Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (489.5 KB, 119 trang )

Luận văn tốt nghiệp - 1 -
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thể kỷ 21, thế kỷ của hội nhập kinh
tế trong khu vực và trên toàn thế giới. Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội để phát
triển đất nước vừa là thách thức lớn đối với nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ
của Việt nam để có thể cạnh tranh với các hàng hoá trên thị trường trong và
ngoài nước.
Trong xu thế chung đó, lĩnh vực kiểm toán Việt Nam vẫn còn khá non
trẻ và đang đứng trước nhiều khó khăn. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt
Nam cũng đang nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ để từng bước chuẩn
bị hội nhập hoàn toàn với quốc tế và cạnh tranh với các công ty kiểm toán
nước ngoài.
Trong kiểm toán, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất và
được thực hiện nhiều nhất trong các cuộc kiểm toán. Để nâng cao chất lượng
của các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, các công ty kiểm toán hiện nay
đang rất chú trọng đến các công việc được tiến hành trong một cuộc kiểm
toán. Công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một công việc hết sức phức tạp và
quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm toán viên có kế hoạch kiểm toán hiệu quả, từ
đó xác định nội dung, lịch trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán để có thể
phát hiện ra các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính.
Thấy được tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong
kiểm toán báo cáo tài chính và qua thời gian thực tập tại công ty TNHH Kiểm
toán và Định giá Việt Nam, em đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện quy trình đánh
giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công
ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu và góp
phần hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán.
Luận văn tốt nghiệp - 2 -
Luận văn tốt nghiệp gồm có 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo
cáo tài chính
Phần 2 : Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán


báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Phần 3: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng
yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH
Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Cũng nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Thị Hồng
Thúy khoa Kế toán cùng các anh chị kiểm toán viên trong công ty TNHH
Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt
thời gian thực tập vừa qua để em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
Luận văn tốt nghiệp - 3 -
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ
RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” là một tính từ để chỉ sự quan
trọng thiết yếu. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại có một ý nghĩa
cụ thể.
Trong Kế toán, trọng yếu là một trong những nguyên tắc kế toán chung
được chấp nhận rộng rãi. Kế toán chỉ nên quan tâm, chú trọng đến những vấn
đề có ảnh hưởng đến tính chính xác của báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến
quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC, còn những khoản mục không
quan trọng, không ảnh hưởng trọng yếu đến tính chính xác của báo cáo tài
chính thì kế toán có thể toàn quyền xử lý theo cách thức tiện nhất cho công
tác kế toán.
Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, trọng yếu là một khái niệm thường
xuyên nhắc tới. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) về
“Tính trọng yếu trong kiểm toán” thì “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót
hoặc sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của
người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của
các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ
sót hoặc sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định

tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần phải có”
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) do Liên đoàn kế
toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ,
bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ, hoặc từng
Luận văn tốt nghiệp - 4 -
nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ
không chính xác hoặc là sẽ rút ra kết luận sai lầm.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm
toán” thì trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin được coi là trọng yếu
có nghĩa là nếu thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các
quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ thuộc vào
tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong
hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không
phải là nội dung của thông tin cần phải có. Tính trọng yếu phải xét trên cả
phương diện định lượng và định tính”
Như vậy, trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của
các sai phạm kể cả bỏ sót của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ hoặc là
từng nhóm nếu xét trong một bối cảnh cụ thể, những sai phạm đó làm cho
người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm hoặc hiểu sai bản chất
vấn đề.
1.1.2 Vai trò của trọng yếu
Tính trọng yếu có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kiểm toán (thiết kế phương pháp kiểm toán) và giai đoạn
kết thúc kiểm toán
 Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Kiểm toán viên đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót
có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh
hưởng của các sai sót lên BCTC từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi
các thử nghiệm kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 (VSA 300) quy định: trong giai

đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên phải “Xác định mức độ
trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”
Luận văn tốt nghiệp - 5 -
Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) quy định: “Khi lập kế
hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân nhắc xem những nhân tố có
thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên
gia kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên quan đến các số dư tài khoản cụ thể và
các loại nghiệp vụ giúp họ xác định được khoản mục nào cần kiểm tra và nên
sử dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích. Điều này
giúp chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ tục kiểm toán; kết hợp những
thủ tục kiểm toán đó lại với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán tới một
mức độ có thể chấp nhận được”
 Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Dựa vào đánh giá mức trọng yếu và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi
ro, kiểm toán viên sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp (tăng
cường thử nghiệm cơ bản hay thử nghiệm kiểm soát…) đồng thời cũng có thể
thay đổi phương pháp kiểm toán nếu có sự thay đổi trong đánh giá mức trọng
yếu.
 Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
Kiểm toán viên dựa vào mức trọng yếu để xác định mức độ trung thực,
hợp lý của các thông tin trên BCTC và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đến
BCTC để đưa ra ý kiến cho phù hợp. Nếu kiểm toán viên phát hiện thấy một
sai phạm trọng yếu thì phải đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu kiểm toán
viên cho là cần thiết mà khách hàng từ chối điều chỉnh thì kiểm toán viên sẽ
đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến ngoại trừ hoặc ý kiến trái ngược
tuỳ theo mức độ trọng yếu của sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên cần phải có
sự hiểu biết về tính trọng yếu và thực hiện đánh giá trọng yếu một cách đầy
đủ.
Luận văn tốt nghiệp - 6 -
1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với

trọng yếu
Việc đánh giá trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Hơn nữa, trọng yếu là một khái niệm tương đối và
gắn liền quy mô của khách hàng. Một sai phạm là trọng yếu với công ty này
nhưng có thể là không trọng yếu với công ty khác. Do đó, để đánh giá một
khoản mục, nghiệp vụ là trọng yếu hay không, kiểm toán viên cần xem xét
trên cả hai mặt định tính và định lượng của những sai phạm hay nói cách
khác, cần xem xét cả quy mô và bản chất nghiệp vụ trong quan hệ với tính
trọng yếu
1.1.3.1Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu
Quy mô của sai phạm đối với một khoản mục hay nghiệp vụ là một
nhân tố quan trọng để xem xét sai phạm đó có trọng yếu hay không. Các chỉ
tiêu thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu như: thu nhập trước
thuế, tổng tài sản, doanh thu, tài sản lưu động, nợ ngắn hạn… Trong các chỉ
tiêu đó thì chỉ tiêu thu nhập trước thuế thường là quan trọng nhất vì nó được
xem như một khoản mục thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng
BCTC.
Ta xem xét hai mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp
vụ là quy mô nhỏ và quy mô lớn để thấy được mối quan hệ giữa quy mô và
tính trọng yếu.
a. Quy mô nhỏ
Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ trong báo cáo tài
chính thì thường được coi là không trọng yếu bởi vì việc phản ánh đúng hay
sai khoản mục, nghiệp vụ này cũng không ảnh hưởng đến quy mô chung trên
BCTC và không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.
Luận văn tốt nghiệp - 7 -
Tuy nhiên, khi xem xét các sai phạm không nên xem xét nó một cách
cô lập vì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu kiểm toán viên
cộng dồn các sai phạm thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của
các sai phạm từ đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.

Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá
tính trọng yếu cần phải liên hệ với quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ một
khoản mục có quy mô 5.000.000 VND có thể được đánh giá là không trọng
yếu khi tổng tài sản là 10.000.000.000 VND nhưng có thể được đánh giá là
trọng yếu khi tổng tài sản là 10.000.000 VND. Hoặc khoản mục nguyên vật
liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất dầu nhưng lại là trọng yếu
trong sản xuất thuỷ tinh, gốm sứ,…
b. Quy mô lớn
Các khoản mục có quy mô lớn thường được đánh giá là trọng yếu vì nó
ảnh hưởng đến nhận thức về thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh
hưởng đến các quyết định quản lý kinh tế và các kết luận kiểm toán. Ví dụ
khoản mục tài sản cố định thường có quy mô lớn trong bảng cân đối kế toán
do đó chúng thường được đánh giá là trọng yếu.
Tuy nhiên không phải khoản mục nào có quy mô lớn cũng sẽ ảnh
hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính vì còn phải xem xét mối quan hệ của
khoản mục với đối tượng kiểm toán cũng như mục tiêu kiểm toán. Vì vậy,
việc đánh giá trọng yếu chỉ dựa vào quy mô là không dễ dàng. Trong thực tế
để đánh giá trọng yếu, kiểm toán viên xem xét đánh giá cả về bản chất của
khoản mục, nghiệp vụ
1.1.3.2Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
Luận văn tốt nghiệp - 8 -
a. Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận
Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được chú trọng hơn
sai sót bởi vì các gian lận thường ảnh hưởng đến tính trung thực và độ tin cậy
cảu Ban Giám đốc và những người có liên quan. Vì vậy, một hành vi gian lận
luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô là lớn hay nhỏ.

Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hoặc chứa đựng khả năng
gian lận bao gồm:
 Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp. Các
nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu, việc lựa chọn chủ
thầu nhiều khi có sự móc nối, phối hợp giữa bên giao thầu và bên nhận
thầu để thu lợi cho một số cá nhân..
 Các nghiệp vụ thanh lý tài sản khi tài sản khấu hao hết hoặc chưa khấu hao
hết nhưng không còn sử dụng. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì
trong nhiều trường hợp tài sản vẫn còn tốt và sử dụng được nhưng vẫn
đem đi thanh lý với giá rẻ do ban giám đốc không quản lý chặt chẽ và có
sự liên kết giữa người tiến hành thanh lý và người mua tài sản thanh lý.
 Các nghiệp vụ về tiền mặt: tiền mặt có đặc điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển, cất
trữ và có biên độ dao động lớn do đó rất dễ có gian lận phát sinh
 Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: dễ có sự liên kết giữa người mua
và người bán để kiếm lợi cho bản thân
 Các nghiệp vụ bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra không thường
xuyên, không có dự tính trước hoặc có dự tính nhưng ít khi xảy ra. Các
nghiệp vụ lại có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Do đó, kiểm toán viên cần xem xét mức độ nghiêm trọng của các
nghiệp vụ đó ảnh hưởng đến kết quả chung của doanh nghiệp
Luận văn tốt nghiệp - 9 -
 Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: chứa đựng khả năng gian lận cao vì
hầu như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho mình.
 Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách
 Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ
mới sinh. Các nghiệp vụ vào cuối kỳ kế toán thường để điều chỉnh một số
chênh lệch thừa thiếu để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch
đã đề ra. Các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần đặt câu hỏi
tại sao không phát sinh từ trước đến giờ và liệu kế toán có xử lý đúng chưa
và từ đó đi tìm bằng chứng chứng minh

 Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa
 Các khoản mục vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý chung
b. Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
 Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn
với các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin liên quan.
 Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên có
thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin
 Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần
 Các khoản mục nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau: Đối với
các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót trong kỳ là nhỏ nhưng nếu không điều
chỉnh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau thì được coi là trọng yếu.
 Các sai sót ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu như một
khoản lỗ được báo cáo như là một khoản lãi hoặc ngược lại.
 Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến nhiều
khảon mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC. Ví dụ
hàng tồn kho bị tính giá sai sẽ ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán, lợi
nhuận…
Luận văn tốt nghiệp - 10 -
 Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của
doanh nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất thông
tin
1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính được
thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá
trình này được khái quát qua năm bước và được thể hiện qua sơ đồ 1.1
- Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu
- Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
- Bước 3: Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục
- Bước 4: Ước tính sai số kết hợp
- Bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng

yếu
Sơ đồ 1.1: Các bước xác định và vận dụng tính trọng yếu
Bước 1 Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các
khoản mục
Bước 3 Ước lượng tổng số sai sót trong các khoản mục
Bước 4 Ước tính sai số kết hợp
Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban
đầu về trọng yếu
Luận văn tốt nghiệp - 11 -
Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm
toán
1.1.4.1Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh
hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay
nói cách khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn
bộ báo cáo tài chính
Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch
để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các kiểm toán viên
ước lượng mức trọng yếu càng thấp nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên
BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố
định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy
ước lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong các nhân tố xác định mức
ước lượng này thay đổi.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm
toán” đã quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng

yếu và rủi ro kiểm toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể
khác với thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của các thủ tục kiểm toán.
Nguyên nhân của sự khác nhau này là sự thay đổi tình hình thực tế hoặc sự
thay đổi về nhận biết của chuyên gia sau một thời gian làm kiểm toán”
Mặc dù ước lượng ban đầu về trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp
mang tính chủ quan của kiểm toán viên song trên thực tế, để hỗ trợ cho kiểm
toán viên trong quá trình kiểm toán, các công ty thường có đường lối chỉ đạo
Luận văn tốt nghiệp - 12 -
ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thông qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu
được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính mức trọng yếu với
từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phải là các chỉ tiêu có tính ổn định qua các
năm.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thường được áp dụng tại các công
ty kiểm toán quốc tế như sau:
 Từ 5% - 10% đối với lợi nhuận trước thuế
 Từ 0.5% - 1% đối với doanh thu
 Từ 2% - 4% hoặc từ 3% - 6% đối với tài sản lưu động hoặc nợ ngắn hạn
 Từ 1% - 2% đối với tổng tài sản
 ….
1.1.4.2Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC
Sau khi kiểm toán viên đã có ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn
bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ ước lượng này cho từng
khoản mục trên báo cáo tài chính. Đây chính là sai số có thể chấp nhận được
đối với từng khoản mục
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục nhằm
mục đích giúp kiểm toán viên xác định số lượng bằng chứng kiểm toán thích
hợp cần phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất mà
vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức ước lượng
ban đầu về trọng yếu
Hầu hết các sai sót trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều có ảnh

hưởng tương tự như trên bảng cân đối kế toán do hệ thống bút toán ghi sổ kép.
Vì thế trong phần lớn các cuộc kiểm toán và hầu hết các thủ tục kiểm toán, việc
phân bổ này chủ yếu cho các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Luận văn tốt nghiệp - 13 -
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục được
thực hiện theo cả hai hướng: khai khống (báo cáo thừa) và khai thiếu (báo
cáo thiếu)
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục, chi phí kiểm toán. Tuy nhiên
trên thực tế rất khó biết trước được những tài khoản nào có khả năng sai số,
chi phí liên quan đến kiểm toán khó có thể xác định vì vậy công việc này
thường do các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm
thực hiện. Ví dụ như chi phí thu thập bằng chứng về hàng tồn kho cao hơn chi
phí thu thập về công nợ nên sai số có thể chấp nhận được của hàng tồn kho
cao hơn sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ. Hoặc không có sai số
có thể chấp nhận được với lãi chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ sinh ra từ sai
số các tài khoản khác.
1.1.4.3Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục
Bằng các thủ tục kiểm toán được áp dụng, kiểm toán viên phát hiện ra
các sai sót đối với từng khoản mục. Dựa vào các sai sót này để ước tính tổng
số các sai sót đối với từng khoản mục. Đây là sai sót dự kiến, kiểm toán viên
sẽ so sánh nó với sai sót có thể chấp nhận được nhằm quyết định xem khoản
mục đó có thể chấp nhận hay không hay phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm
toán thích hợp khác.
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được
Sau khi ước tính sai sót cho từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành
ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được. Tổng số sai sót có thể chấp
nhận được chính là tổng số sai sót dự kiến cho tất cả các khoản mục trên báo
cáo tài chính
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu

hoặc ước lượng ban đầu về trọng yếu đã có sự điều chỉnh
Luận văn tốt nghiệp - 14 -
Việc so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng
yếu cho phép kiểm toán viên đánh giá toàn bộ các sai sót trong các khoản
mục có vượt quá giới hạn về mức trọng yếu chung cho toàn bộ báo cáo tài
chính không. Nếu sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính về trọng yếu thì BCTC
không được chấp nhận toàn phần. Trong trường hợp sai số kết hợp lớn hơn
mức ước tính ban đầu về trọng yếu chủ yếu do một số tài khoản có ước tính
cao thì kiểm toán viên tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp sau khi trừ đi
sai sót do các khoản mục trên gây ra với ước tính ban đầu về trọng yếu sau
khi trừ đi mức trọng yếu phân bổ cho các khoản mục trên. Nếu mức sai sót
kết hợp thấp hơn thì kiểm toán viên sẽ tập trung tăng cường thủ tục kiểm toán
đối với các khoản mục có sai sót trọng yếu và mở rộng quy mô mẫu hoặc yêu
cầu khách hàng điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên. Lúc này, kiểm
toán viên không cần phải tiến hành thêm các thử nghiệm kiểm toán chung
trên toàn bộ BCTC nữa. Nếu khách hàng không điều chỉnh và các thủ tục
kiểm toán bổ sung vẫn khẳng định có sai sót trọng yếu thì kiểm toán viên
không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Trong quá trình kiểm toán, nếu kiểm toán viên phát hiện ra một số yếu
tố ảnh hưởng đến việc ước lượng ban đầu về trọng yếu thì kiểm toán viên có
thể ước lượng lại. Kiểm toán viên sẽ tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp
với ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh.
Nếu mức sai số kết hợp gần bằng ước lượng ban đầu về trọng yếu hoặc
ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh thì đảm bảo nguyên tắc thận
trọng, kiểm toán viên thường yêu cầu Ban Giám Đốc điều chỉnh lại các sai sót
có quy mô lớn hoặc mở rộng quy mô mẫu và tiến hành các thủ tục kiểm toán
bổ sung với các khoản mục này.
1.2Rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán
Luận văn tốt nghiệp - 15 -

Để hiểu được rủi ro kiểm toán trước hết ta cần hiểu rủi ro là gì và phân
biệt một số loại rủi ro được đề cập trong lĩnh vực kiểm toán.
Theo từ điển Tiếng Việt, rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy ra.
Trong lĩnh vực kiểm toán, ta cần phân biệt rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh
doanh. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro mà công ty kiểm toán thường gặp phải
khi nhấp nhận kiểm toán. Đây là loại rủi ro công ty kiểm toán sẽ phải chịu
thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng. Rủi ro kinh doanh liên quan đến
trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính cho khách hàng.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) “ Trọng yếu và
rủi ro kiểm toán” do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố:
“Rủi ro kiểm toán là những rủi ro ma kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa
ra nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là sai sót nghiêm
trọng”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ” (VSA 400) và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 400, khái niệm rủi ro
kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán
viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo
tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được kiểm toán viên xác định trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 đã quy định:
“Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi
thực hiện kiểm toán”. Rủi ro kiểm toán được xác định sẽ giúp kiểm toán viên
có chiến lược chung với hợp đồng kiểm toán, bố trí nhân sự, thời gian cho
cuộc kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục
trên báo cáo tài chính.
Luận văn tốt nghiệp - 16 -
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng ( Inherrent Risk
– IR), rủi ro kiểm soát ( Control Risk - CR) và rủi ro phát hiện ( Detection

Risk – DR ).
1.2.2.1Rủi ro tiềm tàng
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro
kiểm toán”: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc
của một loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai
sót này có thể là đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với sai sót ở các số dư và các
nghiệp vụ khác (ở đây giả định rằng không có quy chế kiểm soát nội bộ có liên
quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như nằm trong bản chất của các số
dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ “ quy định: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng
nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót
trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mặc dù có hay không có hệ thống
kiểm soát nội bộ”
1.2.2.2Rủi ro kiểm soát
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “Trọng yếu và rủi ro
kiểm toán”: “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro do phát hiện sai, có thể xảy ra với một
số dư tài khoản hoặc một loại nghiệp vụ và có thể sai sót nghiêm trọng. Những
sai sót này có thể xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp sai sót của các số dư, các
Luận văn tốt nghiệp - 17 -
loại nghiệp vụ khác mà hệ thống kiểm soát nội bộ đã không ngăn chặn hoặc
không phát hiện kịp thời.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ”: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không
phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ
thống kiểm soát nội bộ.

1.2.2.3Rủi ro phát hiện
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro
kiểm toán”: “ Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát
hiện ra các sáíot hiện có trong các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ.
Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với
các sai sót trong số dư, các loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro phát hiện có
quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của kiểm toán viên”
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ”: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ,
từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện
được”
1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro dùng để đánh giá rủi ro trong giai đoạn
lập kế hoạch kiểm toán. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước
hết ta tìm hiểu về mô hình rủi ro kiểm toán.
1.2.3.1Mô hình rủi ro kiểm toán
Ta có:
Luận văn tốt nghiệp - 18 -
AR = IR x CR x DR
Trong đó: AR: Rủi ro kiểm toán IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán được sử dụng khi lập kế hoạch kiểm toán
theo một hoặc cả hai cách. Cách thứ nhất là mô hình được dùng để giúp kiểm
toán viên đánh giá liệu kế hoạch kiểm toán có hợp lý không. Ví dụ với một
cuộc kiểm toán nhất định, kiểm toán viên đánh giá Rủi ro tiềm tàng IR=0,5,
Rủi ro kiểm soat CR=0,25, Rủi ro phát hiện DR=0,1 thì AR=0,5 x 0,25 x
0,1=0,0125. Nếu kiểm toán viên kết luận là rủi ro kiểm toán thích hợp đối với
hợp đồng kiểm toán không thấp hơn 1,25% thì kế hoạch đó được chấp nhận.
Tuy nhiên để có được một kế hoạch hiệu quả hơn, kiểm toán viên

thường sử dụng mô hình kiểm toán theo cách thứ hai để xác định rủi ro phát
hiện và số lượng bằng chứng thích hợp phải thu thập. Theo cách này, ban đầu
khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên sẽ xác định ra một mức rủi
ro kiểm toán mong muốn chung cho cuộc kiểm toán ( ví dụ DAR=0,0125).
Sau đó trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên sẽ đánh giá
được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ( ví dụ 0,5 và 0,25). Lúc này để đảm
bảo cho cuộc kiểm toán có mức độ rủi ro kiểm toán ở mức như dự kiến ban
đầu, kiểm toán viên xác định rủi ro phát hiện theo công thức
DR =
DAR
IR x CR
Do đó, rủi ro phát hiện sẽ là 0,1. Từ đó, kiểm toán viên lập chương
trình kiểm toán thích hợp để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp đảm
bảo rủi ro phát hiện ở mức 0,1 và rủi ro kiểm toán ở mức 0,0125
Rủi ro kiểm toán được xác định theo cách thứ hai này được kiểm toán
viên sử dụng phổ biến hơn. Theo cách này, rủi ro kiểm toán được xác định từ
Luận văn tốt nghiệp - 19 -
ban đầu cuộc kiểm toán và được gọi là rủi ro kiểm toán mong muốn (Desired
Audit Risk- DAR). Đây là mức độ mà kiểm toán viên sẵn sàng chấp nhận là
báo cáo tài chính có thể sai sót sau khi cuộc kiểm toán đã hoàn thành và đi
đến ý kiến chấp nhận toàn phần. Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định
một cách chủ quan theo kinh nghiệm của kiểm toán viên. Khi kiểm toán viên
quyết định một tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn có nghĩa là kiểm
toán viên muốn chắc chắn hơn là các báo cáo tài chính không bị sai phạm
trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn =0 thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn
chắc chắn là báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán
mong muốn = 1 thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn không chắc chắn rằng báo
cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Như vậy DAR có thể nằm trong
khoảng từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 0 là điều rất hiếm xảy ra
trong kiểm toán báo cáo tài chính vì bị giới hạn về thời gian và chi phí cho

cuộc kiểm toán.
Mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định dựa vào hai yếu tố
chủ yếu là: Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo
cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo
cáo kiểm toán được công bố.
 Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo cáo tài
chính
Khi người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào báo cáo tài chính
thì mức độ ảnh hưởng trên phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót
không được phát hiện trên báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên cần xác
định một mức rủi ro kiểm toán thấp để tăng số lượng bằng chứng kiểm toán
cần thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận kiểm toán. Mức độ mà
Luận văn tốt nghiệp - 20 -
các báo cáo tài chính được người sử dụng bên ngoài tin tưởng phụ thuộc vào
một số yếu tố như:
 Quy mô của công ty khách hàng: Hoạt động của khách hàng càng lớn thì
báo cáo tài chính càng được sử dụng rộng rãi. Quy mô của công ty khách
hàng được đo lường bằng tổng tài sản, thu nhập và số lao động. Các chỉ
tiêu này càng lớn thì rủi ro kiểm toán mong muốn càng thấp.
 Sự phân phối quyền sở hữu: Các báo cáo của các công ty sở hữu công
cộng thường được người sử dụng tin tưởng hơn các báo cáo của các công
ty có quyền sử dụng hẹp hơn và khi đó, rủi ro kiểm toán mong muốn ở
mức thấp hơn. Ví dụ như công ty cổ phần niêm yết trên sàn có mức rủi ro
kiểm toán mong muốn thấp hơn so với công ty cổ phần nhưng chưa niêm
yết vì số lượng người quan tâm đến báo cáo tài chính nhiều hơn.
 Bản chất và quy mô công nợ: Khi các báo cáo tài chính bao gồm một số
lượng lớn công nợ, chúng có nhiều khả năng được sử dụng rộng rãi bởi
các chủ nợ thực tế và tiềm năng hơn là khi có ít công nợ. Lúc này rủi ro
kiểm toán mong muốn được đánh giá thấp hơn.
 Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo cáo kiểm

toán được phát hành
Nếu khả năng này càng cao thì kiểm toán viên phải thiết lập một mức
rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn so với khách hàng gặp ít khó khăn tài
chính hơn, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Điều này
làm cho chi phí kiểm toán tăng lên để giảm thiểu khả năng các vụ kiện mà
kiểm toán viên và công ty kiểm toán sẽ phải đương đầu trong tương lai.
Việc dự đoán khả năng khách hàng gặp khó khăn tài chính trong tương
lai là điều không đơn giản nhưng kiểm toán viên có thể dựa vào một số yếu tố
sau để phán đoán sự kiện này:
Luận văn tốt nghiệp - 21 -
 Khả năng thanh toán: Nếu một khách hàng thường xuyên thiếu tiền mặt,
vốn lưu động điều này là một dấu hiệu xấu về khả năng thanh toán. Kiểm
toán viên cần phải đánh giá khả năng và ý nghĩa của tình trạng này khi nó
trở nên xấu hơn.
 Các khoản lãi, lỗ trong các năm trước: Khi một công ty giảm nhanh các
khoản lãi (lỗ) trong vài năm, kiểm toán viên cần phải nhận biết các vấn đề
trong tương lai về khả năng thanh toán, tiếp tục hoạt động mà khách hàng
có thể gặp phải.
 Các cách thức làm tăng quy mô vốn: Nếu công ty khách hàng mở rộng quy
mô vốn bằng cách vay nợ thì rủi ro gặp khó khăn về tài chính càng lớn nếu
các hoạt động của khách hàng trở nên kém thành công.
 Bản chất hoạt động kinh doanh của công ty khách hàng: Một số loại hình
doanh nghiệp nhất định có nhiều rủi ro hơn các loại hình doanh nghiệp
khác. Ví dụ với các điều kiện khác không đổi thì công ty môi giới chứng
khoán có khả năng phá sản cao hơn một công ty điện nước.
 Năng lực của ban giám đốc: nếu ban giám đốc có năng lực kém thì khả
năng công ty gặp khó khăn về mặt tài chính sẽ tăng lên.
 Ngoài ra còn phải xét đến các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động
của doanh nghiệp như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, về sự thay
đổi các chính sách kinh tế….

Căn cứ vào các yếu tố trên, kiểm toán viên sẽ xác định một mức rủi ro
kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có thể
dựa vào rủi ro kiểm toán mong muốn của toàn bộ báo cáo tài chính để đưa ra
rủi ro kiểm toán mong muốn cho từng khoản mục. Ví dụ: Kiểm toán viên lập
rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính ở mức trung bình
vì số người sử dụng báo cáo tài chính hạnh chế và lợi nhuận từ hoạt động
Luận văn tốt nghiệp - 22 -
trước đây là binh thường thì kiểm toán viên có khả năng sử dụng mức rủi ro
kiểm toán trung bình đối với các khoản phải thu, tài sản cố định và tất cả các
khoản mục chủ yếu khác.
Kiểm toán viên thường dùng cùng một mức rủi ro kiểm toán mong
muốn đối với từng bộ phận vì các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán
mong muốn thường liên quan đến toàn bộ cuộc kiểm toán chứ không phải đến
từng bộ phận riêng biệt. Tuy vậy trong một số trường hợp đặc biệt, một mức
rủi ro kiểm toán mong muốn lớn hơn có thể thích hợp hơn bộ phận này so với
bộ phận khác. Trong ví dụ trên, cho dù kiểm toán viên quyết định sử dụng rủi
ro kiểm toán trung bình đối với cuộc kiểm toán nói chung, kiểm toán viên có
thể quyết định giảm rủi ro kiểm toán mong muốn xuông thấp hơn đối với
hàng tồn kho nếu hàng tồn kho được sử dụng như là một vật thế chấp cho một
khoản vay ngắn hạn.
1.2.3.2Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Qua nghiên cứu các loại rủi ro và mô hình rủi ro kiểm toán, chúng ta
thấy rằng rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm
toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát khác với rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán ở chỗ các loại rủi ro
này tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh và môi trường
quản lý của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của số dư tài khoản, các
loại nghiệp vụ cho dù có hay không có công việc kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên kiểm toán viên

thường kết hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Trong khi đó rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán được đánh giá và xác
định phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của kiểm toán viên. Kiểm toán viên
thường xác định rủi ro kiểm toán ngay từ đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm
Luận văn tốt nghiệp - 23 -
toán. Còn rủi ro phát hiện được xác định cuối cùng sau khi đã xác định rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dựa trên việc thiết kế các thủ tục kiểm toán để
đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức mong muốn.
Rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao
thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm
toán ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức độ
rủi ro phát hiệncao hơn nhưng vẫn phải đảm bảo rủi ro kiểm toán xuống
thấp ở mức có thể chấp nhận được
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán
viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau
đây:
Bảng 1.1: Dự kiến rủi ro phát hiện
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm
soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên
về rủi ro tiềm
tàng
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Trong đó:

• Mỗi loại rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba
mức: cao, trung bình, thấp
• Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện
Luận văn tốt nghiệp - 24 -
• Rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: cao nhất, cao, trung
bình, thấp, thấp nhất
1.2.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán
1.2.4.1Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá cho toàn bộ báo cáo tài
chính trong khi lập kế hoạch kiểm toán. Đồng thời kiểm toán viên cũng xác
định rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc các loại nghiệp vụ trong khi lập
chương trình kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ” : “Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm
toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị
được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định
cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư và các loại nghiệp vụ quan trọng
đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác đinh cụ thể thì kiểm toán
viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ
vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm
toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo
cáo tài chính, hoặc các nghiệp vụ, khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi
ro tiềm tàng cao”.
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện báo cáo tài chính
Trên phương diện báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá rủi ro
tiềm tàng dựa vào các nhân tố chủ yếu sau:
 Sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Ban Giám Đốc cũng như sự
thay đổi thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán trước. Ban
Giám Đốc không thể xem là hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp.
Trong trường hợp Ban Giám đốc bị kiểm soát bởi một hoặc một số ít cá

Luận văn tốt nghiệp - 25 -
nhân thiếu tính trung thực thì khả năng báo cáo tài chính bị báo cáo sai là
tăng lên, do vậy rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá ở mức cao….
 Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của kế toán trưởng, của các nhân
viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu
có) của họ. Nếu kế toán trưởng có trình độ chuyên môn cao và kinh
nghiệm nhiều thì họ có khả năng kiểm soát và ngăn chặn các sai sót
và gian lận. Ngược lại nếu kế toán trưởng không có trình độ chuyên
môn cao và nhiều kinh nghiệm thì báo cáo tài chính sẽ chứa đựng
nhiều sai sót thậm chí gian lận không được ngăn chặn và phát hiện.
Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng kế toán trưởng sử dụng trình
độ của mình để gian lận.
 Những áp lực bất thường đối với Ban Giám Đốc, kế toán trưởng thúc
đẩy Ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính
không được trung thực. Ví dụ khi Ngân Hàng, hội đồng quản trị yêu
cầu doanh nghiệp phải có lãi sau một vài năm hoạt động bị thua lỗ
hoặc khi doanh nghiệp cần thu hút vốn đầu tư của bên ngoài…
 Đặc điểm hoạt động của đơn vị như: Quy trình công nghệ, cơ cấu, các
đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ…
 Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các
biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi thị trường, sự thay
đổi hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị. Nếu tình
hình kinh tế, thị trường hay sự thay đổi hệ thống kế toán tác động đến
doanh nghiệp thì rủi ro tiềm tàng thường được đánh giá cao.
 Hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên và hợp đồng kiểm toán dài hạn:
Đối với hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên, kiểm toán viên thường
thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về những sai sót của đơn vị khách

×