Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆNNAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.84 KB, 35 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH



BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ
BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN
NAY
LỚP L19 --- NHÓM 11 --- HK212
NGÀY NỘP 19/2/2022

Giảng viên hướng dẫn: NGUYỄN HỮU KỶ TỴ
Sinh viên thực hiện
Đặng Phương Nam
Phan Hồng Thanh Ngân
Phan Thanh Ngân
Phan Tấn Nghĩa
Nguyễn Minh Bảo Ngọc

Mã số sinh viên
1911636
1911671
1914290
1914323
1914345

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022

Điểm số




TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHĨM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Môn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (MSMH: SP1039)
Nhóm/Lớp: L19 Tên nhóm: 11. HK 212.Năm học 2021-2022
Đề tài: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ

CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY
STT

Mã số SV

Họ

1

1911636

Đặng Phương

2

1911671

3

Tên


Nhiệm vụ được phân công

% Điểm BTL

Nam

2.2

20%

Phan Hồng Thanh

Ngân

Mở đầu, kết luận

20%

1914290

Phan Thanh

Ngân

1.1 và 1.2

20%

4


1914323

Phan Tấn

Nghĩa

2.1 và chỉnh sửa hoàn thiện

20%

5

1914345

Nguyễn Minh Bảo

Ngọc

2.3 và chỉnh sửa hồn thiện

20%

Điểm BTL

Họ và tên nhóm trưởng: Phan Thanh Ngân, Số ĐT: 0933403050, Email:
Nhận xét của GV: .......................................................................................................................................................................
GIẢNG VIÊN

NHÓM TRƯỞNG


(Ký và ghi rõ họ, tên)

(Ký và ghi rõ họ, tên)

Phan Thanh Ngân

Ký tên


MỤC LỤC
A.

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1

I.

Lý do chọn đề tài..................................................................................................1

II. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................4
B. PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................6
I. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ
BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY...6
1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách
lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng

6

1.1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế của Đảng


6

1.1.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế của Đảng

9

1.2 Biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của Đảng và Nhà
nước.

11

II. VẬN DỤNG TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC
HIỆN NAY.................................................................................................................. 15
2.1. Đánh giá thực tế bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước hiện nay

15

2.2. Quan điểm của các bên trong vấn đề tranh chấp biển, đảo

20

2.2.1. Quan điểm của Việt Nam

20

2.2.2 Quan điểm của Trung Quốc

22


2.2.3 Quan điểm của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

24

2.2.4 Quan điểm của một vài nước trên thế giới

24

2.3. Nhiệm vụ của sinh viên trong góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc

25

III.

KẾT LUẬN.....................................................................................................27

IV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................29



A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Việt Nam ta là đất nước duy nhất chỉ có một Đảng cầm quyền, đó là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tồn tại với thời gian khơng ngắn,
có thể coi là rất dài. Từ thuở sơ khai cho đến khi làm chủ vận mệnh của một quốc gia
tự do, độc lập, Đảng đã có những đường lối, chính sách đúng đắn trong cơng cuộc giải

phóng dân tộc qua các cuộc trường kỳ kháng chiến chống ngoại xâm.
Trải qua 92 năm kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã trải qua 13 kỳ Đại
hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi,
thành tựu và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ,
sâu sắc hơn vị trí, vai trị, nội dung, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội.
Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo trong thời đại thế giới biến
đổi khơng ngừng để thích ứng với những điều kiện mới. Cơng cuộc tồn cầu hóa đang
kéo các quốc gia trên thế giới lại gần nhau hơn, nhưng cùng với đó tính cạnh tranh
cũng cao hơn. Nếu vẫn tồn tại dưới hình thức truyền thống, Đảng sẽ gặp rất nhiều khó
khăn khi thực hiện vai trị của mình. Chúng ta cần phải thực hiện nhiều hơn nữa cải
cách hành chính để theo kịp với các cường quốc năm châu, mở rộng quan hệ ngoại
giao với các nước, hội nhập quốc tế để làm phát triển hơn đất nước mình. Mỗi cán bộ,
cơng chức, viên chức và người lao động tâm huyết với công việc cần nắm bắt được
mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình cơng tác trong từng thời kỳ lịch sử, cần
phải tìm được câu trả lời cho câu hỏi “Cơ quan, đơn vị mình phải làm gì trong tình
hình hiện nay?”, “Vị trí cơng tác của mình phải làm gì?”..., từ đó xác định rõ chức
trách, nhiệm vụ tại vị trí cơng tác của mình để có những tham mưu cụ thể đối với việc
thực hiện nhiệm vụ chung.

1


Trong bối cảnh nhiều thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp,
Đảng nhận thức được tác động của đại dịch Covid-19 sẽ cịn kéo dài. Do đó, vai trò
của đối ngoại càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát
triển đất nước.
Đảng khẳng định lợi ích quốc gia - dân tộc là trước hết và trên hết, thúc đẩy lợi

ích quốc gia - dân tộc phải "trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên
hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nhận thức vai trò và nhiệm vụ của đối ngoại, thời gian qua, Đảng ta đã có chủ
trương, đường lối nổi bật, lần đầu tiên Đảng xác định rõ vị trí, vai trị tiên phong của
đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, huy động các
nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước", từ
đó vận dụng sáng tạo tư tưởng giữ nước mang tính chủ động cao của dân tộc, đúc kết
thực tiễn phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm
quốc tế và phù hợp với xu thế hịa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Đối ngoại chỉ có thể thực hiện tốt vai trị tiên phong khi được đặt trong tổng thể
đối nội- đối ngoại, có được sự phối hợp chặt chẽ, đồn kết và đồng thuận của các cấp,
các ngành và toàn dân, trong đó điểm đồng ở đây là cùng nhau bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia-dân tộc. Có như vậy, mới phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc. Hiện tại, các trụ cột đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và
đối ngoại nhân dân, giữa các mối quan hệ với các đối tác, các lĩnh vực, nhất là đối
ngoại quốc phòng, an ninh, giữa song phương và đa phương… đang phối hợp cùng
nhau rất chặt chẽ, huy động và kết hợp hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn
lực trong nước để phục vụ tốt nhất phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Tính chất nền ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống, bản
sắc ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của
Đảng qua các thời kỳ và tinh hoa ngoại giao thời đại. Đảng cố gắng vận hành nền
2


ngoại giao trong khn khổ thể chế ngày càng hồn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần
nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Cùng với sự
phát triển của công nghệ trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0, Đảng đã và đang
thực hiện phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa để có đủ năng lực đổi

mới, sáng tạo và chủ động thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước
và thế giới.
Bên cạnh đó, đối ngoại phải đi cùng quốc phòng, an ninh giữ vững đường biên
giới hịa bình, hợp tác và phát triển, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ. Đảng ln tìm kiếm và phát huy điểm giống nhau về
lợi ích để thúc đẩy hợp tác, linh hoạt và sáng tạo trong xử lý các tranh chấp trên cơ sở
lợi ích quốc gia - dân tộc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là giải quyết các vấn đề trên
biển trên cơ sở luật pháp quốc tế. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách
nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; yếu tố quan trọng để đất nước phát triển
bền vững. Trong bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, để bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, vấn đề cần quan tâm hiện nay là tăng cường sức mạnh quốc gia,
xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân trên biển vững mạnh.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nước ta. Biển, đảo không chỉ chứa đựng tiềm năng
kinh tế to lớn, cửa ngõ mở rộng quan hệ giao thương với quốc tế mà cịn đóng vai trị
quan trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng đồng thời là địa bàn chiến lược trọng yếu
trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc không chỉ thể hiện tư duy của Đảng ta trong các nghị quyết
đại hội mà còn trở thành một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài
đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị.
Sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của
đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Trong suốt tiến trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói
chung, lãnh đạo sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay nói riêng,
Đảng ta luôn quan tâm đến việc phát huy lợi thế của đất nước về biển, kết hợp với phát

3


huy sức mạnh toàn dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam, coi đó là một

trong những động lực cơ bản cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Hiện nay mật độ dân cư trên biển, đảo và quần đảo thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội các vùng ven biển, trên biển và trên các đảo cịn chưa hồn thiện; khả năng bảo
vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia cịn nhiều hạn chế... Do đó, cần phải đầu tư một cách
thích đáng về mọi mặt, bảo đảm cho phát triển kinh tế và tăng cường khả năng bảo vệ
chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển. Ngoài ra, các thế lực thù địch vẫn không ngừng
tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định trên các vùng biển, đảo cũng đã và đang đặt ra những yêu cầu mới.
Để làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, Đảng và chính quyền các cấp,
cán bộ, đảng viên và các lực lượng làm nhiệm vụ cần có quyết tâm chính trị rất lớn,
các chun gia phải có sự sáng tạo khơng ngừng, nhân dân phải tích cực ủng hộ, hợp
tác với Đảng và Nhà nước. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới khẳng định uy tín, vị thế, năng lực, trình độ, bản lĩnh, trí tuệ
và trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và toàn thể dân tộc Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, nhóm chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo thực
hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc hiện nay” để nghiên cứu.
II.

Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương,

chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng và biện pháp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, cụ thể từ năm 2016 2021 như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng trong những năm 2016 2021; đánh giá các phương pháp thực hiện, cách thức hoạt động của Đảng theo những
mục tiêu đã đề ra về việc mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng.

4



Thứ hai, nghiên cứu biện pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc do
Đảng đề ra trong những năm vừa qua.
Thứ ba, đánh giá sự vận dụng các đường lối, chính sách đã đề ra của Đảng
trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong giai đoạn 2016 - 2021.
Thứ tư, đánh giá tình hình biển, đảo nước ta trong thời gian qua đáp ứng yêu
cầu xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ năm, nhìn rõ nhiệm vụ mỗi cá thể để góp phần hồn thành sứ mệnh bảo vệ
chủ quyền biển, đảo Tổ quốc của mình.

5


B. PHẦN NỘI DUNG
I. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ
BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY
1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng
1.1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo về mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế của Đảng
Mục tiêu chung
Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (01/2016), mục tiêu ưu tiên của đối
ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ
đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất
nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần
vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” 1. Sự
đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện ở việc xác định mục tiêu, nhiệm

vụ đối ngoại là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những vấn đề quan
trọng nhất “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa
đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững hịa bình, ổn định,
tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước” 2.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, H. 2016, tr.34-35.
2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, H, 2016, tr.153.
6


Đối với hội nhập quốc tế, trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII cũng đã nêu
rõ mục tiêu chung. Cụ thể, trong 5 năm tới, hội nhập quốc tế tập trung vào quá trình
triển khai các cam kết đã ký kết; hội nhập trong lĩnh vực chính trị tập trung vào việc
đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác chiến lược và các nước lớn có
vai trị quan trọng đối với an ninh và phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ đã xác lập
đi vào thực chất; hội nhập trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh tham gia các hoạt động
hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hịa bình của Liên hợp quốc, diễn tập
chung và các hoạt động khác; và hội nhập trong lĩnh vực văn hóa - xã hội tập trung
vào việc áp dụng và tham gia xây dựng các bộ tiêu chí phục vụ xây dựng nền kinh tế
trí thức, con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ về mở rộng quan hệ đối ngoại
Thứ nhất, đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương.
Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc
biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ
hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến
lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể.
Thứ hai, coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các
nước láng giềng; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN xây

dựng Cộng đồng đoàn kết, vững mạnh, giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong
cấu trúc an ninh khu vực.
Thứ ba, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối
tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác,
tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy.
Thứ tư, chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an
ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc.
Thứ năm, kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động
can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước.
7


Thứ sáu, tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an tồn hàng
hải, hàng khơng trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về
Luật Biển năm 1982.
Thứ bảy, củng cố đường biên giới hịa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải
quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng
giềng.
Thứ tám, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối
ngoại, không để bị động, bất ngờ.
Thứ chín, đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền đối ngoại, bảo hộ cơng dân, triển khai tồn diện và mạnh mẽ hơn cơng tác
người Việt Nam ở nước ngồi.
Tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ về hội nhập quốc tế
Thứ nhất, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế tồn diện, sâu
rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ
quyền quốc gia.
Thứ hai, gắn kết chặt chẽ q trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn

diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn
xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh
và khả năng thích ứng của đất nước.
Thứ ba, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hội nhập quốc tế trong các
lĩnh vực xã hội, môi trường, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, du
lịch và các lĩnh vực khác.
Thứ tư, tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các
chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ năm, chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt Nam
trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế,
thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết.
8


Thứ sáu, mở rộng quan hệ và đẩy mạnh hợp tác với các lực lượng chính trị, xã
hội và nhân dân các nước, phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát
triển và tiến bộ xã hội.
Thứ bảy, nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp,
đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ
động thích ứng trước chuyển biến của tình hình; tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ
giữa các kênh và các cơ quan đối ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế.
1.1.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội
nhập quốc tế của Đảng
Trong các văn kiện của đảng liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 khoá X (2- 2007) đã đề ra một số chủ trương, chính sách lớn
như:
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định bền vững:
Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, nước ta sẽ củng cố địa vị bình
đẳng với các thành viên khác khi tham gia vào việc hoạch định chính sách thương mại

tồn cầu, thiết lập trật tự kinh tế mới cơng bằng hơn; có điều kiện thuận lợi để đấu
tranh bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp Việt Nam trong các cuộc tranh chấp thương
mại với các nước khác, hạn chế những thiệt hại trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp: Chủ động
và tích cực xác định lộ trình hội nhập hợp lý, trong đó cần tận dụng các ưu điểm WTO
dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển; chủ động và tích cực nhưng phải
hội nhập từng bước, dần dần mở cửa thị trường theo một lộ trình hợp lý.
Bổ sung và hồn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các
nguyên tắc, quy định của WTO: Bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; đa
dạng hố các hình thức sở hữu, phát triển kinh tế nhiều thành phần; thúc đẩy sự hình
thành, phát triển và từng bước hồn thiện các loại thị trường; xây dựng sắc thuế công
bằng, thống nhất, đơn giản, thuận tiện cho mọi chủ thể doanh nghiệp.

9


Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà
nước: Kiên quyết loại bỏ nhanh các thủ tục hành chính khơng cịn phù hợp; đẩy mạnh
phân cấp gắn với tăng cường trách nhiệm kiểm tra, giám sát, thực hiện công khai,
minh bạch trong mọi chính sách, cơ chế quản lý.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội
nhập kinh tế quốc tế: Nâng cao năng lực điều hành của Chính phủ; tích cực thu hút đầu
tư nước ngồi để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, các doanh nghiệp điều
chỉnh quy mô và cơ cấu sản xuất trên cơ sở xác định đúng đắn chiến lược sản phẩm và
thị trường; điều chỉnh quy hoạch phát triển, nhanh chóng có biện pháp nâng cao sức
cạnh tranh của một số sản phẩm.
Giải quyết tốt các vấn đề văn hố, xã hội và mơi trường trong q trình hội
nhập: Bảo vệ và phát huy các giá trị văn hố dân tộc trong q trình hội nhập; xây
dựng cơ chế giám sát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ văn
hố khơng lành mạnh, gây phương hại đến sự phát triển đất nước, văn hoá và con

người Việt Nam; kết hợp hài hồ giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hố truyền
thống với tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hố tiên tiến trong q trình giao lưu với
nền văn hố bên ngồi.
Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội như giáo dục, bảo
hiểm y tế; đẩy mạnh cơng tác xố đói, giảm nghèo; có biện pháp cấm, hạn chế nhập
khẩu những mặt hàng có hại cho mơi trường; tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực
bảo vệ môi trường.
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập: Xây
dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; có các phương án
chống lại âm mưu "diễn biến hồ bình" của các thế lực thù địch.
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại: Tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ
giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân nhằm
tăng cường hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại song phương,
đa phương cần hướng mạnh vào việc phục vụ đắc lực nhiệm vụ mở rộng quan hệ kinh

10


tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Tích cực tham gia đấu tranh vì một hệ
thống quan hệ kinh tế quốc tế bình đẳng, cơng bằng, cùng có lợi.
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với
các hoạt động đối ngoại: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tập trung xây dựng cơ sở
đảng trong các doanh nghiệp và xây dựng giai cấp công nhân trong điều kiện mới; đẩy
mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, vì nhân dân, do
nhân dân trong cải cách hành chính.
1.2 Biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của Đảng và Nhà
nước.
Là quốc gia biển nên vấn đề an ninh biển có tầm quan trọng đặc biệt đối với
Việt Nam, tác động lớn đến phát triển kinh tế biển và bảo đảm quốc phịng, an ninh,

bảo vệ mơi trường hịa bình của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay tình hình tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ và các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: khủng bố, cướp biển,
buôn lậu, tranh chấp ngư trường, khai thác tài nguyên biển gây ô nhiễm mơi trường,…
diễn biến ngày càng phức tạp, khó dự báo.
Về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đơng, hiện có bốn vấn đề chính liên quan
đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam chưa được giải quyết: Chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường
Sa giữa năm nước sáu bên; phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên
hợp quốc về Luật biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Cùng với đó, những nhân tố có thể gây mất ổn định trên Biển Đơng vẫn
đang diễn ra gay gắt: xâm phạm chủ quyền, an ninh; nguy cơ xung đột vũ trang; tranh
chấp biển, đảo và thềm lục địa, v.v. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng
trời, vùng biển; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển...”. 1Quán triệt
tinh thần đó, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQGST, H. 2021,
tr. 157.

11


Thứ nhất, xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển tồn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, sớm đưa nước ta trở thành quốc gia trong khu vực mạnh về
kinh tế biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế. Nghị quyết số
36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia
mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát

triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. 1Để kinh tế phát triển tương xứng với tiềm năng
của biển, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo cần phải tổ chức lại hoạt động khai thác hải sản theo hướng
giảm khai thác gần bờ, đẩy mạnh khai thác xa bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng,
khai thác hải sản bền vững, tăng cường bảo vệ, tái sinh nguồn lợi hải sản và môi
trường biển, nghiêm cấm các hoạt động khai thác mang tính hủy diệt.
Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, ưu tiên phát
triển các ngành công nghiệp năng lượng, cơng nghiệp hàng hải, đóng tàu, ni trồng,
khai thác và chế biến hải sản chất lượng cao. Đẩy nhanh tốc độ đơ thị hóa, xây dựng
các trung tâm kinh tế ven biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng
các ngành dịch vụ, xuất khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dầu khí, vận tải biển, v.v. Phát
triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dị, khai thác, ni trồng
thủy sản gắn với bảo vệ, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động
hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Xây dựng các
chiến lược, quy hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên biển, đảo;
tăng cường đầu tư các nguồn lực và hoạch định cơ chế chính sách trong phịng, chống
thiên tai, thảm họa, bảo vệ môi trường biển.
Thứ 2, xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo vững mạnh về mọi mặt.
Việc tập trung nỗ lực xây dựng lực lượng quản lý biển, đảo và các hoạt động kinh tế
biển, nhất là lực lượng Hải quân, Cảnh sát biển, Biên phòng, Dân quân tự vệ biển và
lực lượng Kiểm ngư vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao là yêu cầu
1 Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 Về Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, H. 2018, tr. 02.

12


bức thiết hiện nay. Trong đó, Hải quân nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên trách

hoạt động trên biển, giữ vai trò quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ các vùng
biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư xây dựng theo hướng hiện đại hóa và
có chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đặc biệt là lực lượng thường xuyên tuần tra trên biển
và chốt giữ các đảo xa bờ. Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách quản lý,
duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được tiếp tục củng cố, hoàn thiện về tổ chức,
biên chế, tăng cường trang bị hiện đại, bảo đảm đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trước mắt
và lâu dài. Bộ đội Biên phòng cần được đầu tư đủ trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện
cơ động, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự, cứu hộ, cứu nạn, chống
buôn lậu và các tệ nạn xã hội trên các vùng biển. Dân quân tự vệ biển được xây dựng
theo phương châm vững mạnh, rộng khắp, ở đâu có tàu, thuyền, ngư dân hoạt động và
dân cư sinh sống trên đảo thì ở đó có dân quân tự vệ biển; lấy doanh nghiệp nhà nước,
hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với đặc điểm của từng địa phương,
bảo đảm thành ba tuyến: ven bờ, lộng, khơi; coi trọng lực lượng hoạt động trên biển.
Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ,
nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tàu thuyền nước ngoài; hỗ trợ ngư
dân, đảm bảo an ninh trật tự và có vai trị quan trọng trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền
trên các vùng biển của Tổ quốc.
Thứ ba, kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện pháp
hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Là thành viên của Liên hợp quốc, của UNCLOS
cũng như tuyên bố của các bên về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam luôn
tuân thủ các quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề
nảy sinh bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sở bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau; thơng
qua đàm phán, thương lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích
chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, vì hịa bình, ổn định khu vực và quốc tế. Theo tinh thần đó, những vấn đề cịn
đang bất đồng, tranh chấp song phương thì giải quyết song phương; những vấn đề
tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì giải quyết đa phương và phải hết sức cơng khai,
minh bạch giữa các bên có liên quan. Trong khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở
Biển Đơng bằng biện pháp hịa bình, cần kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ những
lợi ích chính đáng của ta trên biển với quyết tâm “Việt Nam quyết không để một tấc

13


đất, tấc biển nào bị xâm phạm”; kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu dài và yêu cầu các
bên liên quan kiềm chế, khơng có hoạt động làm phức tạp thêm tình hình, khơng sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết bằng biện pháp
hịa bình, trên cơ sở các ngun tắc của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 05 nguyên tắc
chung sống hịa bình, tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương về an
ninh biển, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh
DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đơng thực sự là vùng biển
hịa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển khơng phải là
tranh chấp, hồn tồn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt
Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của UNCLOS để
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng.
Thứ tư, thực hiện tốt cơng tác đối ngoại quốc phịng. Đối ngoại quốc phòng là
vấn đề quan trọng diễn ra chủ yếu trong thời bình và cả khi có tình huống chiến tranh,
thực hiện tốt vấn đề này góp phần vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ,
hịa bình, ổn định trên Biển Đơng, vừa duy trì sự ổn định chính trị - xã hội trong nước
và mơi trường quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Thực hiện tốt cơng tác đối ngoại
quốc phịng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, điều quan trọng trước hết là hợp tác chặt
chẽ trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt là giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Các ngành
chức năng, trọng tâm là Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an và Bộ Ngoại giao cần xây dựng,
hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm là công tác nghiên cứu cơ bản, phân tích dự
báo chiến lược về tình hình thế giới, khu vực, chiều hướng diễn biến của mối quan hệ
quốc tế, về đối tác, đối tượng của cách mạng. Từ đó, tham mưu cho Đảng, Nhà nước
hoạch định đường lối chiến lược và các đối sách xử lý thắng lợi các tình huống quốc
phịng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng với các
nước, nhất là các nước trong khu vực và các nước lớn trên thế giới để tăng sự hiểu biết
và tin cậy lẫn nhau. Hải quân, Cảnh sát biển cần tăng cường giao lưu với các đối tác,
tổ chức các hoạt động phối hợp tuần tra chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên biển,

góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên
biển.

14


Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Để thực hiện thành công nội dung này, các đơn vị Hải quân, Cảnh sát biển, Bộ đội biên
phịng đóng qn trên các địa bàn ven biển và hải đảo phải phối hợp chặt chẽ với các
địa phương, cơ quan tuyên truyền xây dựng kế hoạch, tổ chức bồi dưỡng các báo cáo
viên, biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân,
đặc biệt là cư dân sống ở các vùng ven biển, trên đảo, ngư dân làm ăn trên biển, đồng
bào sinh sống ở nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, công tác tuyên truyền
về chủ quyền biển, đảo cần có sự tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa
phương và các cơ quan truyền thông dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của các
cấp trung ương. Đặc biệt, thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác là cần thiết để mọi
cơng dân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và nhân dân trên thế giới
hiểu rõ cơ sở pháp lý, bằng chứng lịch sử và thực tế quyền sở hữu của Việt Nam trên
các vùng biển, đảo của Tổ quốc; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng và Nhà nước
về giải quyết vấn đề chủ quyền trên Biển Đơng từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí quyết
tâm, sự đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được sự đồng tình, ủng hộ
của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và các nền kinh tế biển
khác.
Cùng với việc tuyên truyền về biển đảo, cần kết hợp với phổ biến, giáo dục
pháp luật, cho ngư dân hiểu rõ các quy định của pháp luật về biển Việt Nam và luật
pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, giúp
ngư dân không chỉ tuân thủ mà còn kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật
của tàu, thuyền nước ngoài trong vùng biển, biên giới, đất liền, biển, đảo Việt Nam đối
với các chương trình giáo dục phổ thơng và sinh viên đại học; rộng rãi trong cộng
đồng người Việt Nam và quốc tế về chủ quyền lãnh thổ trên biển của Việt Nam.


15


II. VẬN DỤNG TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC
HIỆN NAY.
2.1. Đánh giá thực tế bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước hiện nay
Trong bối cảnh mới có nhiều thời cơ, thách thức, khó khăn đan xen, chúng ta
cần nắm bắt cơ hội, đề ra chiến lược dài hơi để thực hiện thành công nhiệm vụ bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo.
Thế giới đang trải qua thời kỳ thay đổi với một trật tự thế giới mới đã và đang
hình thành, chi phối tồn bộ sự vận động của đời sống chính trị tồn cầu. Đặc điểm nổi
bật ở trật tự mới là Mỹ với tư cách siêu cường và Trung Quốc với tư cách cường quốc
mới nổi đều mong muốn giành nhiều ảnh hưởng ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương.
Khu vực biển Đơng được Trung Quốc xác định có vị trí địa chính trị đặc biệt
quan trọng để thực hiện tham vọng bá quyền. Đó là tham vọng trở thành cường quốc
biển, gia tăng ảnh hưởng, tránh sự bao vây, cô lập từ Mỹ và đồng minh. Thực tiễn cho
thấy chiếm giữ trái phép, quân sự hóa các đảo và bãi đá ngầm ở biển Đông là bước đầu
tiên trong chiến lược "Ba chuỗi đảo" của cố Đô đốc Lưu Hoa Thanh, Tư lệnh Hải quân
Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, từng vạch ra cho các nhà lãnh đạo Trung
Quốc từ hơn 30 năm về trước. Mục tiêu chính là chiếm giữ trái phép, xác lập chủ
quyền các đảo, bãi đá ngầm ở 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa vốn thuộc chủ
quyền của Việt Nam; từ đó tạo sức mạnh, gia tăng ảnh hưởng ra chuỗi đảo thứ hai, thứ
ba ở Thái Bình Dương. Đó là lý do mà hành động của Trung Quốc ngày càng hung
hăng hơn ở biển Đông. Ngày 22-1-2021, Ủy ban Thường vụ Đại hội Nhân dân toàn
quốc - cơ quan quyền thường trực, quyền lực cao nhất của Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật Hải cảnh. Nội dung chính của đạo luật phi lý này là việc Trung Quốc
tự cho phép lực lượng hải cảnh dùng vũ lực đe dọa tàu nước ngoài. Sự kiện này đẩy
tình trạng tranh chấp ở biển Đơng sang một chương mới. Trung Quốc công khai phát
đi một tín hiệu rất hiếu chiến, buộc các nước ở khu vực Đơng Nam Á phải có chiến


16


lược mới để giải quyết tranh chấp. Điều này có nguy cơ làm phức tạp thêm tình hình,
gây bất ổn khu vực.
Vấn đề đặt ra là Trung Quốc đang bất chấp vi phạm những thỏa ước, luật pháp
quốc tế trong việc giải quyết những bất ổn, xung đột, mâu thuẫn giữa các quốc gia.
Trong khi đó, các quốc gia Đơng Nam Á lại có quan hệ rất thân thiết về kinh tế, lệ
thuộc nhiều vào thị trường tiêu thụ Trung Quốc.
Do đó, trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, việc đề ra chiến
lược lâu dài, phù hợp, khéo léo để giải quyết vấn đề về biển đảo là yêu cầu cấp thiết.
Chúng ta không thể đấu tranh bảo vệ chủ quyền, giải quyết tranh chấp bằng con đường
qn sự. Thay vào đó, theo tơi, chúng ta cần xác lập chiến lược lâu dài dựa trên 3 trụ
cột sau đây:
Thứ nhất, về chính trị: Năm 2015, Tịa Trọng tài Thường trực (PCA) đã phán
quyết Trung Quốc không có các quyền lực với cái gọi là "đường chín đoạn". Thơng
điệp của phiên tịa đã cho cả thế giới thấy sự phi lý và bất chính của Trung Quốc trong
cái gọi là chủ quyền Đông Sa, Tây Sa và Nam Sa ở khu vực biển Đông.
Việt Nam và các quốc gia có tranh chấp tiếp tục thực hiện chính sách ngoại giao
khôn khéo, tạo sự đồng thuận cao nhất giữa các quốc gia có tranh chấp, tập hợp một
sức mạnh, đưa vấn đề biển Đông ra nhiều diễn đàn song phương và đa phương trên thế
giới, đặc biệt là trong các phiên họp của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Thứ hai, về kinh tế: Việt Nam tích cực cải cách kinh tế, thay đổi mơ hình phát
triển kinh tế cho phù hợp với xu hướng phát triển của tình hình kinh tế, chính trị thế
giới. Trong đó, nổi bật là chuyển trọng tâm từ chiến lược lấy xuất khẩu là động lực
tăng trưởng sang chiến lược tập trung vào tiêu thụ từ thị trường trong nước, tránh lệ
thuộc vào thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường Trung Quốc.
Một quốc gia có sức mạnh kinh tế sẽ là nền tảng để thúc đẩy, tăng cường sức
mạnh quân sự trong việc giữ và giành lại chủ quyền biển đảo. Không những vậy, một
17



mơ hình kinh tế khơng lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc sẽ tránh cho Việt Nam bị
ảnh hưởng từ yếu tố kinh tế thành quyết sách chính trị.
Thứ ba, về ngoại giao: Trong tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các
quốc gia Đông Nam Á đang bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Hiện tại chỉ có 4/10 quốc gia
ASEAN có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc nhưng khi đàm phán thì tất cả 10
nước đều có tiếng nói về vấn đề tranh chấp.
Đây là sự bất cập vì rất nhiều nước khơng có tranh chấp nhưng lại có quan hệ
kinh tế rất thân thiết, có phần lệ thuộc Bắc Kinh. Vì vậy, nhiều quốc gia sẽ có cái nhìn
và quyết sách chủ quan vì lợi ích đất nước, bất chấp lợi ích chung của tồn khối
ASEAN. Thực tế đặt ra cho 4 nước hiện có tranh chấp là cần thay đổi cơ chế tiếp cận,
đề ra chiến lược chung, tiếng nói chung và hành động chung về kinh tế, ngoại giao và
hợp tác quốc phòng, giữ gìn an ninh hàng hải.
Những năm qua, trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước, quân và dân ta triển khai tích cực các
hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia trên biển. Chúng ta đã chủ động, kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển,
đảo, vùng trời và giữ được hịa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của chúng ta trên các
vùng biển, đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân,
"thế trận lịng dân" trên biển, đảo không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực
lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững
mạnh hơn, trong đó Hải quân Nhân dân Việt Nam được Đảng, nhà nước ưu tiên đầu tư
tiến thẳng lên hiện đại, có sự trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc, đủ sức làm nòng cốt
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bộ đội Hải quân cùng các lực lượng thực thi
pháp luật khác trên biển (Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phịng, Kiểm ngư…) khơng quản
ngại khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, kiên cường bám trụ nơi "đầu sóng ngọn gió". Đặc
biệt, mỗi khi phải đối mặt với tình huống phức tạp, căng thẳng, các lực lượng trên biển


18


ln nêu cao ý chí quyết tâm "cịn người, cịn biển, đảo", khơn khéo, kiên quyết, kiên
trì bảo vệ vững chắc chủ quyền.
Tuy thế, bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
Tổ quốc hiện nay vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức. Tình hình quốc tế,
khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những nhân tố mới xuất hiện tác
động trực tiếp đến tình hình biển Đơng. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và
tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt,
tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Đặc biệt là thời gian gần đây, Trung Quốc liên
tục có các hoạt động phi pháp trên biển Đông, xâm phạm chủ quyền Việt Nam đối với
2 quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.
Trong tình hình đó, chúng ta cần thống nhất phương châm hành động "dĩ bất
biến ứng vạn biến", tiếp tục "kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược"
trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các biện pháp bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền,
quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo phải được triển khai mạnh mẽ, kiên
quyết song cũng phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh,
thời điểm cụ thể; lấy bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc và giữ
vững hịa bình, ổn định để đất nước phát triển làm mục tiêu tối thượng.
Sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sức mạnh tổng hợp quốc gia, bao gồm
và có sự kết hợp chặt chẽ trên tất cả các mặt trận, các lĩnh vực hoạt động: quốc phịng,
an ninh, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý... Trong đó, sức mạnh quốc phịng, an
ninh giữ vai trị đặc biệt quan trọng.
Do vậy, phải xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trên biển
vững chắc, thế bố trí chiến lược các lực lượng có chiều sâu, liên hoàn bờ - biển - đảo,
sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi có xung đột. Song song
đó, xây dựng các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo, dự bị động viên, dân quân, tự vệ
biển mạnh, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, trong đó Hải quân là lực


19


lượng nịng cốt. Chỉ có trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp và tập trung của
toàn Đảng, tồn dân, tồn qn, chúng ta mới có thể bảo đảm được khả năng bảo vệ
chủ quyền, duy trì hịa bình, ổn định lâu dài trên biển. Thực tiễn cho thấy muốn bảo vệ
chủ quyền biển, đảo, chúng ta phải phát huy tinh thần tự lực tự cường và phải biết kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhân dân ta từ lâu đã đúc kết: "trong ấm, ngồi êm". Đây khơng chỉ là bài học
sâu sắc về đối nhân, xử thế trong mỗi gia đình mà còn cả quốc gia. Lịch sử dân tộc đã
chứng minh khi nội bộ đồn kết, lịng dân hịa thuận thì biên cương, bờ cõi yên ổn.
Nhưng khi trên dưới bất hòa, lòng dân ly tán, ắt ngoại bang sẽ nhòm ngó, xâm lăng.
Suy ra, trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo, "biển n" thì "bờ ấm", có bảo vệ được bình
yên biển, đảo thì trong nước mới ổn định, phát triển. Ngược lại, "trong bờ có ấm, ngồi
biển mới n", đất nước có ổn định, phát triển mới tạo ra thế và lực để bảo vệ biển,
đảo. Vậy nên, cần phải tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý
thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biển,
đảo. Củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong hệ thống chính trị và
nhân dân về các chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước liên quan đến phát triển
kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Khi "ý Đảng" đã hợp với "lòng dân" sẽ tạo sức
mạnh vô địch, đập tan những mưu đồ của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển,
đảo chống phá nước ta; đồng thời tạo ổn định chính trị trong nước để phát triển kinh tế
- xã hội.
Và khi đó sẽ khơi dậy được lịng tự hào, tự tơn, truyền thống, ý chí kiên cường,
bất khuất của dân tộc, hình thành mặt trận chính trị rộng lớn của nhân dân cả nước
hướng về biển, đảo quê hương, chung sức đồng lòng bảo vệ biển, đảo Tổ quốc.

20



2.2. Quan điểm của các bên trong vấn đề tranh chấp biển, đảo
2.2.1. Quan điểm của Việt Nam
Từ lâu nhân dân Việt Nam đã khẳng định biển, đảo là một phần máu thịt của đất
nước, là bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là ngư trường truyền thống, cửa ngõ
giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ
vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân
Việt Nam đối với lịch sử ông cha và tương lai con cháu, là nhân tố trọng yếu bảo đảm
cho sự phát triển bền vững. Tại nghị quyết Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng chỉ
rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…”1 . Từ đó, Đảng và Nhà
nước ta xác định rõ: phải giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán; giữ
gìn quan hệ hịa bình, khơng để xảy ra xung đột và bảo đảm cho phát triển kinh tế
biển.
Trên các cơ sở lịch sử và pháp lý hiện có, Việt Nam khẳng định lập trường rõ
ràng và nhất quán đối với biển Đơng, cụ thể là hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.
Đó là quyền được khai thác các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền
tài phán, thềm lục địa theo đúng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS)
năm 1982. Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết các tranh chấp biển Đơng bằng
biện pháp hịa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong quá trình tìm kiếm được tiếng
nói chung, các bên liên quan cần kiềm chế cùng nỗ lực duy trì ổn định, không sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến chương Liên hợp quốc
và các chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Bao gồm thực hiện đầy đủ Tuyên bố ứng xử
của các bên tại Biển Đông (DOC-2002) và Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về vấn đề
Biển Đông (2012) và sớm xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
Hiện nay tranh chấp ở biển Đơng hết sức phức tạp: ngồi sự phổ biến rộng rãi
của tranh chấp về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam với Trung Quốc,
cịn có tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines, Indonesia, Malaysia, thậm chí là
tranh chấp giữa các nước nội bộ khối ASEAN. Các sự tranh chấp này ít nhiều cũng


21


×