Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ hội nhập – liên hệ trách nhiệm bản thân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.25 KB, 20 trang )

Đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ hội nhập –
liên hệ trách nhiệm bản thân.
MỞ ĐẦU
Tư tưởng và quan điểm của Bác về nhà nước của dân, do dân, vì dân vơ
cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng
những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng
Việt Nam; là cẩm nang để sự nghiệp đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công. Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng những có ý
nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu để tiến
hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự là
cơng bộc của dân, hồn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói
hư, tật xấu trong bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ
được bản chất cách mạng, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền là xu hướng tất yếu
khách quan. Trên thế giới cũng chưa có quốc gia, dân tộc nào khẳng định đã
xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, mà chỉ đạt được một số thành tựu
nhất định. Mặt khác, khơng có một nhà nước pháp quyền với tư cách là khuôn
mẫu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do vậy, cùng với việc tiếp thu
những giá trị tính chất phổ biến về nhà nước pháp quyền mà nhân loại đã đạt
được, chúng ta cần nghiên cứu, kế thừa và vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật để từng bước xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng riêng, phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế- xã hội, truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc Việt Nam.
1


Với những lý do trên, em lựa chọn chủ đề: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và


“làm chủ” trong thời kỳ hội nhập “ từ đó liên hệ trách nhiệm bản thân.” để
nghiên cứu khoa học.

NỘI DUNG
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dân
1.1. Cơ sở lý luận.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ơng ta đã tích
lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu về xây dựng nhà nước, được phản ánh
trong các bộ sử lớn của dân tộc như “Đại việt sử ký toàn thư”, “Lịch triều hiến
chương loạn chí”… Kinh nghiệm trị nước cũng ghi lại trong các bộ luận nổi
tiếng như “Hình thư, Quốc triều hình luật, bộ luật Hồng Đức…”- Những yếu tố
tích cực của nhà nước thân nhân thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử
dân tộc: “ nước lấy dân làm gốc”, tiếp thu nho giáo … là những hành trang đầu
tiên Hồ Chí Minh mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mơ
hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành độc lập.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách
của nhân dân An Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là
văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các
dân tộc với các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, kết hợp chặt chẽ quyền dân
tộc và quyền con người.- Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát
mơ hình Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa
mỹ về “ quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc”
của tun ngơn độc lập 1776 đó là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt
2


chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất công khác. Người coi đó là “những cuộc cách
mạng khơng đến nơi” vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít người.- Sau
khi đến Liên Xơ, Người đã tìm thấy mơ hình nhà nước kiểu mới: “… phát

ruộng cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế
mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu
nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai mà Người đã nêu ra
trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930.- Từ mơ hình nhà nước cơng
nơng binh chuyển sang mơ hình nhà nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của
toàn thể quốc dân là một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh
được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù hợp với sự chuyển hướng chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam
1.3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân
Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ nghĩa lập hiến Theo
quan niệm của Hồ Chí Minh, một nhà nước dân chủ, tiến bộ phải là một nhà
nước có Hiến pháp, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước phải được
quy định trong Hiến pháp. Một nhà nước không được tổ chức và hoạt động trên
cơ sở những quy định của Hiến pháp thể hiện ý chí của nhân dân thì nhà nước
đó là bất hợp hiến, bất hợp pháp.
Nhà nước do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân Tư tưởng thống nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước dân chủ,
văn minh và tiến bộ phải là một nhà nước do toàn thể quần chúng lao động lập
nên; quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy thác; nhà nước
là công cụ của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách của nó đều xuất phát từ
quyền, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; nhà nước phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những hoạt động của mình; đồng thời, nhân dân cũng có
nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước, bảo đảm về mọi mặt để nhà
3


nước phát huy hiệu lực, hiệu quả của mình. Theo Hồ Chí Minh, trong mối quan
hệ quyền lực nhà nước thì nhân dân là chủ, nhà nước là đầy tớ; nhà nước phải
tin vào trí tuệ và lực lượng của nhân dân- tức là tin vào ơng chủ của mình.

Khơng phải vì được nhân dân "ủy thác" quyền lực mà nghĩ rằng nhân dân ngu
dốt, quay lại coi khinh trí tuệ và lực lượng của nhân dân. Theo Người, nhà nước
của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước ln ln đặt dưới sự kiểm tra, kiểm
sốt của nhân dân. Sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân đối với nhà nước khơng
có nghĩa là bó buộc nhà nước, là nhân dân không tin vào nhà nước; trái lại là để
nhà nước ngày càng trưởng thành và lớn mạnh hơn, ln giữ vững được bản
chất cách mạng của mình.
Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân Nhà nước ta, theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh đó là một nhà nước từ nhân dân mà ra, vì quyền, tự do và hạnh
phúc của nhân dân mà phục vụ. Nhà nước khơng có mục đích tự thân, khơng
phục vụ cho lợi ích của riêng bất cứ giai cấp, tầng lớp nào trong xã hội, mà đó
là nhà nước của tồn thể dân tộc Việt Nam. Nhà nước ra đời và hoạt động là vì
quyền và lợi ích của thể dân tộc Việt Nam, khơng làm được điều đó thì khơng
cịn lý do để nhà nước tồn tại. Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn
nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực
hoạt động của nhà nước. Trong tư tưởng của Người, nhà nước là của dân, do
dân lập nên, do dân làm chủ nên hoạt động vì quyền và lợi ích của nhân dân,
ngồi mục đích đó, nhà nước khơng có mục đích nào khác. Như vậy, nhà nước
trong tư tưởng Hồ Chí Minh mang tính thiện và tính nhân văn sâu sắc.
Nhà nước mang bản chất giai cấp cơng nhân Nhà nước của dân, do dân,
vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng có nghĩa là "nhà nước toàn dân", nhà
nước phi giai cấp. Bản chất giai cấp cơng nhân thể hiện ở chỗ tồn bộ hoạt
động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến những nguyên tắc tổ
chức và hoạt động đều thể hiện tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân,
4


nhằm từng bước xây dựng quyền làm chủ của nhân dân, phục vụ lợi ích của
giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Bản chất giai cấp cơng
nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh

là thống nhất, hòa quyện với nhau, bắt nguồn từ sự thống nhất lợi ích của giai
cấp cơng nhân với lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc. Theo Hồ Chí
Minh, để đảm bảo giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, cần
quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau: Thứ nhất, xây dựng, củng cố và
hồn thiện chính quyền nhà nước phải trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghĩa
Mác- Lênin về nhà nước, có sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hồn cảnh của
nước ta. Xa rời chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ làm biến dạng nhà nước, lu mờ bản
chất giai cấp và chệch hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, luôn
luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước. Hồ Chí Minh
cho rằng, khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà nước không thể là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tách Đảng với nhân dân khơng
chỉ phá hoại sự lãnh đạo của Đảng mà cịn phá hoại quyền làm chủ của nhân
dân. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền lực của nhân dân gắn liền và thống nhất
với nhau. Hồn tồn khơng có sự đối lập giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu
lực của nhà nước, khơng có sự hy sinh cái này cho cái kia, mà chỉ có sự thống
nhất làm tăng sức mạnh lẫn nhau của cả Đảng và Nhà nước. Thứ ba, tổ chức và
hoạt động của nhà nước phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc
này bảo đảm bản chất giai cấp công nhân và là nguyên tắc tổ chức đặc thù của
nhà nước kiểu mới.
Nhà nước kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong trong quản lý
xã hội Theo Hồ Chí Minh, pháp luật không chỉ thể hiện quyền lợi công dân đơn
thuần mà cịn nhằm mục đích xây dựng một nền đạo đức xã hội đảm bảo cho
mọi người có cuộc sống lương thiện, hạnh phúc, kẻ ác phải bị trừng phạt. Theo
tác giả Vũ Đình Hịe, ở Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, pháp luật là chuẩn. Đạo
5


đức và pháp luật hỗ trợ, bổ sung cho nhau để hạn chế cái ác, hướng tới cái
thiện. Đạo đức, đối với Hồ Chí Minh, khơng những là cơ sở của pháp luật, của
quyền lực của pháp luật, mà còn song hành với việc thực hiện pháp luật. Người

thực hiện pháp luật cũng phải là người có đạo đức. Người chủ trương quản lý
xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức, có lý, có tình. Tư tưởng của Người
là: "không dùng xử phạt là không đúng, song chút gì cũng dùng đến hình phạt
cũng khơng đúng". Thực hành kết hợp "đức trị" với "pháp trị" dựa trên cơ sở
đạo đức và cụ thể hóa ở các quy định pháp luật là tư tưởng xuyên suốt của
Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, thực hành nghiêm chỉnh pháp trị là
ta đã đạt tới trình độ cao của đức trị. Đức trị là biểu hiện ở sự bình đẳng, pháp
trị cũng biểu hiện ở sự bình đẳng. Đây là chỗ gặp nhau giữa đức trị và pháp trị.
Tổ chức quyền lực nhà nước hợp lý và khoa học, đảm bảo chủ quyền
của nhân dân; xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chịu trách nhiệm
trước nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước có nguồn gốc
từ nhân dân, thống nhất thuộc về một chủ thể duy nhất là nhân dân. Trong quá
trình tổ chức và thực thi quyền lực phải có sự phơng cơng, phân quyền rõ ràng,
nhằm phịng tránh sự chun quyền, độc đốn; góp phần phát huy dân chủ và
nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước. Nguyên tắc chung
trong xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là:
Thứ nhất: Xây dựng Quốc hội (Nghị viện nhân dân) là cơ quan quyền lực
cao nhất, cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của tồn
thể nhân dân Việt Nam.
Thứ hai: Xây dựng Chính phủ trong sạch, mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả
và dám chịu trách nhiệm trước nhân dân về những hoạt động của mình.
Thứ ba: Về tổ chức chính quyền địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề cao vai trị quan trọng và khơng thể thay thế của chính quyền địa phương
trong tổng thể bộ máy nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân được xem
6


như là một cơ quan "tự quản" của nhân dân, một cơ quan quyết định về những
vấn đề có tính địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương.

Thứ tư: Trong xây dựng, thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ln nhất qn ngun tắc đảm bảo cho Tòa án được độc lập trong tổ
chức và hoạt động. Thẩm phán chỉ trọng pháp luật và công lý, các nhánh quyền
lực khác không được can thiệp. Khi xét xử thẩm phán chỉ theo pháp luật và
lương tâm của mình, khơng một quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay
gián tiếp vào việc xét xử.
Nhà nước có đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên; thực sự là
cơng bộc của dân Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, "cán bộ là nguồn vốn của Nhà
nước", là cái gốc của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ quyết định; chủ trương, đường lối, chính sách dù có hay, có đúng đến
đâu đi chăng nữa, nhưng nếu khơng có cán bộ với phẩm chất đạo đức tốt, năng
lực chun mơn cao thì cũng khơng thể thực hiện được. Vì thế, chất lượng,
năng lực, hiệu lực và hiệu quả điều hành, quản lý của nhà nước phụ thuộc rất
lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Người cho rằng, cán bộ công
chức nhà nước phải vừa có đức, vừa có tài, tức là vừa hồng, vừa chuyên; nhưng
đức phải là gốc, là nền tảng, giữ vai trò quyết định sự thành bại của công việc
cũng như sự thành công của mỗi con người. Tóm lại, trong chương này, luận
văn tập trung nghiên cứu, phân tích và làm sáng tỏ những quan điểm trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân với những nội dung
như: đó là nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân; là nhà nước có cơ chế tổ chức
quyền lực đảm bảo sự phân công, phân quyền, kiểm tra và giám sát lẫn nhau
giữa các nhánh quyền lực; là nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt, dám chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những hoạt động của mình; là nhà nước có đội ngũ
7


cán bộ, công chức vừa hồng, vừa chuyên, thực sự là công bộc của nhân dân; là
nhà nước đề cao pháp luật trong quản lý xã hội, nhưng đồng thời cũng chú
trọng giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng...

Như vậy, những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
của dân, do dân, vì dân chứa đựng những tính chất của nhà nước pháp quyền.
Phải khẳng định rằng, những quan điểm ấy rất thực tiễn, không phải chỉ là lý
thuyết mà nó đã trở thành hiện thực sinh động thông qua việc thiết lập, xây
dựng và phát triển chính quyền nhân dân theo Hiến pháp 1946- bản hiến pháp
đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Do đó, những quan điểm ấy sẽ có giá trị to lớn
và ý nghĩa vô cùng sâu sắc trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2. Biện pháp để phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ
hội nhập – liên hệ trách nhiệm bản thân.
Dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát
triển kinh tế - xã hội; đồng thời, là phương thức để thực hiện quyền lực của
nhân dân trong quản lý Nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Nội dung phát
huy quyền “là chủ” và “làm chủ” trong thời kỳ hội nhập là vô cùng cần thiết
đối với đất nước Việt Nam trong giai đoạn mới.
2.1. Tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
Hiến pháp năm 2013; thực hiện có hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện, dân chủ cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hình thức dân chủ đại diện là
hình thức phổ biến ở nước ta, có trong cơ chế vận hành hoạt động của hệ thống
chính trị các cấp, nhất là đối với chính quyền Nhà nước; cịn hình thức dân chủ
trực tiếp được thể hiện nhiều ở cấp cơ sở. Do vậy, việc cụ thể hóa vấn đề dân
8


chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ cơ sở theo Cương lĩnh chính trị của
Đảng và Hiến pháp năm 2013 là hết sức cần thiết. Đối với cấp cơ sở, vấn đề
dân chủ đã được Đảng và Nhà nước ta chú ý từ rất sớm, ngày 18/02/1998, Bộ
Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực

hiện Quy chế Dân chủ cơ sở; ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(khóa XI) ban hành Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, v.v.
Kết quả thực hiện trên thực tế những năm qua đã hạn chế được tình trạng nhũng
nhiễu, tiêu cực ở cơ sở, tập hợp và khơi dậy sức dân, củng cố và phát triển khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, quyền làm chủ của người dân ngày càng được phát
huy. Kết quả xây dựng cuộc sống ở cơ sở trong những năm qua là biểu hiện
sinh động của việc thể chế hóa và thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”; đồng thời, từng bước đẩy mạnh thực hiện “dân giám
sát, dân thụ hưởng”. Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân; trở thành động lực để tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy
động sức mạnh tổng hợp, phát huy sức sáng tạo trong nhân dân, góp phần quan
trọng vào thực hiện đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên,
việc thực hiện dân chủ cơ sở vẫn cịn nhiều hạn chế, thiếu sót: quyền làm chủ
của nhân dân có lúc, có nơi cịn bị vi phạm, biểu hiện rõ nhất là tình trạng bức
xúc của nhân dân dẫn tới các vụ việc khiếu kiện đông người diễn biến ngày
càng phức tạp, trong đó có khoảng 70% liên quan đến vấn đề đất đai do chính
quyền các cấp không giải quyết tốt; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân và giải quyết
kịp thời những quyền lợi hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân.
Để dân chủ được bảo vệ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân
dân, cần tiếp tục cụ thể hóa, rà sốt, sơ kết, tổng kết, bổ sung và hoàn thiện các
thiết chế về xây dựng và phát huy dân chủ nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng.
Bởi, cơ sở là cấp cuối cùng trong bộ máy hệ thống chính trị ở nước ta; thời gian
9


qua, đã có một số hình thức thực hành dân chủ trực tiếp, cần phải tiếp tục thực
hiện theo lộ trình vững chắc và hiệu quả để từng bước đẩy mạnh dân chủ trực
tiếp; có thể tiến hành thí điểm, khi đem lại hiệu quả một cách chắc chắn, được
tổng kết, rút kinh nghiệm, có căn cứ lý luận và thực tiễn phù hợp thì áp dụng

rộng rãi ở cơ sở trong cả nước. Như vậy, nếu áp dụng hình thức dân chủ trực
tiếp đúng, phù hợp thì việc kiểm tra, giám sát của nhân dân sẽ có hiệu quả hơn,
điều đó giúp cho hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh hơn và dân chủ sẽ
được phát huy cao hơn, quyền làm chủ của nhân dân được bảo vệ và bảo đảm
tốt hơn. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
quốc tế sâu rộng, với sự phát triển rất mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện
nay, càng cần phải chú ý hơn nữa hình thức dân chủ trực tiếp; đây là biểu hiện
rõ nhất quyền lực tối cao của người dân trong mọi mặt của đời sống xã hội. Vì
vậy, mọi quy định và hành động của tổ chức chính trị và chính trị - xã hội nếu
vi phạm quyền làm chủ của dân, dù là nhỏ cũng sẽ trở thành lực cản trong thực
hiện phát huy dân chủ, cần phải nghiêm túc kiểm điểm, có biện pháp khắc phục
kịp thời và triệt để.
2. 2. Các tổ chức trong hệ thống chính trị; đội ngũ đảng viên, cán bộ,
công chức, viên chức phải nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật,
đề cao đạo đức. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước phải tạo nền tảng chính trị, pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm
chủ; hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo phải tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ phải được thể hiện bằng thể chế và thực
hành trong thực tế. Điều đó địi hỏi dân chủ phải được thể hiện, thể chế hóa
trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Đối với cấp cơ sở, đó là
những quy định đúng đắn, phù hợp trong nội bộ nhân dân ở các cộng đồng dân
cư. Trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay, yêu cầu xây dựng, củng cố và
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, trước tiên phải bắt đầu từ dân chủ trong
10


Đảng, cịn nếu dân chủ trong Đảng khơng được bảo đảm thì khơng thể phát huy
dân chủ trong xã hội. Do vậy, cán bộ, đảng viên của Đảng và đội ngũ cán bộ
trong bộ máy của hệ thống chính trị phải là gương sáng, gương mẫu về thực
hành dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước với bản chất và

nguồn gốc xuất xứ, vốn có chức năng cai trị của một giai cấp, trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, thì việc thể hiện điều đó bằng chức năng quản lý, quản trị,
phục vụ nhân dân. Trong đó, Chính phủ với vị trí, vai trị là cơ quan hành chính
cao nhất trong quyền lực Nhà nước, phải trở thành Chính phủ kiến tạo, đề ra và
tổ chức thực hiện thắng lợi chính sách quốc gia trên cơ sở chủ trương, đường
lối của Đảng và nghị quyết của Quốc hội.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa còn phụ thuộc vào sự gương mẫu của
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, của thành viên trong tất cả các tổ chức
của hệ thống chính trị. Các tổ chức đảng, cũng như các tổ chức và từng thành
viên trong bộ máy của hệ thống chính trị phải có trách nhiệm nêu gương; trong
đó, cán bộ chủ chốt phải khẳng định được trên thực tế bằng hành động nêu
gương của mình. Khơng để xảy ra hiện tượng xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, tham nhũng; luôn giáo dục, tổ chức, giác ngộ nhân dân, không theo đuôi
quần chúng. Chống thái độ mị dân, lừa dân, dọa nạt dân, chạy theo lợi ích tầm
thường,… những hiện tượng đó là lực cản, thậm chí là kẻ thù của dân chủ.
Nhân dân vốn được thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta nâng lên ở vị
thế là người chủ và trao cho trách nhiệm người làm chủ, nên cần có chính sách
giáo dục, nâng cao ý thức làm chủ của người dân. Dân chủ bao giờ cũng phản
ánh cái cốt vật chất chế độ chính trị của quốc gia, tức là phản ánh trình độ và
tính chất của xã hội. Mà cái cốt vật chất ấy là sự tổng hịa của nhiều yếu tố;
trong đó, Đảng ta, với tư cách là người cầm quyền, chịu trách nhiệm lớn nhất
và chịu trách nhiệm cuối cùng trong xã hội, phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn

11


để ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của
nhân dân.
2.3. Đề cao vai trị chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược
phát triển đất nước, trong toàn bộ q trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát

huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân
tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội
ngũ đảng viên, cán bộ, công chức. Nhân dân là người chủ đất nước, giữ vị trí
trung tâm của quyền lực, mọi quyền lực tối cao đều thuộc về nhân dân. Do đó,
cần vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị, các thiết chế bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Điều này đã được thể hiện trong
Hiến pháp, pháp luật, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và quy định của các tổ chức
chính trị - xã hội. Vì vậy, cần tiếp tục rà sốt, cụ thể hóa để nhân dân ngày càng
phát huy tính tích cực trong tham gia hoạch định đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật, các quy định quản lý của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mọi hoạt động của đội ngũ đảng viên,
cán bộ, công chức cần đặt dưới sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhân dân; do
vậy, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia công việc quan trọng
này. Sức mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, sự trong sạch, vững
mạnh của đội ngũ đảng viên, cán bộ, cơng chức chính là lấy từ sức mạnh của
nhân dân; mọi thái độ coi thường dân, hời hợt trong công tác dân vận, cũng như
tinh thần kém trách nhiệm đối với dân sẽ dẫn đến những hậu quả khơn lường.
Hồ Chí Minh cho rằng: “quần chúng tinh lắm, quần chúng biết phân biệt thật
giả. Dân sợ mình thù mà khơng dám nói đó thôi” 1 và “dân biết nhiều việc mà
các cấp lãnh đạo khơng biết”. Điều đó cịn được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng, khẳng định: “Phải dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà
quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và
12


làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân khơng đồng tình, thậm chí căm
ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý
nghiêm các sai phạm” và “ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta cịn,
Đảng ta cịn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lịng dân, để mất niềm tin là mất tất

cả”.
2.4. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân
chủ gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ,
làm phương hại quyền làm chủ của nhân dân. Phải bảo đảm quyền làm chủ
thực sự của người dân trên mọi phương diện, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội; đồng thời, dân chủ phải đi liền với kỷ cương. Kỷ cương/kỷ luật là biểu
hiện của tự do thực sự, đúng theo nghĩa vận hành trong một xã hội lành mạnh.
Dân chủ khơng có gì chung với độc tài. Điều đó có nghĩa là dân chủ khơng phải
là tự do tuyệt đối, mà phải trong khuôn khổ nhất định, phù hợp với quy luật của
xã hội. Tự do như thế là tự do nhận thức và hành động theo cái tất yếu, tức là
suy nghĩ và hành động theo đúng quy luật khách quan. Nếu làm trái với quy
luật khách quan, trái với những quy ước đúng của cộng đồng quốc gia - dân tộc,
không những làm ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của những người xung quanh,
của toàn xã hội, mà còn tự làm mất tự do của chính mình. Cần phải phê phán
nhận thức và biểu hiện phản dân chủ, như: “tự do vơ chính phủ”, “tự do vơ kỷ
luật”. Hồ Chí Minh đã đề cập một cách rất biện chứng quyền tự do trong quan
hệ với vấn đề chân lý: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do.
Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình,
góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi
người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do
tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ
quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là

13


không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục
tùng chân lý”.
Hiện nay, khi dân chủ được mở rộng, bảo đảm và phát huy; với sự
phát triển của công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội tác động khơng nhỏ
tới hình thức thể hiện tự do dân chủ của con người, nhất là trên khơng gian

mạng có cả mặt tích cực và tiêu cực, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phần
tử chống đối lợi dụng tự do, dân chủ để lơi kéo, kích động người dân thực hiện
nhiều hoạt động làm tổn hại đến nền dân chủ đang được xây dựng, củng cố và
phát triển. Do đó, cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, cần phải gắn với
kỷ cương, pháp luật, không cho phép ai lợi dụng dân chủ để phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Quyền dân chủ, quyền tự do ngôn luận bao giờ cũng phải
đi liền với trách nhiệm, nghĩa vụ cơng dân. Đây chính là nhận thức lành mạnh
cho tự do dân chủ và là điều cần thiết để bảo đảm dân chủ của xã hội vì lợi ích
quốc gia, bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng dân cư
2.5. Liên hệ trách nhiệm bản thân
Cuộc vận động “Xây dựng giá trị hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ
mới”, giai đoạn 2018 - 2022 xác định thanh niên Việt Nam thời kỳ mới hướng
đến 12 tiêu chí, gồm:
1. Có lý tưởng cách mạng.
2. Bản lĩnh vững vàng.
3. Giàu lòng yêu nước.
4. Đạo đức trong sáng.
5. Lối sống văn hoá.
6. Tuân thủ pháp luật.
7. Tiên phong hành động.
8. Sáng tạo không ngừng.
9. Học tập liên tục.
14


10. Có sức khoẻ tốt.
11. Kỹ năng phù hợp.
12. Khát vọng vươn lên.
Trong thời kỳ hội nhập bản thân em cần có những nhiệm vụ sau:
Một là, có nhiệm vụ ra sức học tập, đi đầu trong xã hội học tập.

- Tích cực học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi dưỡng lý tưởng
cách mạng: học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Tích cực học tập kiến thức, khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn khoa học kĩ thuật và tay nghề: chủ động và tự giác học nghề. Tiếp
cận và làm chủ kiến thức khoa học và công nghệ tiên tiến. Học quản lý, nắm
vững khoa học và nghệ thuật quản lý.
- Tự giác tham gia học tập, đổi mới phương pháp học tập theo hướng tích
cực, giúp đỡ nhau học tập, học thực chất, khắc phục tâm lý “chạy theo bằng
cấp”.
- Chống các hiện tượng tiêu cực trong học đường: chạy điểm, coi cóp, gian
lận.
Hai là, có nhiệm vụ lao động tạo lập cuộc sống, tham gia phát triển kinh tế
xã hội.
- Mỗi thanh niên cần chấp hành tốt Luật lao động. Có nhận thức đúng về
lao động và nghĩa vụ tham gia phát triển kinh tế.
- Thực hiện tốt các phong trào, chương trình: “Thanh niên tình nguyện”,
“Tuổi trẻ sáng tạo”, “Thanh niên khởi nghiệp” do Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh phát động.
- Đi đầu trong cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp nông thôn, xây dựng nông thôn mới.

15


- Tiếp cận nhanh chóng tri thức và cơng nghệ mới để đạt hiệu quả, năng
suất lao động cao; tham gia đổi mới cơ chế và chính sách, phát triển nguồn
nhân lực…
Ba là, có nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
- Thực hiện tốt phong trào “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” do Đồn

Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh phát động.
- Thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự, tham gia dân quân tự vệ, có ý thức
bảo vệ độc lập chủ quyền lãnh thổ đất nước.
- Tham gia xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân; đội dân
quân, an ninh tự quản, các đội thanh niên tình nguyện giữ gìn trật tự an tồn xã
hội, trật tự an tồn giao thơng…
- Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, tham gia làm tốt công tác
tuyển quân, nhập ngũ, thực hiện tốt công tác “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn
đáp nghĩa”…
Bốn là, tham gia xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
- Nhận thức đúng về văn hóa và yêu cầu của việc xây dựng nền văn hóa
trong thời kỳ đổi mới cần tôn trọng và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc,
thực hiện tốt nguyên tắc “Hội nhập nhưng khơng hịa tan”.
- Tham gia xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh: sống chan hịa,
đồn kết với mọi người trong tập thể, trong
gia đình; tơn trọng và có ý thức giúp đỡ người khác, có trách nhiệm xây
dựng bầu khơng khí tốt đẹp trong cộng đồng.
- Tham gia phát triển văn hóa cộng đồng, “Văn minh công sở”: tôn trọng
các quy tắc ứng xử trong xã hội, trong thôn bản, trong cơ quan và với đồng
nghiệp, với các thành viên trong gia đình.

16


- Đi đầu chống các tệ nạn xã hội: tham gia tuyên truyền phòng, chống các
tệ nạn xã hội như: cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực gia đình…
Năm là, tham gia xây dựng và bảo vệ hệ thống chính trị.
- Tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng: phấn đấu trở thành đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam; tuyên truyền đường lối, nghị quyết của Đảng, ngăn ngừa

các hiện tượng tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng; đóng góp ý kiến phê
bình đảng viên và các tổ chức Đảng.
- Tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền: đi đầu thực hiện các chính
sách của Nhà nước và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của chính quyền địa
phương; xung kích vào những nơi khó khăn, gian khổ để cống hiến và trưởng
thành, tình nguyện với cuộc sống cộng đồng vì sự bình đẳng xã hội.
- Tham gia xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: thực hiện tốt tinh thần
đoàn kết toàn dân, tham gia vào các hoạt động vận động xã hội ủng hộ người
nghèo, công tác nhân đạo, từ thiện…
Sáu là, tham gia xây dựng nếp sống văn minh, đời sống cộng đồng tốt đẹp.
- Nắm vững và nghiêm chỉnh chấp hành Luật hơn nhân và gia đình: thực
hiện tốt các điều khoản trong Luật hơn
nhân và gia đình, khơng gây bạo lực trong gia đình, tơn trọng quyền bình
đẳng giới và quyền bình đẳng của các thành viên trong gia đình, chống gia
trưởng, trọng nam khinh nữ, tảo hôn, bắt vợ, ép gả chồng…
- Đi đầu trong cuộc vận động nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang:
thực hiện tổ chức việc cưới, việc tang gọn nhẹ, tiết kiệm, chống các hiện tượng
mê tín dị đoan, các hủ tục lạc hậu vi phạm pháp luật…
- Xây dựng cho mình nếp sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm, chung thực,
thật thà, chân tình với mọi người, có tinh thần tương thân, tương ái đồng đội,
đồng nghiệp.

17


- Tích cực tham gia các hoạt động xã hội từ thiện, nhân đạo: vận động tài
trợ xã hội, hiến máu nhân đạo, giúp đỡ người nghèo, người già cô đơn, gia đình
chính sách…
Bảy là, tham gia hội nhập quốc tế.
- Phải có bản lĩnh chính trị, tự hào dân tộc, tin tưởng vào đường lối của

Đảng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa…
- Tích cực học tập đi trước đón đầu các ngành khoa học kỹ thuật và công
nghệ mũi nhọn, nâng cao trình độ kiến thức chun mơn, nghiệp vụ.
- Có sức khỏe thể chất và tinh thần tốt để hội nhập: rèn luyện sức khỏe,
sống lành mạnh, tinh thần thoải mái khơng vụ lợi, bon chen, ích kỷ, hẹp hòi.
- Ý thức đầy đủ về hội nhập văn hóa: cảnh giác với các loại và các dịng
văn hóa có tính chất độc hại; chống các luận điệu tun truyền chống phá Đảng,
Nhà nước ta.
- Có kiến thức, hiểu biết về những vấn đề chung của nhân loại: nắm vững
ngoại ngữ, tin học, khoa học công
Trên đây là một số trách nhiệm đối với thanh niên nói chung và đối với
bản thân em nói riêng – một sinh viên Đại học Điện Lực – vô cùng tự hào khi
được học tập dưới mái trường này, em tự hứa với lịng mình ln chấp hành tốt
các nội quy của trường, lớp và luôn chủ động lĩnh hội tri thức, học hỏi không
ngừng để trở thành một sinh viên tốt – một cơng dân gương mẫu trong tương
lai, đóng góp sức mình để nước giàu, dân mạnh.

KẾT LUẬN
Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh
là một nhà nước do tồn thể nhân dân lập nên; là một nhà nước hoàn toàn hợp
18


hiến, hợp pháp; là nhà nước mà quyền lực của nó bắt nguồn từ nhân dân, do
nhân dân ủy thác, chứ không phải bắt nguồn từ lực lượng siêu nhiên chúa trời
hay từ lý trí tối cao; là một nhà nước lấy quyền và lợi của nhân dân, lấy sự tự
do và hạnh phúc của nhân dân làm nhiệm vụ hoạt động và làm lý do tồn tại của
mình. Nhà nước khơng có mục mục đích tự thân nào, mà chỉ là công cụ phục
vụ nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển của xã hội. Theo chủ tịch Hồ Chí
Minh, nếu như chính quyền làm hại đến dân, khơng mưu cầu quyền lợi và hạnh

phúc cho nhân dân thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó
và lập nên một chính quyền mới.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh cịn là nhà
nước có phương thức tổ chức quyền lực hợp lý, khoa học, đảm bảo quyền lực
nhà nước luôn thống nhất thuộc về một chủ thể duy nhất là nhân dân, có sự
phân cơng, phối hợp trong bộ máy nhà nước, để đảm bảo chính quyền ln
ln mạnh mẽ, sáng suốt, hiệu quả, vì lợi ích của nhân dân.
Nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải là nhà nước vĩnh cửu,
bất biến, trái lại đó là nhà nước luôn vận động và phát triển để phục vụ ngày
càng tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Luôn đấu tranh để khắc phục và
loại trừ những thói hư, tật xấu, những căn bệnh thường gặp như: tham nhũng,
hối lộ, quan liêu, lãng phí, lạm quyền... dẫn đến sự suy yếu và đánh mất bản
chất cách mạng của nhà nước.
Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, quan điểm
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân chứa đựng tính
pháp quyền, và thực chất chính là tư tưởng về Nhà nước pháp quyền. Điều có
giá trị to lớn và ý nghĩa sâu sắc là mơ hình nhà nước đó khơng phải tồn tại ở
dạng lý thuyết, quan điểm, mà nó đã trở thành hiện thực sinh động; nhà nước ấy
đã tập hợp, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi hết sức
to lớn. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân,
19


phát huy quyền “là chủ” và “làm chủ” của dân có những giá trị lý luận và thực
tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam, và phát triển đất nước trong giai đoạn
hiện nay. Chúng ta cần kế thừa, vận dụng và phát triển những giá trị đó để xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1977), Văn kiện Đảng
(1945- 1954), tập 1, Hà Nội.

2. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (1995), Một số định hướng lớn
trong công tác tư tưởng hiện nay (Tài liệu học tập Nghị quyết 09 của Bộ Chính
trị), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn
kiện Đại hội IX của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2007), Đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh Nxb. Lý luận Chính trị, H.2021

20



×