Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ hội nhập – liên hệ trách nhiệm bản thân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.37 KB, 19 trang )

Đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ hội nhập –
liên hệ trách nhiệm bản thân.
MỞ ĐẦU
“Tháp Mười đẹp nhất bơng sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”.
Bác Hồ – Vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam. Bác chính là sự kết
tinh của những tinh hoa truyền thống và bản sắc dân tộc. Bác là người sáng
lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, cùng Đảng dẫn đường chỉ lối cho dân tộc ta
vùng lên phá bỏ xiềng xích nơ lệ thực dân, phong kiến và giành quyền sống tự
do. Cả cuộc đời của Bác dành hết cho nhân dân, cho Tổ quốc.
Bác từng nói “Tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là dân ta ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…”, trong di chúc của Bác ở
bảo tàng Hồ Chí Minh cũng ghi “Suốt đời tơi hết lòng hết sức phục vụ Tổ
quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, nay dù phải từ biệt thế giới này,
tơi khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn
nữa, nhiều hơn nữa.” Thế mới thấy, vị lãnh tụ dân tộc chỉ một lòng hướng về
nhân dân, về đất nước, thật sự
“Ơi tim bác mênh mơng q!
Ơm cả non sơng, trọn kiếp người”
(Tố Hữu).

1


Cả cuộc đời của Bác cống hiến cho dân tộc, cho non sông đất nước và
cho nhân dân. Bác từng căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí cơng vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Có
thể thấy Bác hết lịng vì nhân dân. Tư tưởng và quan điểm của Bác về nhà


nước của dân, do dân, vì dân vơ cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý
luận và thực tiễn đối với cách mạngViệt Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi
mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ
quốc tế đi tới thành cơng.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân
khơng những có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta những kinh
nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ
cán bộ công chức thực sự là cơng bộc của dân, hồn thiện hệ thống pháp luật,
đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấu trong bộ máy nhà nước, phát huy
dânchủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân
dân,đảm bảo cho nhà nước ln giữ được bản chất cách mạng, từng bước
xâydựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền là xu hướng tất yếu khách quan. Trên thế giới cũng chưa có
quốc gia, dân tộc nào khẳng định đã xây dựng thành công nhà nước pháp
quyền, mà chỉ đạt được một số thành tựu nhất định. Mặt khác, khơng có một
nhà nước pháp quyền với tư cách là khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia,
dân tộc. Do vậy, cùng với việc tiếp thu những giá trị có tính chất phổ biến về
nhà nước pháp quyền mà nhân loại đã đạt được, chúng ta cần nghiên cứu, kế
thừa và vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp
luật để từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có những đặc trưng riêng, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế- xã hội,
2


truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc Việt Nam. Với những lý do trên, em
lựa chọn chủ đề: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ
hội nhập – liên hệ trách nhiệm bản thân” để nghiên cứu, viết bài thu hoạch
mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh.


NỘI DUNG
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì
dân Việt Nam
1.1. Về nhà nước kiểu mới trong lịch sử Việt Nam - Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều
mơ hình nhà nước và khởi xướng cuộc đấu tranh vì nền độc lập, tự do cho dân
tộc mình, đồng bào mình bằng việc phê phán bản chất vơ nhân đạo của bộ
máy chính quyền thực dân phong kiến . đang thống trị ở các thuộc địa, trong
đó có Việt Nam. Nói về Nhà nước dân chủ, nhân dân ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ:
“NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân.”
* Nhà nước của nhân dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh là nhà
nước do dân là chủ và làm chủ. Nhân dân có địa vị cao nhất, có quyền tham
gia bàn luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Vị thế và tư
3


cách là chủ của người dân được khẳng định trong Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946).
* Nhà nước do nhân dân: Nhà nước do dân làm chủ trên cả hai phương
diện quyền lợi vànghĩa vụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân lựa chọn,
bầu ra các đại biểu xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước (từ Trung
ương đến địa phương) thông qua chế độ bầu cử phổ thơng, trực tiếp, bỏ phiếu

kín. Nhân dân có quyền bãi miễn các cá nhân hoặc các cơ quan của Chính
phủ, khi cá nhân hoặc cơ quan Chính phủ đó khơng thực hiện được sự ủy thác
của nhân dân, thậm chí đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Hồ Chí Minh phân
tích: Nhân dân cử ra những người đại diện cho mình, đồng thời “có quyền bãi
miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy
tỏ ra khơng xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Nhà nước do dân còn
thể hiện ở một nội dung quan trọng: Nhân dân có quyền tham gia cơng việc
quản lý của Nhà nước, phê bình, kiểm tra, kiểm soát, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra. Hồ Chí Minh viết: “Chính
phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đơn đốc, kiểm sốt và phê bình để làm trọn
nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân” . Cùng
với quyền lợi, theo Hồ Chí Minh, nhân dân có quyền làm chủ thìphải có nghĩa
vụ làm trịn bổn phận cơng dân (bổn phận hay trách nhiệm đó được Người gọi
là “đạo đức cơng dân”). Người nói: “Làm chủ sao cho ra làm chủ, khơng phải
làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, muốn làm bao nhiêu thì làm”, làm chủ
thì chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau”. Nhà nước do dân bầu ra, phải
có trách nhiệm bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để có chi phí hoạt động cho
Nhà nước.
* Nhà nước vì nhân dân: Nhà nước kiến tạo, tận tâm, tận lực phục vụ
lợi ích của đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Hồ Chí Minh
nói, Nhà nước dân chủ nhân dân do dân là chủ thì Chính phủ là đày tớ, cơng
bộc của dân. Người chỉ rõ, cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy chính
4


quyền, nhà nước làm đày tớ, công bộc của dân chứ không phải là “quan cách
mạng”; không phải để “đè đầu cưỡi cổ dân”. Mặt khác, Nhà nước vì nhân dân
là Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân nhằm phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của nhân dân để tự chăm lo đời sống của mình. Trách
nhiệm của Nhà nước là: “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân”. Bên

cạnh việc chăm lo lợi ích của nhân dân nói chung, Nhà nước phải biết kết hợp,
điều chỉnh các lợi ích khác nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp nhân dân một
cách hài hịa, đảm bảo ổn định xã hội. Nhà nước vì nhân dân theo tư tưởng
theo Hồ Chí Minh là một nhà nước phục vụ nhân dân, không phải nhà nước
cai trị nhân dân.
Là người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đã thể hiện tấm gương
sáng về tinh thần tận tụy, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Người nói: “Cá đời tơi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ
quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc
ra vào chôn tù tội xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”. Người chỉ có
một tâm nguyện và ham muốn: “...ham muốn đến tột bậc, là làm sao cho nước
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; cho đến khi phải từ biệt thế giới này,
Người chi tiếc: “...tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Chính ham muốn và mục đích vô cùng cao đẹp ấy đã tạo cho Người một ý chí
và nghị lực vơ cùng mãnh liệt: “Giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó
khơng thể chuyển lay, uy lực khơng thể khuất phục”; đó là điểm tựa giúp
Người vượt qua mọi khổ ải, khó khăn, dẫn dắt nhân dân ta đen bến bờ hạnh
phúc. Hình ảnh của Hồ Chí Minh - hình ảnh của một lãnh tụ vĩ đại về trí tuệ
lãnh đạo, mẫu mực về mối liên hệ thân thiết, gắn bó với nhân dân, hết long
thương yêu nhân dân, dựa vào dân, vì “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”, vì sức mạnh của nhân dân là vô địch, phải “lấy dân làm gốc”.
1.2. Bản chất của Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam
5


Nhà nước Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh
phân tích, bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà nước ta được thể hiện trước
hết ở chỗ, Nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng Cộng sản
Việt Nam - người đại diện cho quyền lợi của giai cấp công nhân, cho nhân dân

lao động và đại diện cho lợi ích của tồn dân tộc. Quyền lợi của dân tộc, của
nhân dân được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng thời, bản chất giai cấp cơng nhân của Nhà
nước ta cịn thể hiện thông qua việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật để quản lý,
điều hành tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Các cơ quan nhà nước, từ trung
ương tới địa phương được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nhà nước dân chủ nhân
dân hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, tuy nhiên, với chức
năng của Nhà nước (quản lý, điều hành xã hội...), sự cần thiết là phải thực
hiện chuyên chính. Song, như Hồ Chí Minh giải thích: “Chế độ nào cũng có
chun chính. Vấn đề là ai chun chính với ai?... Như cái hịm đựng của cải
thì phải có cái khóa. Nhà thì phải có cửa... Dân chủ là của quý báu nhất của
nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phịng kẻ phá hoại... Thế thì
dân chủ cũng cần phải có chun chính để giữ gìn lấy dân chủ”. Chun chính
mà Hồ Chí Minh đề cập là “chun chính vơ sản”, nhằm bảo vệ thành quả
cách mạng, bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động; bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời ngăn chặn sự phá hoại của các lực lượng
thù địch, phản động chống phá cách mạng.
* Nhà nước Việt Nam là sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng nhân
với tính nhân dân và tính dân tộc: Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước ta mang bản
chất giai cấp cơng nhân, đồng thời mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Người khẳng định, ngồi lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dânlao động và
của dân tộc, Đảng khơng có lợi ích nào khác.

6


Đặt mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao
động và dân tộc trong mối quan hệ biện chứng, trong một chỉnh thể thống nhất
khơng tách rời, Hồ Chí Minh cho rằng, các giai tầng trong xã hội, dù có lớn

mạnh đến đâu cũng là một bộ phận của dân tộc. Vì vậy, quyền lợi của giai cấp,
bộ phận phải phục tùng quyền lợi của dân tộc. Chính vì vậy, Nhà nước ta
là thành quả đấu tranh của giai cấp công nhân, đồng thời là thành quả cách
mạng của nhân dân và của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ điều
này cũng thể hiện rõ sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính
nhân dân và tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam.
Thực tế lịch sử đã minh chứng, Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam
ra đời là thành quả hy sinh xương máu, đấu tranh gian khổ của nhiều thế hệ
người Việt Nam yêu nước qua các thời kỳ lịch sử. Do đó, Nhà nước coi lợi ích
dân tộc là trên hết, trước hết, lấy lợi ích của dân tộc, của các tầng lớp nhân dân
bị áp bức bóc lột là mục tiêu phục vụ, trong đó đương nhiên có lợi ích của giai
cấp. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng trên nền tảng đại
đoàn kết dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nhưng ngay từ khi
thành lập, trong thành phần Chính phủ đã có sự tham gia của nhiều nhân sĩ, trí
thức u nước, có tinh thần dân tộc (dù thuộc các đảng chính trị khác nhau),
trong đó có nhiều người là quan lại trong bộ máy chính quyền phong kiến.
Điều đó càng cho thấy tính dân tộc, tính nhân văn và tư tưởng đại đồn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh thể hiện trong việc xây dựng Nhà nước dân chủ
nhân dân ở Việt Nam.
2. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời
kỳ hội nhập
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
so với chủ nghĩa tư bản khơng chỉ ở chỗ xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản
7


xuất, xóa bỏ phân hóa giai cấp, mà về chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa phải
vượt qua dân chủ tư sản, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân.
2.1. Quan niệm chung về dân chủ

Theo nội dung dân chủ chính trị thì dân chủ là một phạm trù riêng lĩnh
vực chính trị. Cịn chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong những
hình thái của nhà nước. Dân chủ là một giá trị xã hội mang tính tồn nhân loại.
Dân chủ là một phạm trù lịch sử. Theo C. Mác và Ph.Ăng-ghen, dân
chủ là phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng tồn diện
những năng lực vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm
và thực hiện đầy đủ. Đặc trưng cơ bản của dân chủ là tất cả các cơng dân đều
có quyền tham dự đời sống chính trị, quyền lực cao nhất của đất nước thuộc
về đại diện của nhân dân; mọi cơng dân đều có quyền bình đẳng trước pháp
luật.
Dưới chế độ nô lệ và phong kiến, tư tưởng thần quyền và phân biệt
đẳng cấp hà khắc đã tước bỏ tự do, dân chủ của nhân dân. Giai cấp tư sản đã
lật đổ chế độ chuyên chế quân chủ, xác lập chế độ nghị viện, phổ thông đầu
phiếu, hai đảng (hoặc chế độ đa đảng), phân quyền, bình quyền..., đây là
những nội dung chủ yếu của chế độ dân chủ tư sản. Dân chủ tư sản được xây
dựng trên cơ sở phủ định chế độ chuyên quyền phong kiến, vì thế, trong sự
phát triển chung của lịch sử, nó có những đóng góp tích cực, thể hiện sự tiến
bộ nhất định. Nhưng dân chủ tư sản xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất, chỉ những nhà tư bản lớn mới là những người nắm giữ vai trị
quyết định, cũng có nghĩa dân chủ khơng bao giờ thuộc về quảng đại nhân
dân. Do đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thực sự là nền dân chủ ưu việt, phát
triển cao hơn dân chủ tư sản.
8


Lịch sử phát triển dân chủ trong xã hội nhân loại chứng minh, mỗi một
quốc gia có quyền lựa chọn chế độ dân chủ phù hợp, không nhất thiết mô
phỏng chế độ dân chủ của quốc gia khác. Chế độ dân chủ của một quốc gia
phù hợp với đặc điểm lịch sử, văn hóa, thể chế chính trị, kinh tế... của từng
nước, đồng thời cần khơng ngừng hồn thiện và phát triển. Một nền dân chủ

ưu việt và đích thực chỉ khi nó do chính nhân dân lựa chọn và quyền làm chủ
của nhân dân, các quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ.
Thực tiễn chứng minh, chế độ chính trị phương Tây cũng đầy rẫy những bất
cơng và tình trạng vi phạm dân chủ, khơng “hoàn hảo”, khác với nhiều người
vẫn ra sức tán dương, ca tụng (?!). Trái lại, một số quốc gia đã phải trả giá đắt
cho việc bê ngun xi mơ hình dân chủ phương Tây, dẫn tới những bất ổn,
thậm chí rơi vào vịng xốy của khủng hoảng và nội chiến kéo dài.
2.2. Nâng cao nhận thức và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước
ta
Thực hiện dân chủ nhân dân là yêu cầu nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Từ ngày thành lập tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh
quyền làm chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, dân chủ có
nghĩa “dân là chủ” và “người dân làm chủ”, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, quần chúng là động lực của cách mạng. Chính quần chúng nhân dân là
lực lượng cách mạng đông đảo nhất trực tiếp thực hiện đường lối cách mạng,
biến đường lối cách mạng của Đảng thành hiện thực. Người nói, trong bầu trời
khơng có gì quý bằng nhân dân, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ”(1). Ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền
về tay nhân dân sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ./ Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân./ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân./ Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân./ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc
9


của dân./ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra./ Đoàn
thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên./ Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”(2). Trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, trải qua cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc và sau đó là cách mạng dân chủ nhân dân, cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng chế độ dân chủ xã

hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân
chủ để tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước “trong tồn bộ hoạt động
của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động” (3). Phát huy tinh thần của Đại hội
VI, các kỳ đại hội tiếp theo cũng nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng là “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Trong công cuộc đổi mới,
Đảng ta luôn nhấn mạnh nhân dân làm chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội,
kiên định nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, không
ngừng thúc đẩy đổi mới chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và
đã đạt được những thành tựu to lớn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ:
“Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc
sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ
cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”(4).
Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận
hành nền kinh tế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế
10


luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa,
phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân. Q trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày càng mở rộng.
Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình
doanh nghiệp... Cơng bằng trong phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả

kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân
phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Quá trình mở rộng
dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ chính trị, thực hành ngày càng
rộng rãi và thực chất quyền lực chính trị của nhân dân, thông qua cả phương
thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, khơng
có sự đồn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị cốt lõi
của chủ nghĩa xã hội, là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và thịnh vượng.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng - nhân tố quyết định là mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nhân dân làm chủ là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thượng
tôn pháp luật sẽ bảo đảm tất cả các thành viên xã hội được bình đẳng về quyền
lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Đảng vừa là bộ phận cấu thành của hệ thống
chính trị vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị và Đảng cũng phải hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo có chức năng thể chế hóa quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ
và thống nhất. Nhân dân làm chủ thông qua các cơ quan đại diện và làm chủ
trực tiếp qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
11


Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và
sâu sắc. Điều này thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền con
người được đề cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực hiện các
cơng ước quốc tế liên quan quyền con người mà Việt Nam đã ký kết và tham
gia; coi trọng dân chủ ở cơ sở, coi trọng phản biện xã hội, đề cao thượng tôn
Hiến pháp và pháp luật.

Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con
người được pháp luật công nhận, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
thực hiện và thúc đẩy. Việt Nam đã xây dựng được các thể chế và thiết chế
bảo đảm quyền con người, nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền chính
trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền của nhóm thiểu số
hoặc yếu thế, như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân
tộc thiểu số, người có tín ngưỡng, tơn giáo. Cơng tác tun truyền, giáo dục,
nghiên cứu về quyền con người có bước phát triển tích cực. Nhận thức về
quyền con người được nâng cao hơn. Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con
người được đẩy mạnh. Đấu tranh phản bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu
xuyên tạc, sai trái, thù địch về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng
cao chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện Quy chế
Dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên; không ngừng
nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ quan nhà nước và trách
nhiệm đội ngũ cán bộ, cơng chức; góp phần đổi mới phương thức hoạt động
và nâng cao vai trị, uy tín của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân
dân.
12


Phản biện xã hội mang lại kết quả tích cực, phát huy và mở rộng dân
chủ, là phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Tạo dựng thói quen
thảo luận và bảo đảm quyền tự do ngôn luận để khích lệ cá nhân, các tổ chức
tham gia thảo luận về các vấn đề quan trọng của quốc gia. Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân bao hàm
hoạt động giám sát và phản biện xã hội, nhất là phản biện xã hội của Mặt trận

Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện hơn các quy
định về quyền giám sát của nhân dân, cơ chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân
trực tiếp giám sát hoạt động của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và
các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà nước.
Trong nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật được tôn
trọng, mọi hành vi của tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo Hiến pháp, pháp
luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả 3 lĩnh vực: xây dựng pháp
luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện
hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, công
bằng..., phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu
cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tuy nhiên, ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ còn hạn
chế, thực hiện dân chủ cơ sở cịn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa
hồn tồn được tơn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để nhân
dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực.
Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số
nơi rơi vào hình thức. Cịn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu, cửa
quyền gây phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền, cán bộ.
Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy định... Hệ
thống pháp luật của Việt Nam có mặt cịn chưa đồng bộ, hay thay đổi gây khó
13


khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực
hành dân chủ trong xã hội... Những hạn chế đó cần sớm được khắc phục để
nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và thực hành quyền làm chủ của nhân
dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi và thực chất.
Trải qua 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực của cách
mạng. Đó cũng chính là bài học quý báu để Đảng ta vượt qua mn vàn khó

khăn, thử thách, để giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bài học đó giữ
nguyên giá trị trong q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới và hội nhập toàn
cầu hiện nay.
2.3. Thực hiện dân chủ trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Thực hiện dân chủ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta cần thực hiện đồng bộ, với quyết
tâm cao và bền bỉ những giải pháp sau:
Trước hết, xác định vị trí tối cao của pháp luật trong đời sống nhà nước
và xã hội. Mọi hoạt động của các cá nhân, các tổ chức, cán bộ, công chức và
các cơ quan nhà nước phải trên cơ sở và đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật,
khơng có ngoại lệ. Pháp luật phải xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi của hiện
thực khách quan; phải thể hiện đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
phù hợp với quyền và lợi ích của nhân dân, phản ánh những chuẩn mực đạo
đức và các giá trị tiến bộ của nhân loại.
Thứ hai, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả cao.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách bộ máy hành chính, cải cách tư
pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp; tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, công bằng mọi hành vi vi phạm
pháp luật...
14


Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức tinh thơng nghiệp vụ, có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, thực sự là công bộc của dân.
Bốn là, nâng cao trình độ mọi mặt cho nhân dân từ kinh tế, chính trị, tư
tưởng đến các lĩnh vực khác. Nói dân chủ trước hết là dân chủ trong kinh tế,
đây là mấu chốt và quyết định. Nghĩa là nhà nước phải tạo mọi điều kiện để
nhân dân làm ăn hợp pháp, giải phóng sức sản xuất, giải quyết việc làm, xóa
đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân... Dân
chủ trong chính trị là phải tiếp tục đổi mới thể chế, từ luật pháp, cơ chế, bộ

máy để thực hiện bằng được nguyên lý dân chủ là: người dân được làm tất cả
những gì luật pháp khơng cấm, cịn cơng chức chỉ được làm những gì luật
pháp cho phép.
Năm là, thường xuyên giáo dục pháp luật và nâng cao văn hóa dân chủ
cho tất cả mọi người. Thực hành dân chủ tốt sẽ chống lại có hiệu quả chủ
nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn khác.
Hình thành nhiều hình thức tập hợp quần chúng, nhiều kênh thông tin
để người dân có diễn đàn trình bày ý kiến của mình với Đảng, Nhà nước.
Muốn vậy, cần tăng cường vai trò, chức năng của Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể nhân dân, các hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội trong giai đoạn
hiện nay
3. Liên hệ trách nhiệm bản thân.
- Để trở thành người có đầy đủ trình độ tri thức khoa học, tri thức
chuyên ngành, có phẩm chất, lối sống trong sáng, đúng mực, tư cách đạo đức
nghề nghiệp, có lý tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa thì bắt buộc mỗi sinh viên
phải nhận thức rõ nhiệm vụ, chức năng của mình khi cịn ngồi trên ghế nhà
trường. Bản thân em khi còn là sinh viên phải nỗ lực học tập tích lũy, phải
nhận thức đầy đủ, đúng đắn kiến thức khoa học cơ bản, phải biết vận dụng
linh hoạt, sáng tạo kiến thức đó vào giải quyết vấn đề hiệu quả trong học tập
15


và trong cuộc sống, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để vững vàng về tư duy
khoa học, phát triển tư duy cá nhân của bản thân.
- Trong nhà trường, sự tác động của giảng viên chỉ là điều kiện cần,
còn nỗ lực của bản thân mỗi sinh viên là điều kiện đủ để phát triển năng lực tư
duy cá nhân mỗi người. Chỉ khi sinh viên tự giác, chủ động tìm tịi, đam mê
khám phá, lĩnh hội tri thức, vốn sống, tư duy logic và năng lực giải quyết hiệu
quả tình huống nghề nghiệp trong thực tiễn thì sinh viên mới thực sự nâng cao
trình độ và năng lực tư duy.

- Để phát huy năng lực tư duy, sinh viên phải nghiên cứu nắm vững các
nguyên tắc phương pháp luận biện chứng duy vật, phải tự trang bị cho mình
vốn tri thức logic học, phải khơng ngừng rèn luyện thực tiễn, phải tích cực tự
học tập rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân để từng bước hoàn
thành và phát triển hoàn thành nhân cách nghề nghiệp tương lai. Ngoài ra sinh
viên phải đổi mới phương pháp tự học, tự tìm tịi khám phá đạt hiệu quả. Ý
thức tự học của sinh viên phụ thuộc vào năng lực và phương pháp học của
chính sinh viên đó. Càng hiểu bài, bản thân em sẽ càng say mê, yêu thích,
dành nhiều thời gian để nghiên cứu mơn học.

KẾT LUẬN
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí
Minh là một nhà nước do tồn thể nhân dân lập nên; là một nhà nước hoàn
toàn hợp hiến, hợp pháp; là nhà nước mà quyền lực của nó bắt nguồn từ nhân
dân, do nhân dân ủy thác, chứ không phải bắt nguồn từ lực lượng siêu
nhiênchúa trời hay từ lý trí tối cao; là một nhà nước lấy quyền và lợi của nhân
16


dân, lấy sự tự do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm
lý do tồn tại của mình. Nhà nước khơng có mục mục đích tự thân nào, mà chỉ
là công cụ phục vụ nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển của xã hội. Theo chủ
tịch Hồ Chí Minh, nếu như chính quyền làm hại đến dân, không mưu cầu
quyền lợi và hạnh phúc cho nhân dân thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại
bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới. Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là nhà nước có phương thức tổ
chức quyền lực hợp lý, khoa học, đảm bảo quyền lực nhà nước luôn thống
nhất thuộc về một chủ thể duy nhất là nhân dân, có sự phân công, phối hợp
trong bộ máy nhà nước, để đảm bảo chính quyền ln ln mạnh mẽ, sáng
suốt, hiệu quả, vì lợi ích của nhân dân. Đó là một nhà nước có Quốc hội thể

hiện tính dân chủ, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc; có bộ máy hành pháp
mạnh mẽ, sáng suốt, dám chịu trách nhiệm; có nền tư pháp độc lập độc lập,
mỗi thẩm phán chỉ trọng pháp luật, cơng lý và lương tâm, trách nhiệm của
mình; có đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là "cơng bộc" của
nhân dân; đó là nhà nước coi trọng tính "tự quản", tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật của chính quyền địa phương; đó là nhà nước kết hợp hài hòa giữa
đạo đức và pháp luật trong cả quá trình xây dựng và thực thi pháp luật. Nhà
nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là nhà nước vĩnh cửu, bất biến,
trái lại đó là nhà nước luôn vận động và phát triển để phục vụ ngày càng tốt
hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Ln đấu tranh để khắc phục và loại trừ
những thói hư, tật xấu, những căn bệnh thường gặp như: tham nhũng, hối lộ,
quan liêu, lãng phí, lạm quyền... dẫn đến sự suy yếu và đánh mất bản chất
cách mạng của nhà nước.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, quan điểm và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân chứa đựng tính
pháp quyền, và thực chất chính là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền. Điều có
giá trị to lớn và ý nghĩa sâu sắc là mơ hình nhà nước đó khơng phải tồn tại ở
17


dạng lý thuyết, quan điểm, mà nó đã trở thành hiện thực sinh động; nhà nước
ấy đã tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết
sức to lớn. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ hội
nhập có những giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Chúng ta cần kế thừa, vận dụng và phát triển những giá trị đó để xây dựng
thành cơng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh Nxb. Lý luận Chính trị, H.2021

18


2. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 94.
3. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 77.
4. Hồ Chí Minh. Tồn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 374.

19



×