Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Du lịch văn hóa Huế trong tiến trình toàn cầu hóa du lịch và địa phương hóa du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.8 KB, 5 trang )

DU LỊCH VĂN HĨA HUẾ TRONG TIẾN TRÌNH
TỒN CẦU HĨA DU LỊCH VÀ ĐỊA PHƯƠNG HÓA DU LỊCH
Phan Huy Xu(*)
CULTURAL TOURISM IN HUE IN TOURISM GLOBALIZATION
AND LOCALIZATION
Abstract
In the trend of tourism globalization – localization, in Vietnam, Hue is aware of
developing its cultural advantages for tourism development strategy, particularly cultural
tourism. The paper confirms the successful integration of Hue in the tourism sector as the
inheritance, interference and acculturation. The integration of Hue is produced by its history.
*
Trong các nguồn lực phát triển du lịch, nhiều thập niên qua tại mỗi quốc gia đều tập
trung chú ý đến việc khai thác lợi thế văn hóa trong việc phát triển ngành “cơng nghiệp
khơng khói”. Cùng với tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hoá là một trong những điều kiện
đặc trưng cho việc phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Việt Nam,
một quốc gia dân tộc có sự đa dạng về văn hóa tộc người, văn hóa vùng miền. Trong đó, “xứ
Huế” nổi lên như một vùng văn hóa khai thác hiệu quả nguồn lực văn hóa trong kinh doanh
du lịch, sáng tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa đặc trưng Huế nhưng khơng hề lạc điệu
khi hòa nhập với khu vực và thế giới. Huế là một minh chứng cho việc địa phương hóa du
lịch văn hóa trong kỷ nguyên hội nhập.
1. Một vài lý luận về tồn cầu hóa, địa phương hóa du lịch
Sau Chiến tranh lạnh kết thúc, tiến trình tồn cầu hóa diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa…, du lịch là ngành diễn ra muộn hơn nhưng lại đang dần trở
thành lĩnh vực chiếm lĩnh và chi phối nhiều vấn đề toàn cầu. Trong thế kỷ XXI, tồn cầu hóa,
địa phương hóa về du lịch là một xu thế tất yếu. Sức mạnh của du lịch là sự tổ hợp của nhiều
ngành nghề khác nhau nên du lịch có mối quan hệ hữu cơ và gắn bó với nhiều lĩnh vực. Qúa
trình tồn cầu hóa về du lịch làm xích lại gần nhau các giá trị từ nhiều nền văn hóa khác
nhau. Nếu như trước đây, phương cách sinh hoạt ẩm thực của người phương Tây là dùng
“nĩa, dĩa”, người phương Đông sử dụng “đôi đũa” thì ngày nay sự riêng biệt đó khơng cịn là
cách biệt. Sự sở hữu cũng khơng cịn là độc quyền mà nó phổ biến khắp nơi ví như: mơn thể
thao chơi Golf từng chỉ giành cho người phương Tây, nhưng hiện nay bất cứ nơi đâu dân


“quý tộc” đều có thể tham gia, vì thế một hệ thống các sân Golf kiêm Resort mọc lên như
nấm. Tồn cầu hóa về du lịch là cơ hội cho nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ hoàn thiện hệ thống
cơ sở hạ tầng, đầu tư nhà hàng – khách sạn, các khu du lịch, dịch vụ y tế, ngân hàng – tài
chính… Chính tồn cầu hóa về du lịch gia tăng các áp lực buộc các địa phương muốn hội
nhập và phát triển du lịch phải bung năng lực để cạnh tranh và sinh tồn. Mỗi địa phương đều
có sức mạnh của riêng mình trong kinh doanh du lịch, địa phương nào cũng ăm ắp các giá trị
văn hóa trong đời sống của mình (ngơn ngữ, hệ thống giá trị, chuẩn mực, lối sống, phong tục
tập quán, văn chương, nghệ thuật, di tích – lịch sử, lễ hội…) nó là điều kiện cho du lịch phát
triển. Trong tổng thể sức mạnh của một quốc gia khi tham gia vào lộ trình tồn cầu, mỗi địa
phương trong từng quốc gia, khu vực đều có sứ mệnh của riêng mình mà khơng thể tách rời.
Có thể xem các giá trị của địa phương góp phần xây dựng giá trị chung của nhân loại, sự tác
(*)

PGS.TS., Nguyên cố vấn – Trường CĐVH NT&DL Sài Gòn; Trưởng Khoa QTKD Du Lịch – ĐH Quốc Tế
Hồng Bàng.


động hai chiều giữa tồn cầu hóa, địa phương hóa là khơng thể tránh khỏi. Trong mối quan hệ
trên, tồn cầu hóa về du lịch có sức mạnh ưu thế tạo sức ép đối với mỗi địa phương trong việc
phát triển các giá trị đặc sắc của mình vào hội nhập như là một cách “sống còn”. Sự nhanh
nhạy hội nhập thời cuộc, năng sáng tạo và biết “thể hiện” mình để đưa các giá trị có tính bản
địa vào hội nhập tồn cầu. Thay vì đưa các giá trị tồn cầu hóa đến với mỗi địa phương, thì
các địa phương nên chủ động “địa phương hóa” các giá trị của mình vào lộ trình phát triển
của quốc gia, khu vực và thế giới. Con đường hội nhập này các địa phương đứng thế chủ
động khai thác hiệu quả sức mạnh của mình, đồng thời biết bảo vệ bản sắc văn hóa của mình
khơng bị “thương mại hóa văn hóa”, “rơi rớt bản sắc” bởi yếu tố thị trường toàn cầu. Có thể
nói đây là cách thức hội nhập, giao thoa và phát triển khơn ngoan và khó. Và nhìn vào các
vùng miền Việt Nam, Huế là địa phương có lịch sử hội nhập phát triển năng động, linh hoạt
và tạo nên sự giàu có cho địa phương của mình. Vì vậy mà văn hố là điều kiện và mơi
trường để cho du lịch phát sinh và phát triển. Giá trị của những di sản văn hố: di tích lịch sử,

các cơng trình kiến trúc, các hình thức nghệ thuật, các tập quán, lễ hội, ngành nghề truyền
thống… cùng với các thành tựu kinh tế, chính trị, xã hội, các cơ sở văn hoá nghệ thuật, các
bảo tàng… là những đối tượng cho du khách khám phá, thưởng thức, cho du lịch khai thác và
sử dụng. Sự khai thác và thu lợi nhuận từ tài nguyên, việc xây dựng các khu điểm du lịch đều
phản ánh trí tuệ và sức sáng tạo của lồi người. Chính những tài ngun này không chỉ tạo ra
môi trường và điều kiện cho du lịch phát sinh và phát triển mà còn quyết định quy mô, thể
loại, chất lượng và hiệu quả của hoạt động du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa
phương.
2. Xứ Huế - hơn 700 năm hội nhập, giao thoa và phát triển
Năm 1306, châu Ô, châu Lý của vương quốc Chăm Pa sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt,
được đổi thành châu Thuận Hóa. Kể từ sự kiện lịch này, Huế bước vào đời sống Việt và tạo
dựng nên một “địa phương”, một “vùng miền” và là “một xứ” rất đậm đà màu sắc văn hóa,
lịch sử.
Lịch sử hội nhập của Huế là lịch sử của sự giao thoa, tiếp biến và phát triển. Cho đến
thế kỷ thứ XXI, trong thời đại du lịch đang trở thành ngành kinh tế hàng đầu, hầu hết các địa
phương khác đang loay hoay tìm kiếm con đường phát triển du lịch dựa vào nguồn lực địa
phương thì Huế lại là địa phương đang vươn mình trở thành một “đơ thị văn hóa, du lịch”.
Cách thức hội nhập của Huế có bản lĩnh từ trong lịch sử của mình.
Huế thời Chăm pa
Xứ Huế có một bề dày văn hóa trước khi có văn hóa Việt ở đây. Từ đầu cơng ngun
cho đến thế kỷ XIV Huế là một vùng – miền của văn hóa Chăm Pa. Những dấu tích của văn
hóa Chăm: tượng Chăm, bia, tháp Chăm được tìm thấy ở Quãng Điền, Hương Trà. Chùa
Thiên Mụ được xây dựng trên nền tháp Chăm xưa. Điện Hòn Chén và nhiều đền, điện thờ
thánh mẫu Thiên Y – A – Na. Thánh Mẫu Y – A – Na vốn gốc là Mẫu hệ Chăm khi người
Việt vào sinh sống vùng đất Thuận Hóa đã Việt hóa thành Thánh Mẫu của người Việt. Một
minh chứng cho sự giao thoa văn hóa Việt – Chăm.
Huế thời Đại Việt
Một xứ Huế thực sự của Đại Việt được định hình vào thời Lê – Mạc và rõ nhất thời
kỳ các chúa Nguyễn từ thế kỷ XVII – XVIII khi Huế (Kẻ Huế, Kẻ Hóa) trở thành kinh đô xứ
Đàng Trong. Huế hơn 200 năm là đất bản hộ của các chúa Nguyễn với sự tích hợp các nền

văn hóa Chăm – Hoa – Việt. Thế kỷ XVII, khi triều Minh sụp đổ, có nhiều cộng đồng, dịng
họ người Minh Hương ở ven biển Đông Nam Trung Hoa di cư vào cùng ven biển Đại Việt
lập ra “Minh Hương Xã” ở Thanh Hà (Huế), Quãng Nam (Hội An), Chợ Lớn (Sài Gịn) với
thời gian họ đã “Việt hóa” trở thành công dân Việt Nam. Cảng thị cổ Thanh Hà – Bao Vinh
(Huế) là một cảng thị sầm uất thời bấy giờ. Đồng thời là q trình “đơ thị hóa” và “đế vương
hóa” đến thời kỳ Việt Nam 1802, Huế trở thành Kinh đô của Việt Nam là nơi kết tinh và hội


tụ văn hóa miền Trung – Nam để tạo nên một vùng văn hóa và một sắc thái văn hóa mới cho
Việt Nam. Huế thời kỳ Gia Long – Minh Mạng trở thành kinh đô của nước Việt từ Lạng Sơn
cho đến Cà Mau.
Thời kỳ kinh đô Huế
Thời kỳ cận đại, người Tây đến Việt Nam mang theo nhân tố văn hóa mới. Huế là nơi
sinh sống của người phương Tây và tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Pháp trở thành một phần của
Trung kỳ trong chế độ thuộc địa Pháp. Một nền văn hóa cưỡng chế hình thành. Năm 1919,
xóa bỏ kỳ thi chữ Hán, năm 1882 Pháp chính thức ban hành nghị định chữ Quốc ngữ sử dụng
trong hành chính nhà nước. Huế - nơi triều đình bên cạnh một Tịa Khâm Sứ Pháp đã tiếp
nhận văn hóa phương Tây. Điển hình là văn hóa Pháp: ẩm thực Pháp bên cạnh ẩm thực dân
gian Huế tạo nên hương vị cho ẩm thực cung đình. Tiếng Huế với tiếng Pháp hội nhập đa
dạng về từ vựng, âm sắc; kiến trúc Pháp hiện diện trong một môi trường tự nhiên dân dã kết
hợp một cách hài hòa, mềm mại giữa “sang trọng” và “tự nhiên”, cộng thêm vào văn hóa Huế
một cách nhuần nhị, sắc nét.
Huế thế kỷ XXI – thế kỷ hội nhập
Thế kỷ XXI, khi du lịch trở thành một ngành kinh tế mà mỗi quốc gia, khu vực đều
xem nó là ngành kinh tế mũi nhọn với những lời ngợi ca “cơng nghiệp khơng khói”, “cơng
nghiệp đẻ trứng vàng”, rõ ràng nó đặt trọng trách lên vai trị của mỗi địa phương trong việc
khai thác vốn có của mình phục vụ cho sự phát triển. Lợi thế văn hóa, tự nhiên, chiến lược
phát triển… là kho tài ngun bất tận. Nhìn vào các địa phương, các « xứ » ở Việt Nam“xứ
Thanh”, “xứ Nghệ”, “xứ Lạng”, “xứ Qng”… ít « xứ » nào làm tốt ngành du lịch như
«Huế » - đây là địa phương « có một khơng hai » ở Việt Nam đã nhanh chóng hịa nhịp vào

nền du lịch khu vực, thế giới « kịp thời – đúng thì ». Có thể nói, ở mỗi một thời kỳ lịch sử
Huế luôn làm theo cách của mình để giàu có hơn văn hóa, hội nhập thời cuộc nâng mình lên
cao mà khơng lạc điệu. Nghiên cứu lịch sử hội nhập, giao thoa, giao hòa của xứ Huế để
chứng tỏ một điều, trong bất cứ một giai đoạn lịch sử biến thiên nào Huế luôn luôn mới. Và
thế kỷ XXI, du lịch ở Huế đã kịp ghi mình xứng danh « địa phương hóa du lịch trong hội
nhập » - « nổi bật nơi đơng người ».
Huế là vùng văn hóa sớm nhất ở Việt Nam được suy tơn văn hóa tồn cầu và có tiềm
lực văn hóa để đối thoại. Năm 1993, kinh thành Huế được UNESCO cơng nhận là Di sản Văn
hóa vật thể. Năm 2003, Nhã Nhạc cung đình Huế là di sản Văn hóa phi vật thể được bình
chọn sớm nhất ở thể loại này của Việt Nam. Huế là nơi có những thương hiệu riêng (Huế)
trên cơ sở cái chung của văn hóa dân tộc : màu sắc có “sắc tím Huế”, nón bài thơ Huế, áo dài
Huế, mắm Huế, ẩm thực Huế, tiếng Huế, kiến trúc Huế… đến giá trị lịch sử “cố đơ” riêng
Huế cịn ngun vẹn so với các “cố đơ phế tích” Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đơ chỉ cịn là
“vang bóng một thời”. Huế là địa phương sớm nhất sáng tạo ra một lễ hội văn hóa tồn
cầu Festival. Feltival Huế - là lễ hội đương đại đầu tiên ở Việt Nam được phát triển trên khái
niệm mới về lễ hội, lấy mơ hình Festival của các thành phố nổi tiếng trên thế giới làm hình
mẫu tổ chức. Hoạt động được diễn ra 2 năm 1 lần với quy mô quốc gia, quốc tế và trở thành
nơi quy tụ, gặp gỡ của nhiều chương trình nghệ thuật đến từ khắp các châu lục trên thế
giới. Từ năm 2000 đến năm 2014, Festival Huế đã diễn ra 8 kỳ, mỗi kỳ Feltival Huế là nơi
hội tụ đa sắc màu văn hóa ví như Festival Huế năm 2010 với Slogan “Nơi gặp gỡ của các
thành phố cổ và điểm hẹn di sản văn hóa thế giới”, các chương trình nghệ thuật mang đậm
sắc thái văn hóa của 5 châu lục với nhiều quốc gia. Đến Festival 2012, là lễ hội của “Khát
vọng xanh”, mang thơng điệp hịa bình - hữu nghị của thành phố Huế đi khắp năm châu. Đặc
biệt Festival Huế lần thứ 8 diễn ra từ ngày 12/4 đến ngày 20/4/2014 với chủ đề “Di sản văn
hóa với hội nhập và phát triển” đã quy tụ 66 đoàn nghệ thuật đến từ 37 quốc gia thuộc 5 châu
lục.
Từ năm 2000 đến nay, Festival Huế là sự kiện văn hóa du lịch lớn của Việt Nam, vừa
có qui mơ quốc gia vừa có tính quốc tế, thu hút sự tham gia của nhiều vùng văn hóa trong



nước và tiếp cận với nghệ thuật đương đại của Pháp, từng bước tiếp thu công nghệ Festival
quốc tế, xây dựng Huế xứng đáng là một thành phố Festival Việt Nam
Tinh thần “Di sản văn hóa với hội nhập và phát triển xuyên suốt tám lần Festival vừa
qua. Nhiều nước tham gia như Pháp, Trung Quốc, Nga, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Anh,
Achentina, Indonexia, Úc, Mông Cổ, Philippin, Lào, Campuchia, Xenegan, Bờ Biển Ngà,….
Từ thành công của Festival Huế, chúng ta cần nhận thức được rằng: mỗi một khu vực,
địa phương ở Việt Nam muốn thành công trong phát triển du lịch phải biết khai thác các giá
trị đặc sắc để tự tin đi vào lộ trình hội nhập.
3. Huế là thành phố văn hóa, du lịch
Ở Việt Nam, có lẽ ít nơi như ở Huế cho thấy một mẫu hình chuyển tiếp văn hóa một
cách tương đối tự nhiên, tuần tự giữa truyền thống và hiện đại, sự đan xen và kết hợp hài hòa
giữa dân gian với cung đình, giữa văn hóa dân dã thơn q với lối sống thành thị nơi đơ thị.
Người Huế có biệt tài dung hợp tất cả những khác biệt ấy để nâng mình lên cao, từ đó tạo
thành bản sắc, “cá tính” cho mình. Xét ở nhiều góc độ trong xun suốt lịch sử của mình Huế
đã biết khai thác “nét riêng” nguồn cội lịch sử văn hóa, sinh thái nhân văn của mình để hịa
vào dịng chảy của thời đại. Trong thời đại hội nhập du lịch, con người lựa chọn văn hóa để
phát triển lợi thế bản sắc. Và Huế đã và đang làm nhiều việc như thế cho mình. Người ta
đang hướng tới Huế - một đơ thị văn hóa, du lịch.
Huế là một vùng văn hóa “có một không hai”, hệ tiếng Huế rất dễ thương mà bất kỳ ai
nghe cũng nhận ra đó là “tiếng Huế”. Cộng gộp vào tiếng Huế là người Huế, là cộng đồng
dân cư cịn tương đối thuần nhất, có bản sắc dễ dàng nhận biết trong số các cộng đồng dân cư
thành thị ở Việt Nam. Hò Huế - với điệu hị Mái Nhì, Mái đẩy. Hệ ca nhạc Huế với điệu Nam
Ai, Nam Bắc. Hệ kinh thành Huế còn giữ được tương đối hoàn chỉnh của một thời “hoàng
gia” Việt Nam so với Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đô…..Hệ Lăng Tẩm Huế, Lăng Minh Mạng
– Gia Long, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Khải Định – của một thời quá độ Việt – Pháp.
Một hệ thống chùa – đền – điện, chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén của sự giao thoa văn hóa
Việt – Chăm. Nguồn tài nguyên văn hóa “chỉ có ở Huế” tạo nên những sản phẩm du lịch đặc
sắc. Là cơ sở để chuyển hóa các loại hình, hình thức, phương thức, chiến lược kinh doanh du
lịch.
Ở góc độ sinh thái tự nhiên nhân văn, Huế - thật hiếm hoi, tựa vào núi, đứng trên sông

và hướng ra biển. Những khoảng đệm và gắn nối 3 thành tố giang sơn trời đất ấy chính là
rừng, đồi, cánh đồng, đầm vạc. Tất thảy trong một sự chuyển tiếp uyển chuyển, khơng có gì
là đột ngột hay biểu hiện của sự đứt gãy mà rất hài hòa ngự trị nơi chốn này. Các yếu tố tự
nhiên đó, được người Huế đưa vào bài tốn phong thủy: sơng Hương, cồn Giả Viên, Cồn
Hến, núi Ngự Bình là “thế đất thịnh vượng” cho kinh thành Huế. Cũng như về không gian
kiến trúc cảnh quan lăng vua Gia Long, vua Minh Mạng, và vua Tự Đức, ta nghĩ về một nghệ
thuật sắp đặt khơng gian, một văn hóa ứng xử thuần Huế và thuần Việt, đối với Trời Đất, biểu
hiện ở chỗ không chế ngự, không áp đặt mà sống chung, thân ái với Thiên nhiên. Con sông
Hương chảy giữa đô thị mà khơng hề bị đơ thị hóa như các nơi khác, với những kênh đào –
sông đào mà chiều dài chưa một ai đo, với những xóm làng khơng vẽ quy hoạch mà lồng
ghép khéo léo vào nền cảnh đất – người, nhuần nhị đến tự nhiên...
Chính sự đa dạng văn hóa nhân văn, tài nguyên tự nhiên nên sản phẩm du lịch là sự
hòa quyện đồng điệu giữa văn hóa của con người với thiên nhiên, tạo nên một khơng gian
vừa có tính chất “đơ thị văn hóa” vừa có “tính chất dân dã”. Khơng hề đơn điệu, nhàm chán
trong các sản phẩm du lịch của Huế. Rất dễ làm thõa mãn tâm hồn, trí tuệ và nhu cầu của các
chủ thể du lịch.
Kết luận
Huế là hình ảnh của một địa phương biết khai thác lợi thế văn hóa cho các mục tiêu


phát triển kinh tế, du lịch, hội nhập khu vực toàn cầu mà vẫn rất “riêng tư”. Làm được như
thế, tự bản thân Huế đã có một sức mạnh văn hóa với những lợi thế tạo nên sự khác biệt. Huế
là một địa phương hiếm hoi ở Việt Nam luôn biết làm mới mình mà vẫn giữ được “tính địa
phương” khi “hội nhập”. Huế đã và đang là vùng đất – chốn đất văn hiến, địa linh nhân kiệt,
đầy ắp di tích – di sản và những tinh hoa. Lợi thế đó, Huế trở thành một trung tâm du lịch và
đang hướng tới “đơ thị văn hóa, du lịch”. Câu hỏi là: Vì đâu Huế làm được thế? Có lẽ câu trả
lời phù hợp là Huế luôn phát triển trong sự tiếp nối bởi truyền thống lịch sử, văn hóa.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Văn Dung (2009), Xây dựng thương hiệu cho thành phố, Nxb Giao thơng
vân tải.

2. Hồng Văn Thành (2014) , Giáo trình Văn hóa Du lịch, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
3. Trần Thúy Anh (2011), Giáo trình Du lịch văn hóa, Nxb giáo dục Việt Nam, Hà
Nội.
4. Ngơ Đức Thịnh (2010), Văn hóa và văn hóa tộc người, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
5. Trần Quốc Vượng, Theo dòng lịch sử: Những vùng đất Thần, người và tâm thức
Việt.
6. Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam Tìm tịi và suy ngẫm.
7. Bùi Thị Hải Yến (2010), Quy hoạch du lịch, Nxb giáo dục, Hà Nội
8. />9. />10. />TĨM TẮT
Trong xu thế tồn cầu hóa - địa phương hóa du lịch, ở Việt Nam, Huế nổi lên là một
địa phương biết khai thác lợi thế văn hóa của mình cho chiến lược phát triển du lịch, đặc
biệt là du lịch văn hóa. Bài viết khẳng định sự hội nhập thành công của Huế trong lĩnh vực
du lịch là sự kế thừa, giao thoa và tiếp biến văn hóa. Bản lĩnh hội nhập của Huế được sản
sinh từ trong tiến trình lịch sử của mình.



×