật. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội
9


trong thanh niên gia tăng và ngày càng diễn biến phức tạp, hiện tượng tham ơ, tham nhũng vẫn
cịn. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ mười, khóa IX đã thẳng thắn nêu rõ: "Sự suy
thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng
hơn, tổn hại khơng nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân".
Cùng với đó, là vấn đề phát triển con người còn bộc lộ nhiều yếu kém, thể hiện trên các mặt:
Giáo dục, lao động việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe... Cụ thể là: Việc giáo dục

đạo đức, giáo dục công dân cho người học gần như bị bỏ quên hoặc bị xem là thứ yếu. Chất
lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, xu hướng thương mại hóa trong giáo
dục này càng lộ rõ, chưa giải quyết được vấn đề dạy chữ, dạy nghề và dạy người, dẫn đến dư
thừa hàng trăm ngàn lao động có trình độ đại học và trên đại học hàng năm. Hiện tượng suy thối
về đạo đức có chiều hướng nghiêm trọng diễn ra từ trong sản xuất, kinh doanh, trong gia đình
đến xã hội. Thể hiện ở chỗ hàng nhái, hàng giả, sử dụng hóa chất trong sản xuất, lừa đảo, chém
giết nhau trong gia đình, nhà trường, xã hội vẫn cịn hiện hữu. Khơng ít vụ án, kẻ sát nhân xuống
tay với nạn nhân quá dễ dàng, đơn giản chỉ vì một nguyên nhân nhỏ nhoi, giết một lúc 4 người,
có cả trẻ em, hay cháu giết bà nội, con giết cha mẹ, lạm dụng tình dục trẻ em, gây tai nạn chết
người rồi bỏ mặc (số người chết do tai nạn giao thơng hàng năm khoảng 15.386 người)[15]…
Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa thật sự vững chắc, nguy cơ tái nghèo còn cao, khoảng cách
chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng gia
tăng.
Đứng trước thực tiễn đó, yêu cầu đặt ra là vấn đề xây dựng và phát triển con người như thế
nào trong nền trường kinh tế thị trường tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đây là vấn đề lớn,
thậm chí rất lớn đối với Đảng, Nhà nước trong vấn đề xây dựng và phát triển con người hiện nay.
Chính vì vậy, hơn lúc nào hết, lúc này Nhà nước ta cần phải đầu tư cho con người. Và phải nhận
thức được rằng, đầu tư cho con người là đầu tư cho phát triển bền vững đất nước - đây là con
đường cơ bản nhất và cũng là ngắn nhất để đạt được mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh và
thịnh vượng.

3. Những vấn đề đặt ra (giải pháp) trong xây dựng và phát triển con người
hiện nay




Về giáo dục đào tạo: Giáo dục, đào tạo phải theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, cần phải định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ khi còn ở trong trường phổ
thông, không đào tạo tràn lan, chạy theo trào lưu xu hướng đám đơng, dẫn đến lãng phí

nguồn nhân lực sau khi đào tạo. Cần phải chuẩn hóa chất lượng giáo dục, đào tạo; giáo
dục đào tạo kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nghề nghiệp phải gắn với giáo dục đạo đức,
lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành cho người học, đặc biệt đối với bậc học
cao đẳng, đại học và đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Về nguồn lực: Cần phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó đội ngũ trí thức là
trụ cột để xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, sử dụng các nguồn lực vật chất có hiệu
quả để phát triển kinh tế tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân, giải quyết nạn
thất nghiệp đang nhức nhối trong xã hội hiện nay, bởi tình trạng hàng vạn thanh niên sinh
viên tốt nghiệp, có học thức mà khơng có việc làm; Cần tổ chức bố trí lại lực lượng lao
động một cách hợp lý trên phạm vi cả nước theo hướng đổi mới công nghệ, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo những ngành nghề mũi nhọn, hạn chế đến mức thấp nhất hiện tượng
10












chuyển dịch lao động làm rối loạn thị trường lao động; Thực hành triệt để tiết kiệm,
chống lãng phí và đẩy lùi tham nhũng để chăm lo cuộc sống cho người dân, nâng cao
chất lượng cuộc sống và trình độ của dân, từ chăm lo dân sinh, nâng cao dân trí, bảo đảm
dân quyền để đi tới dân chủ.
Về vai trị lãnh đạo: Cần phải tiếp tục, khơng ngừng nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh
đạo, chỉ đạo, đổi mới công tác quản lý của các cơ quan nhà nước, tinh giản bộ máy của

tất cả các ngành, các cấp, của cả xã hội trong việc thực hiện chiến lược xây dựng và phát
triển con người; Cần phải xây dựng cơ chế phối hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh
vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc xây dựng
và phát triển con người, tiếp tục đẩy nhanh, mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh sản
xuất, kinh doanh và dịch vụ xã hội.
Về các chính sách xã hội: Tiếp tục đẩy mạnh cơng tác xóa đói, giảm nghèo cả về kinh tế,
văn hóa, giáo dục, y tế, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Tăng cường
đầu tư các thiết chế văn hóa - xã hội ở những khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung
đơng cơng nhân lao động, đặt lợi ích của người lao động lên trên hết. Bảo đảm an sinh xã
hội cho người lao động là cái gốc của ổn định và phát triển, là tiền đề cho phát triển bền
vững con người. Chú ý giảm sự phân hóa giàu nghèo, nâng cao chất lượng dân số, khai
thác và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên, chăm lo bảo vệ mơi trường sinh thái.
Bên cạnh đó, cần phải chú trọng việc xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thực
hiện tốt bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ; chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền trẻ em.
Về chăm sóc sức khỏe: Cần đặt ra những mục tiêu cụ thể nhằm không ngừng nâng cao thể
lực và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, sức khỏe là vốn quý nhất của
mỗi con người và toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để mọi người được quan tâm chăm sóc sức khỏe, bảo
đảm con người phát triển tốt cả về thể chất và tinh thần.
Về giữ gìn, bảo đảm sự tôn nghiêm của pháp luật: Cùng với giáo dục phải siết chặt kỷ
luật, kỷ cương, tính tơn nghiêm luật pháp, áp dụng đúng các chế tài để xử lý mọi hành vi
vi phạm pháp luật, những việc gây hại tới dân. Kiên quyết đấu tranh loại trừ các tiêu cực
xã hội và các tệ nạn xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Bài trừ tệ
nạn, mê tín, dị đoan, ma túy, mại dâm và các loại tội phạm khác. Khắc phục tình trạng tai
nạn giao thông trầm trọng hiện nay. Giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, đập tan âm
mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực phản động trong nước và quốc tế.
Trong lĩnh vực đối ngoại: Tiếp tục duy trì và mở rộng các quan hệ quốc tế song phương
và đa phương, hợp tác phát triển cùng có lợi, đặc biệt chúng ta cần phải vận dụng tốt các
mối quan hệ quốc tế sẵn có, học tập kinh nghiệm, nghiên cứu khoa học về đầu tư và phát
triển con người, sử dụng nguồn nhân lực của nước ngoài, chẳng hạn kinh nghiệm của

Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Mỹ ... về đào tạo, phát huy trí tuệ và thu
hút nguồn lực của con người vào sự nghiệp phát triển đất nước.

PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng HCM về CNXH về con đường quá độ lên CNXH ở VN thực sự là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta hiện nay. Vấn đề là phải tiếp
11


tục làm quá triệt những tư tưởng ấy trong cơ chế, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Trong tổ chức và hành động của mỗi cán bộ, Đảng viên, chỉ có bằng hiệu quả thực tế trong đổi
mới KT và chính trị, đem lại sự cải thiện vật chất và tinh thần cho nhân dân, chúng ta mới củng
cố được trong quần chúng niềm tin mà HCM đã khẳng định : “Con đường tiến tới của CNXH
của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”.
Trước đây, trong thập kỷ 40 của thế kỷ XX, khi bàn về giá trị của các nhà tư tưởng, Hồ
Chí Minh đã nói rõ quan điểm của mình. Như một nhà hiền triết Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở
“Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tơn giáo Jesu có ưu điểm là
lịng bác ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa Tơn Dật Tiên có
ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện của nước chúng tôi”. Và trên quân điểm
biện chứng và duy vật lịch sử, Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Khổng Tử, Giêsu, Các Mác, Tơn Dật
Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người,
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Nếu họ còn sống trên đời này và họp lại một chỗ, tôi tin rằng
nhất định họ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người ban thân thiết. Tơi cố gắng làm
người học trị nhỏ của các vị ấy”. Chỉ vậy thơi, cũng đủ thấy Hồ Chí Minh là bậc đại trí ở đời. Tư
duy Hồ Chí Minh hướng vào việc khai thác ưu điểm chung của các vị ấy là mưu cầu hạnh phúc
cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Tròn nửa thế kỷ sau, khi nhân loại tơn vinh Hồ Chí
Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, người ta cũng
khai thác điểm chung mà Hồ Chí Minh đã cống hiến cho nhân loại. Đó là hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những mục tiêu đó chính là hạnh phúc, là đỉnh cao giá trị nhân
văn, văn hóa của lồi người.Tơi cố gắng làm người học trị nhỏ của các vị ấy”. Chỉ vậy thôi,

cũng đủ thấy Hồ Chí Minh có một trí tuệ mẫn tiệp, một tầm nhìn vượt thời đại, và trên hết là một
tấm lịng ln hướng về nhân dân, về đất nước. Trịn nửa thế kỷ sau, khi nhân loại tơn vinh Hồ
Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, người ta
cũng khai thác điểm chung mà Hồ Chí Minh đã cống hiến cho nhân loại. Đó là hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những mục tiêu đó chính là hạnh phúc, là đỉnh cao giá trị
nhân văn, văn hóa của lồi người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Sự thật
2. Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
12


3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Sdd
4. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia.
5. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. 1992.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, BCH Trung ương khóa VIII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.1998.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2011.
9. C.Mác và Ph.Ăngghen. Tồn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994.
10. C.Mác - Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. NXB Sự thật, Hà Nội, 1980;
11. V.I. Lênin. Toàn tập, T.38. NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1977;

13




×