Tải bản đầy đủ (.docx) (132 trang)

ĐỀ TÀI ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.16 KB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA KHOA HỌC ỨNG DỤNG


BÀI TẬP LỚN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Học kỳ: 2/2021 - 2022
ĐỀ TÀI:
ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ
BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

Lớp: A01 - Nhóm: 11
MSSV

1914178
1911619
1914200
1910357
1911635

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022

MỤC LỤC


2


PHẦN MỞ ĐẦU


3


Hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại mới đã được Đảng, Nhà nước xác
định là định hướng chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn lại
những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều biến
động, chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Trước các sóng gió,
Ðảng ta đã đánh giá lại cục diện thế giới để xác định đường lối, chính sách đối ngoại
trong tình hình mới.1 Đối ngoại và hội nhập quốc tế từ lâu đã mang lại những đóng góp
khơng hề nhỏ đối với sự phát triển kinh tế và xã hội. Hoạt động đối ngoại góp phần tạo
dựng và duy trì vững chắc mơi trường hồ bình, ổn định, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Đối ngoại đa phương và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng
được đẩy mạnh, thiết thực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vai trò, tiềm
lực, vị thế và uy tín của Việt Nam, góp phần thu hút nguồn lực to lớn từ bên ngoài để
phát triển đất nước2. Vì thế đây được coi là nhiệm vụ quan trọng cần được xác định
chính xác mục tiêu và chủ trương, nhờ vận dụng đúng đắn chủ nghĩa khoa học xã hội
và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình
mạnh mẽ đón nhận những cơ hội và thách thức lớn của quá trình hội nhập, để đáp ứng
được những điều đó cần có sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước với những
chính sách lớn và đường lối phù hợp với tình hình chính trị - kinh tế thế giới, nhằm mở
rộng mối quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.

1 Thúy Hồng (17/12/2021), Thành tựu đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và xây dựng đất nước. Truy cập
từ:
/>
2

Đối ngoại cần tiếp tục đổi mới tư duy và phương thức tổ chức hoạt động (16/12/2021). Truy cập từ:
/>
4



Vấn đề về an ninh và trật tự khu vực nói chung và chủ quyền Tổ quốc nói riêng
ln là đề tài cần được ưu tiên và chú trọng trong lĩnh vực ngoại giao. Trong số đó bao
gồm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã
dành rất nhiều sự quan tâm và tình cảm cho biển đảo của Tổ quốc, Bác từng nói:
“Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà khơng giữ cửa có được khơng?”, đồng
thời Bác cũng đã căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có
trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lời nói của Bác đã
khẳng định giá trị và ý nghĩa to lớn của biển đảo đối với Việt Nam, và đây cũng là lời
nhắc nhở cho nhiệm vụ bảo vệ biển đảo thiêng liêng của toàn dân tộc.

5


Tình hình biển đảo của nước ta là chủ đề nóng và nhạy cảm trong suốt q trình
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là nhiệm vụ vô cùng cấp thiết của Đảng và Nhà
nước, đồng thời là nhiệm vụ chung của nhân dân Việt Nam. Chúng ta cần phải có
những đánh giá thực tế và đúng đắn về tình hình biển đảo, cũng như cần làm rõ quan
điểm của các bên trong vấn đề tranh chấp biển đảo. Qua đó có được cái nhìn khái qt
và thơng tin chi tiết về tình trạng biển đảo, tạo nền tảng để đưa ra đối sách và hành
động hợp lí. Đây là trách nhiệm to lớn chung của mọi tầng lớp nhân dân nói chung và
của sinh viên nói riêng. Và trong nhiệm vụ này, sinh viên là lực lượng năng động và
nắm giữ vai trị quan trọng. Những đóng góp của sinh viên là vô cùng cần thiết trong
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước.

6


Qua những gì đã nêu trên nhóm chúng tơi lựa chọn đề tài “Đảng lãnh đạo thực

hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
hiện nay” để tìm hiểu và làm rõ vai trò của Đảng trong các hoạt động đối ngoại, hội
nhập quốc tế. Đồng thời góp phần nâng cao nhận thức trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn
chủ quyền biển, đảo của dân tộc.

7


PHẦN NỘI DUNG

8


I. Đảng lãnh đạo thực hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện pháp bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay

9


Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời
phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hịa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc,
đường lối đối ngoại của Đảng luôn được phát triển và hoàn thiện qua từng giai đoạn
cách mạng. Trên cơ sở kế thừa đường lối đối ngoại ở các kỳ đại hội Đảng trong thời kỳ
đổi mới, hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thắng lợi trong công tác đối ngoại. Trước
tình hình khu vực và thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cơng tác đối
ngoại cần kiên trì nắm vững nhiệm vụ, mục tiêu, chủ trương nhằm giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

10



1.1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới

11


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì
Đảng khơng có lợi ích gì khác" 1, Đảng ln nhận thức sâu sắc lợi ích quốc gia - dân
tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX (năm 2003)
đã lần đầu tiên nêu rõ những thành tố cơ bản của lợi ích quốc gia - dân tộc. Đến Đại
hội XI (năm 2011), Đảng khẳng định rằng lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cao
nhất của đối ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc phải
thống nhất với nhau. Đại hội XIII khẳng định "bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân
tộc", chỉ ra nguyên tắc chung là phải luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới
mức cao nhất có thể, nhấn mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc phải "trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới. Bên cạnh đó, Đại hội XIII bổ sung bảo đảm an ninh con
người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xã hội trật tự, kỷ cương cũng là những lợi ích
quan trọng của quốc gia - dân tộc. Các thành tố này có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ và
thống nhất với nhau, không thể coi nhẹ thành tố nào, đồng thời còn là căn cứ quan
trọng nhất để xác định đối tác - đối tượng, hợp tác - đấu tranh trong đối ngoại, là "bất
biến" để ứng phó với tình hình diễn biến nhanh, phức tạp.

1 Hồ Chí Minh tồn tập, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, 2011, Tập 5, tr. 290.

12



Ở thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ giữ vững mơi trường hịa
bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và bảo vệ
Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này ngày càng được nhận thức sâu sắc
hơn qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ Chính trị khóa VI (năm 1988)
khởi đầu quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại, đưa ra nhiệm vụ tranh thủ
ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa phát triển đất nước. Trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 nêu rõ mục tiêu chính sách đối
ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi
lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

13


Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung,
phát triển năm 2011 cụ thể hóa nhiệm vụ đối ngoại rằng: “Thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế đất nước; vì lợi
ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự
nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình
đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng
sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục
tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và
những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hịa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác
giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng các nước
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực
hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển phồn vinh” 1. Cương lĩnh năm 2011 của Đảng

đã xác định cơ bản, toàn diện nhiệm vụ đối ngoại từ nguyên tắc, mục tiêu, phương
châm và định hướng lớn cũng như những nội dung cụ thể. Đó là những vấn đề cốt yếu
để Đảng tiếp tục đổi mới tư duy, phát triển nhận thức và sáng tạo trong chỉ đạo thực
tiễn q trình triển khai nhiệm vụ, cơng tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

1 Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2011, tr. 83-84.

14


Đảng ngày càng nhận thức rõ và đầy đủ hơn về tính chất thời đại, thế giới và
khu vực, làm cơ sở quan trọng xác định nhiệm vụ đối ngoại. Đảng khẳng định thời đại
hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Là thời đại lịch sử lâu dài, phải trải qua nhiều thời kỳ, giai đoạn với những
tính chất và nội dung, các xu hướng, mâu thuẫn, cũng như những vấn đề chính trị,
quân sự, kinh tế, xã hội không giống nhau. Trên cơ sở kiên định và nhất quán nhận
định về thời đại với quá trình lịch sử lâu dài, Đảng đã nêu bật tính chất của giai đoạn
hiện nay của thời đại, khẳng định tình hình thế giới tuy có những diễn biến phức tạp,
các nước xã hội chủ nghĩa gặp nhiều khó khăn nhưng sẽ đứng vững và phát triển. Theo
từng mốc thời gian, Đảng nhấn mạnh những đặc điểm nổi bật của thế giới cũng như
khu vực về chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội; về những vấn đề tồn cầu, những xu
hướng vận động của thế giới, về sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, về tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, về hịa bình, về xu hướng vừa hợp tác, vừa
đấu tranh... Trong bối cảnh nhiều thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức
tạp, Đảng nhận định tác động của đại dịch Covid-19 sẽ còn kéo dài, làm thay đổi trật
tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cũng như cách thức hoạt động kinh
tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới. Trên cơ sở đánh giá Cách mạng công nghiệp
lần thứ 4, đã đưa việc tranh thủ thành tựu của cuộc cách mạng này vào nội hàm quan
điểm phát triển đất nước, trên cơ sở đó xác định rõ “đẩy mạnh cơng nghiệp hoá, hiện

đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” là một
định hướng lớn trong chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030. Bên cạnh tiếp tục
nhận định thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen nhau, Đại hội XIII nêu rõ
tình hình thế giới "đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn" đối
với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi tiếp tục đổi mới tư duy, dự báo đúng tình
hình, chủ động trước mọi tình huống. Do đó, vai trò của đối ngoại càng quan trọng,
nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa,
tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước. Những nhận
định nhạy bén và xác đáng đó là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng xác định nhiệm vụ
đối ngoại cụ thể.

15


Trước tiên, Đảng xác định ngày càng cụ thể những nội dung của nhiệm vụ đối
ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi
trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế của đất
nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ trên thế giới”1. Quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng là triển khai thực
hiện nhiệm vụ đối ngoại để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đối ngoại
để phục vụ đối nội. Mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm thúc đẩy các quan hệ kinh tế,
tăng cường hợp tác kinh tế đối ngoại để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định rõ mục tiêu cao nhất khi thực hiện
nhiệm vụ đối ngoại là lợi ích quốc gia - dân tộc, mục tiêu phát triển được đặt lên hàng
đầu; vai trò của nhiệm vụ đối ngoại với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc được đặc biệt coi
trọng. Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại bao
gồm ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước, văn kiện Đại hội xác định “Trên
cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát

triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước
và góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới”2. Bên cạnh tiếp tục nhận định thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen
nhau, Đại hội XIII nêu rõ tình hình thế giới "đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới
nặng nề, phức tạp hơn" đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ tư duy, dự báo đúng tình hình, chủ động trước mọi tình huống. Do đó, vai trị
của đối ngoại càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát
triển đất nước.

1 Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 236.
2 Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội, 2016, tr. 153.

16


1.1.2 Tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ
đối ngoại của Đảng

17


Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã hình thành hệ thống quan điểm,
phương châm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới, đó là
nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển. Từ chủ trương “muốn là bạn” đến “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin
cậy”, “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”,
Đảng từng bước đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ ngoại giao quốc tế. Nắm vững

hai mặt đối tác - đối tượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, kiên định nguyên tắc, mục tiêu
chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Cơ
chế thực hiện đối ngoại là phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa đối ngoại đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản
lý tập trung của Nhà nước. Đan xen lợi ích với các đối tác giúp cho việc tăng cường
độc lập, tự chủ thông qua sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta và các nước. Về
mặt kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác nhất định. Về chính trị, đa
dạng hóa và đa phương hóa tránh bị lôi kéo, ép buộc trong quan hệ với các nước khác.
Chủ trương mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội.

18


Đổi mới nhận thức một cách rõ ràng, chuyển cách nhìn biện chứng và thực tế,
từ tư duy bạn - thù sang tư duy đối tác và đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân
tộc trong từng hoàn cảnh cụ thể thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa đối tượng, đối
tác. Xác định lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế; đồng thời, đấu tranh
với đối tượng, với mặt đối tượng. Phương châm “đối tác - đối tượng” thể hiện tư duy
mềm dẻo là cơ sở để xử lý một cách hiệu quả các quan hệ lợi ích đa chiều, phức tạp
hiện nay. Khi đã là bạn, là đối tác tin cậy với các nước, để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân
tộc, cần nhận thức rõ trong đối tác có đối tượng và trong đối tượng có đối tác. Phương
châm này giúp ta tận dụng cơ hội hợp tác; đồng thời, thấy rõ hơn sự khác biệt về lợi
ích để tìm các giải pháp đưa quan hệ phát triển, không bỏ lỡ cơ hội hợp tác nhưng
cũng không lơ là mất cảnh giác. Đây cũng là một định hướng quan trọng để nhiệm vụ
đối ngoại gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

19



Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về thời đại và tình hình thế giới, khu vực, Đảng
xác định phương châm và định hướng cho thực hiện nhiệm vụ đối ngoại là hợp tác và
đấu tranh. Dòng chủ lưu trong giai đoạn hiện nay của thời đại là hịa bình, hợp tác và
phát triển. Trong khi nhận rõ hợp tác và phát triển là xu thế, nhưng đồng thời cũng
không mơ hồ chỉ thấy hợp tác một chiều. Hợp tác phải đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh
để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia; đồng thời, đấu tranh, cạnh tranh
để hợp tác, không dẫn tới đối đầu.

20


Trên cơ sở mục tiêu, nhiệm vụ, nguyên tắc và phương châm đặt ra, Đại hội XI
đã đề ra những định hướng lớn cho cơng tác đối ngoại. Trong đó, định hướng tổng thể,
bao trùm là nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu. Cụ thể, về quan hệ song phương, tiếp tục phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, Việt Nam sẽ ưu tiên phát triển quan hệ
hợp tác và hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng có chung biên giới, đồng
thời nỗ lực làm sâu sắc hơn nữa quan hệ với các đối tác chủ chốt. Là thành viên
ASEAN, Việt Nam sẽ chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, duy trì và củng cố
vai trị quan trọng của ASEAN trong các khn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương. Về ngoại giao đa phương, với phương châm là thành viên có trách nhiệm
của cộng đồng quốc tế, Việt Nam sẽ mở rộng tham gia và đóng góp ngày càng tích
cực, chủ động, trách nhiệm vào các cơ chế, tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và
toàn cầu, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Việt Nam sẽ tích cực hợp tác với các nước, các tổ
chức quốc tế để đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là vấn đề
biến đổi khí hậu. Về biên giới lãnh thổ, thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về
biên giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm
tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hồ bình, hữu nghị, hợp tác

cùng phát triển. Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại đảng với các đảng
cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các đảng cầm quyền và các đảng khác, tiếp tục coi
trọng và nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao nhân dân.1

1 Sở ngoại vụ tỉnh Thừa Thiên Huế (23/02/2012), Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, truy
cập từ: />
21


Kiên quyết, kiên trì là một trong những phương châm, định hướng quan trọng
mà Đảng ta lần đầu tiên chỉ rõ trong Đại hội XII của Đảng, đó là: “Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa” 1. Lịch sử cho
thấy, giữa các quốc gia láng giềng thường có những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích
hoặc tranh chấp lãnh thổ do lịch sử để lại. Giải quyết các vấn đề này phải có sự nỗ lực
và thiện chí của tất cả các bên liên quan bằng nhiều phương án, giải pháp lâu dài. Do
vậy, cần nhất định phải kiên quyết, kiên trì. Đây cũng là vấn đề mang tính nguyên tắc
đặt ra đối với nhiệm vụ đối ngoại là “giữ vững môi trường hịa bình”, “bảo vệ vững
chắc Tổ quốc”. Nếu giữ vững được mơi trường hịa bình, chúng ta sẽ thêm bạn, bớt
thù, đóng góp trực tiếp vào việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và giữ nước từ khi nước
chưa nguy.

1 Văn phòng Trung ương Đảng, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 33.

22


Để đối ngoại phát huy vai trị tiên phong, có thể hồn thành tốt các định hướng,
nhiệm vụ của mình, Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao
toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại

nhân dân”, cho thấy nền ngoại giao cách mạng Việt Nam đang ngày càng trưởng
thành, đồng thời cũng là một yêu cầu mới vừa mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang
tính cấp thiết đối với đối ngoại và ngành ngoại giao trong bối cảnh mới. Về tính tồn
diện của nền ngoại giao Việt Nam thể hiện ở chủ thể thực hiện đối ngoại bao gồm cả
hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, quốc phịng, an ninh, kinh tế - xã hội, với tất cả đối tác, địa bàn, khu vực,
trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, chủ động
tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương quan trọng có tầm chiến lược.
Tính hiện đại thể hiện qua nền ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa truyền
thống, bản sắc ngoại giao dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của
Đảng qua các thời kỳ và tinh hoa ngoại giao thời đại; qua việc vận hành nền ngoại giao
trong khn khổ thể chế ngày càng hồn thiện, gắn kết chặt chẽ giữa ba trụ cột quan
trọng; qua tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học,
chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, sáng tạo và chủ động thích ứng với chuyển
biến nhanh chóng của tình hình.1

1 Bùi Thanh Sơn (29/11/2021), Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường
lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Truy cập từ: />
23


Nền ngoại giao Việt Nam với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước
và đối ngoại nhân dân luôn đặt dưới lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản
lý tập trung của Nhà nước. Dù có vị trí, chức năng, vai trị và lợi thế khác nhau, nhưng
ba trụ cột đối ngoại có quan hệ rất chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau bởi cùng thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng với mục tiêu chung vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều
này phản ánh bản chất nền ngoại giao Việt Nam là sự tổng hịa, thống nhất giữa tính
đảng, tính quốc gia- dân tộc và tính dân chủ- nhân dân. Việc triển khai đồng bộ, phối
hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân

dân sẽ phát huy thế mạnh của từng trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của
nền ngoại giao Việt Nam. Đây vừa là truyền thống và bài học quý báu, vừa là nghệ
thuật “tập hợp lực lượng” độc đáo của đối ngoại cách mạng Việt Nam cần tiếp tục gìn
giữ và phát huy trong giai đoạn mới.

24


Để xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, bên cạnh tiếp tục
củng cố, hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các trụ cột, cơ quan đối
ngoại, một trong những điều cốt yếu là cần có đội ngũ cán bộ đối ngoại tồn diện về
bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ, hiện đại về phong cách và phương pháp làm việc, đổi
mới, sáng tạo, ngang tầm với thời đại. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta có nhiều nhà
ngoại giao xuất sắc, là những tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước, bản lĩnh, phẩm
chất đạo đức, tài trí và phong cách, nghệ thuật ngoại giao. Trước yêu cầu mới về xây
dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, cần tiếp tục đặc biệt coi trọng công tác cán bộ
đối ngoại, nhất là cơ chế, chính sách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại tồn diện
về phẩm chất, trình độ và năng lực. Thế hệ cán bộ đối ngoại và ngoại giao hôm nay
phát huy truyền thống vẻ vang, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân,
ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, khơng ngừng phấn đấu, nâng
tầm trí tuệ, vững vàng, tự tin, kiên định và đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp phát triển đất
nước và bảo vệ Tổ quốc.

25


×