Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Cơ hội và thách thức của khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trước yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4 0

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.06 KB, 10 trang )

CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA KHỞI NGHIỆP VÀ ĐỔI MỚI
SÁNG TẠO TRƯỚC YÊU CẦU CUỘC CÁCH MẠNG 4.0
Tóm tắt
Theo thống kê của tạp chí Echelon (Singapore) - một trong những tạp chí
online lớn nhất về khởi nghiệp ở Đơng Nam Á, nước ta hiện có khoảng 3.000
doanhnghiệp khởi nghiệp ĐMST, tăng gần gấp đôi so với số liệu ước tính cuối
năm 2015(khoảng 1.800 doanh nghiệp). Hiện nước ta có khoảng 30 cơ sở ươm
tạo (BI) và 10tổ chức thúc đẩy Kinh doanh (BA), tăng thêm 10 vườn ươm và 3
tổ chức thúc đẩyKinh doanh so với năm 2016. Trước bối cảnh nền kinh tế số bắt
đầu có ảnh hưởng ởnhững mức độ khác nhau tới các lĩnh vực của đời sống kinh
tế, xã hội, chính trị tạiViệt Nam. Trong bối cảnh như vậy, cần thiết phải nghiên
cứu, đánh giá đầy đủ vềhoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, coi đó như một
giải pháp phù hợp, một cáchthức ứng phó hiệu quả để tranh thủ các cơ hội mà
cách mạng công nghiệp 4.0 mangđến cho Việt. Bài viết đi vào phân tích cơ hội
này và đồng thời đưa ra kinh nghiệmcác quốc gia trong khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo trên thế giới nhằm giúp Việt Namnắm bắt cơ hội và vận dụng kinh
nghiệm.
Từ khóa: Khởi nghiệp, Đổi mới sáng tạo, Kinh tế số, Cơng nghệ thơng tin
1. Vai trị của khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong nền kinh tế số
Ngày nay, công nghệ, tri thức và sáng tạo đã trở thành yếu tố then chốt
quyết định năng lực cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế của từng quốc gia cũng
nhưtừng doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sángtạo (ĐMST) ngày càng đóng vai trò quan trọng, là lực lượng trung tâm
cho pháttriển kinh tế nhanh, bền vững và bắt kịp xu hướng của thế giới. Trong
xu thế đó,nếu Việt Nam quan tâm, đầu tư đúng đắn cho hoạt động khởi nghiệp,
ĐMST thìchúng ta có cơ hội tăng tốc, phát triển đất nước và sớm đạt được mục
tiêu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.Cùng với sự bùng nổ của kỷ ngun cơng
nghệ số hóa, cuộc Cách mạng Cơngnghiệp 4.0 đã tác động rất lớn đến hoạt động
của các doanh nghiệp nói chung và đặcbiệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp nói



riêng. Kinh tế số hóa đã làm thay đổi mạnhmẽ cách thức hình thành, hoạt động
cũng như phương thức kinh doanh của các doanhnghiệp; Cách mạng Công
nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội trong việc nâng cao trình độcơng nghệ, nâng cao
năng lực sản xuất và cạnh tranh trong chuỗi sản phẩm; tạo ra sựthay đổi lớn về
hình thái kinh doanh dịch vụ; tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo; giảm đáng kể chi phí giao dịch, vận chuyển; tạo cơ hội đầu tư
hấp dẫn và đầy tiềm năng trong lĩnh vực công nghệ số và Internet đồng thời
cũng làcơ hội lớn cho sản xuất cơng nghiệp với trình độ khoa học và cơng nghệ
tiên tiến.
Cách mạng Công nghiệp 4.0 mở đầu một thời kỳ phát triển mới, là cơ hội
gần nhưduy nhất để quốc gia kém phát triển đuổi kịp các quốc gia phát triển;
trong đó lựclượng chủ lực khởi nghiệp sẽ là các doanh nghiệp số, đây sẽ là
những doanh nghiệpđi đầu trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.
2. Cơ hội cho khởi nghiệp trong nền kinh tế số
Bắt nhịp với xu thế số hóa của tồn cầu, tại Việt Nam, làn sóng khởi
nghiệp, ĐMST đang phát triển và giành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng,
Nhà nước cũngnhư toàn thể cộng đồng. Xu hướng khởi nghiệp cũng là một
trong những động lựcthúc đẩy sự phát triển các sản phẩm công nghệ sáng tạo
đáp ứng yêu cầu của đời sốngxã hội. Nhằm hiện thực hóa chủ trương của Đảng,
Chính phủ, ngày 18/5/2016, Thủtướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
844/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án“Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST
quốc gia đến năm 2025” (Đề án 844). Đề áncó mục tiêu nhằm tạo lập mơi
trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hìnhthành và phát triển loại hình
doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trênkhai thác tài sản trí tuệ,
cơng nghệ, mơ hình kinh doanh mới. Cụ thể, đến năm 2020hoàn thiện hệ thống
pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST; thiết lập được cổng thông tin
khởi nghiệp ĐMST quốc gia; hỗ trợ đươc 800 dự án, 200 doanh nghiệp khởi
nghiệp. Đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp; hỗ trợ phát
triển 600 doanh nghiệp khởi nghiệp...



Với quyết tâm mạnh mẽ của Đảng và Chính phủ, hệ sinh thái khởi nghiệp
Việt Nam đã từng bước hình thành và phát triển. Hệ sinh thái khởi nghiệp được
các ngànhnghề, lĩnh vực từng bước áp dụng và đã mang lại hiệu quả cao. Có thể
kể đến thànhcơng của lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, với thế mạnh nông
nghiệp cùng vớiviệc áp dụng khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất, đã
giúp cho hệ sinh tháikhởi nghiệp trong nơng nghiệp có những bước phát triển
mạnh mẽ, bền vững… Điềuđó đã chứng tỏ được tiềm năng của hệ sinh thái khởi
nghiệp ở Việt Nam là rất lớn,nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp đã thu hút được sự
quan tâm của cộng đồng khởinghiệp trong khu vực; mạng lưới các nhà đầu tư
đang tăng lên về mặt số lượng, cáctrường đại học, các tổ chức ươm tạo và hỗ trợ
khởi nghiệp với chất lượng ngày mộtnâng cao, hành lang pháp lý cơ bản hoàn
chỉnh cho hoạt động khởi nghiệp... Tronggiai đoạn 2016 - 2017, theo báo cáo
Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoahọc công nghệ, số doanh nghiệp
khởi nghiệp ĐMST ở Việt Nam tăng gần gấp đôi, từ1.800 năm 2016 lên trên
3.000 năm 2017. Tính đến 2017, Việt Nam có khoảng 40Quỹ đầu tư mạo hiểm
quốc tế đã hoạt động, các tập đoàn,ngân hàng lớn và các nhàđầu tư tích cực
tham gia huy động, sử dụng nguồn lực tài chính lớn cho khởi nghiệp và ĐMST.
Đây là minh chứng rõ nét cho thấy tiềm năng to lớn phát triển hệ sinh thái
khởi nghiệp tại Việt Nam.
Trước yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 và số hóa nền kinh tế, Việt Nam có cơ
hội rất lớn để phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST đặc biệt là trong lĩnh
vựcthông tin và truyền thơng. Đầu tiên, Việt Nam có số người sử dụng Internet
lớn hơnmột nửa dân số. Với dân số hơn 91 triệu nhưng Việt Nam có đến hơn
128 triệu thuêbao di động, 49 triệu người dùng Internet, 28 triệu tài khoản mạng
xã hội. Mỗi ngày,một người truy cập điện thoại khoảng 150 lần, mỗi lần cách
nhau 6,5 phút. 43% người Việt Nam có Internet tại nhà, 94% có điện thoại di
động, 37% có smartphone…48% sử dụng điện thoại để đọc tin tức, trong khi
21% nghe tin từ radio và 19% đọctin từ báo in.
Ngồi ra, Chính phủ ln dành sự quan tâm đặc biệt đến việc phát triển hạ

tầngCNTT và truyền thông, trong hơn 10 năm qua, các khu CNTT tập trung đã


được hìnhthành và phát triển với mục tiêu chiến lược được xác định là tạo ra
năng lực nội sinhvề khoa học công nghệ để phát triển kinh tế - xã hội. Đây là
hướng đi đúng đắn đểtiếp cận được với kỷ ngun cơng nghệ hiện đại, là mơ
hình tổ chức của nền kinh tếtri thức phù hợp với các nước đang phát triển.
Với cơ sở hạ tầng thông tin, truyền thơng phát triển và hệ thống chính sách
thuận lợi, Việt Nam hiện đã hội tụ đủ các điều kiện để hình thành hệ sinh thái
khởi nghiệp ĐMST đặc biệt trong lĩnh vực thông tin và truyền thông. Điều này
càng được củng cố hơn nữa khi mà trong khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi
nghiệp thì đa phần trong số này là các startup trong lĩnh vực CNTT và số startup
này còn lớn hơn số lượng các doanh nghiệp CNTT đang hoạt động tại Việt Nam.
Các startup CNTT có tiềm năng phát triển rất lớn, một số dự án khởi nghiệp ở
lĩnh vực CNTTtham gia các cuộc thi khởi nghiệp đã được áp dụng triển khai vào
thực tiễn và đạtđược nhiều kết quả tích cực, ví dụ như: dự án Vé xe rẻ
(vexere.com) - hệ thốngđặt vé xe khách trực tuyến sau một thời gian ngắn triển
khai đã nhận được vốn đầutư từ Quỹ CyberAgent Ventures, Pix Vine Capital; dự
án Net Loading của nhómsinh viên Đại học Kinh tế quốc dân đến nay đã triển
khai và đang nhận được sựquan tâm từ nhà đầu tư nước ngoài; startup MService với sản phẩm là MoMo đãnhận được hơn 600 tỷ đồng từ Quỹ đầu tư
Standard Chartered Private Equity vàNgân hàng đầu tư toàn cầu Goldman
Sachs… Đặc biệt, trường hợp Nguyễn HàĐông với sản phẩm Flappy Bird được
biết đến khắp mọi nơi trên thế giới. Nhữngví dụ trên cho thấy thị trường khởi
nghiệp Việt Nam đang diễn biến đầy sức sốngvà tiềm năng, chứng kiến sự trỗi
dậy của một thế hệ doanh nhân ngày càng trẻ,thành cơng sớm, nhanh và hướng
đến sự bền vững, hịa nhập với xu hướng khởinghiệp khu vực và thế giới. Tuy
nhiên, thành công hiện nay của các startup trong lĩnh vực CNTT đến từ
bản thân các doanh nghiệp mà chưa có sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan
quảnlý. Trên thực tế, vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp là vấn đề mới, vì
vậy, cácvăn bản quy phạm pháp luật quy định riêng mang tính chuyên biệt cho

doanh nghiệpkhởi nghiệp hầu như chưa có, các bộ ngành hiện mới chỉ tập trung


vào việc triển khaithực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và
giảm thời gian, công sứccủa các doanh nghiệp hoạt động.
3. Thách thức trong khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam trước
yêu cầu số hóa nền kinh tế
Với những diễn tiến rất nhanh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, tinh
thầnkhởi nghiệp cũng được đề cao với các chủ trương, chính sách bước đầu
được đưa rađể thúc đẩy khởi nghiệp. Tuy nhiên nghiên cứu về khởi nghiệp
ĐMST tại Việt Namcòn nhiều thách thức ở một số khía cạnh cụ thể như sau:
Một là việc gia tăng mạnh số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam
thời gian qua chủ yếu là nhờ tác động lan tỏa của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0khi khả năng kết nối IoT gia tăng cùng với nhiều ứng dụng, điều kiện phụ trợ
kháctrở nên sẵn có hơn chứ khơng phải do sự thay đổi về chất của nền kinh tế.
Theo đánhgiá của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam cho rằng, mặc
dù số lượngdoanh nghiệp thành lập mới của Việt Nam tăng mạnh trong thời gian
gần đây, nhưngcác doanh nghiệp thực sự được xác định là doanh nghiệp khởi
nghiệp trong số đókhơng nhiều. Trong khi số lượng doanh nghiệp thành lập mới
năm 2017 là khoảng110.000 doanh nghiệp thì tổng số doanh nghiệp có thể được
xác định là doanh nghiệpkhởi nghiệp tính chỉ vào khoảng 1.500 doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, nếu tính trên đầungười thì số các cơng ty khởi nghiệp của Việt Nam
cao hơn các quốc gia khác nhưTrung Quốc (2.300 công ty khởi nghiệp), Ấn Độ
(7.500 công ty khởi nghiệp) vàIndonesia (2.100 công ty). So sánh giữa các lĩnh
vực hoạt động cho thấy, doanhnghiệp công nghệ thông tin có con số vượt trội so
với các doanh nghiệp trong lĩnhvực khác. Thực tế này phản ánh đúng xu hướng
phát triển trong điều kiện cách mạngcông nghiệp 4.0 với các đặc điểm: (1)
doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực côngnghệ thông tin không cần quá
nhiều vốn đầu tư ban đầu như nhiều lĩnh vực truyềnthống khác; (2) doanh
nghiệp trong lĩnh vực này dựa chủ yếu vào ý tưởng mới vàcách làm mang tính

sáng tạo cao, có khả năng tăng trưởng nhanh; (3) khả năng dễdàng kết nối tồn
cầu qua cơng nghệ IoT giúp cho các ý tưởng sáng tạo tốt dễ dàng


đến được với thế giới và ngược lại, doanh nghiệp cũng dễ dàng học hỏi được từ
cácmơ hình thành cơng khác của quốc tế.
Hai là doanh nghiệp chưa quan tâm đến đầu tư công nghệ bắt kịp cuộc cách
mạng 4.0. Số liệu “Thực trạng đầu tư cho Khoa học và Công nghệ của doanh
nghiệp Việt Nam” của tác giả Lương Minh Huân, Nguyễn Thị Thùy Dương
(2016), đượccông bố cho thấy, trong tổng số 7.450 doanh nghiệp được khảo sát,
chỉ có 464 doanhnghiệp khẳng định là có các hoạt động nghiên cứu và phát triển
(R&D) chiếm 6,23%.Điều này có nghĩa rằng, đại bộ phận các doanh nghiệp
chưa quan tâm đến các hoạtđộng phát triển, ứng dụng cơng nghệ.
Ngồi ra, một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan
(TDRI) nghiên cứu về nhân sự của các doanh nghiệp cũng cho thấy, tỷ trọng cán
bộnghiên cứu và kỹ thuật trong các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp quy
mô lớnchỉ ở mức dưới 40%. Đối với một doanh nghiệp có quy mơ trung bình thì
nhân lựckỹ thuật chỉ chiếm tỷ lệ 36,4%, tiếp đến là nhân lực hỗ trợ với 29,5%.
Còn lại lànhân lực cho các vị trí cơng việc thơng thường khác. Số liệu khảo sát
cũng cho thấy,các doanh nghiệp chưa quan tâm đến hoạt động R&D do hầu hết
đều là các doanhnghiệp hoạt động trong nhóm ngành cơng nghệ thấp (chiếm
44,2%) và chỉ có 17,3%số doanh nghiệp được coi là hoạt động trong các ngành
công nghệ cao. Với tỷ lệnhân lực khoa học và cơng nghệ cịn thấp, việc thực
hiện đổi mới sáng tạo là rất hạnchế. Đây là tình trạng khá phổ biến của doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và cũnglà lý do khiến cho tuy số lượng doanh
nghiệp được thành lập mới tương đối nhiều,nhưng chỉ có 23,9% là thành lập
trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và rất ít trongsố đó được coi là doanh nghiệp
khởi nghiệp ĐMST.
Ba là hoạt động khởi nghiệp ÐMST thời gian qua vẫn mang tính phong
trào,chưa thật sự hiệu quả. Kết quả khảo sát của Mạng lưới khởi nghiệp toàn cầu

(GEN)cho biết, Việt Nam được xếp vào nhóm 20 nền kinh tế khởi nghiệp cao
nhất nhưnglại nằm trong nhóm 20 quốc gia có khả năng thực hiện các kế hoạch
kinh doanhthấp nhất. Ða phần các khởi nghiệp trẻ tập trung vào ý tưởng sản
phẩm mà quênlên bài toán lớn về năng lực và khả năng vận hành của bản thân


doanh nghiệp. Vớimơi trường kinh doanh năng động sẽ có nhiều cơ hội kinh
doanh, nhưng sự vấpngã là điều khó tránh khỏi do “nhảy” vào thị trường quá
nhanh. Chủ tịch PhịngThương mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến
Lộc lưu ý, chất lượng củakhởi nghiệp ÐMST, chất lượng của các doanh nghiệp
tham gia là vấn đề cần quantâm khi khởi nghiệp ÐMST đang được đẩy lên như
một phong trào. Tinh thầnKNÐMST phải đi kèm với năng lực về quản trị. Ơng
Trịnh Minh Giang, Chủ tịchnhóm cơng tác khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, Diễn
đàn kinh tế tư nhân Việt Namcũng khuyến cáo: Hiện nay, có thể các doanh
nghiệp khởi nghiệp vẫn gọi đượcvốn đầu tư, nhưng nếu hai năm tới, số doanh
nghiệp khởi nghiệp ÐMST thànhcông không đạt đến 1%, sẽ khơng cịn ai đầu
tư. Ðó chính là nguy cơ của hệ sinhthái khởi nghiệp nếu Việt Nam không nhìn ra
điều cốt lõi. Chúng ta cần chọndoanh nghiệp nào thật sự cần đầu tư, startup nào
thật sự có năng lực để tập trungphát triển.
Bên cạnh đó rào cản, thách thức đối với đa số các nhóm khởi nghiệp trong
nước là vấn đề ngơn ngữ. Trong khi đó, muốn gọi vốn quốc tế, hội nhập sân
chơichung với các nước khác, các doanh nghiệp phải cải thiện kỹ năng thuyết
trình, cáchchinh phục khách hàng, cách tiếp thị sản phẩm ra thị trường quốc tế.
Về phía cơ quanquản lý, ngồi việc xây dựng thể chế, ban hành chính sách, tạo
ra khơng gian làmviệc chung, cung cấp phương tiện, kỹ thuật cho khởi nghiệp
ÐMST, cần tạo ra môitrường để các bạn trẻ tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm từ
các chuyên gia tốt. Thực tếhiện nay, thiếu cơ chế đãi ngộ chuyên gia giỏi, tiếp
nhận chuyên gia quốc tế, nhómkhởi nghiệp quốc tế về Việt Nam để các bạn trẻ
có thể trực tiếp cọ xát, học tập. Ngoàira, cơ chế đưa các bạn khởi nghiệp trong
nước đến các trung tâm khởi nghiệp lớn trênthế giới và làm việc trong môi

trường cạnh tranh quốc tế chưa hoàn thiện. Hoạt độnghỗ trợ, liên kết mới dừng ở
phạm vi địa phương và phạm vi quốc gia, dẫn đến cácnhóm khởi nghiệp ÐMST
trong nước khó có thể tạo ra mơ hình kinh doanh quy mơtồn cầu. Do đó, cần
quan tâm tính liên kết quốc tế, khả năng kêu gọi chuyên gia, nhà
đầu tư quốc tế vào Việt Nam và hoạt động đưa chuyên gia, nhà đầu tư, nhóm
khởinghiệp của chúng ta ra thị trường nước ngoài để trải nghiệm, học tập, kết


nối. Cơquan nhà nước và các nhà tư vấn, tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp ÐMST phải
cùng phối hợp thực hiện thì mơ hình này mới mang lại hiệu quả.
4. Khuyến nghị
Một điều dễ nhận thấy khi rà soát các tài liệu về DNKNST là ở hầu khắp
cácnước, DNKNST thường gặp phải những vấn đề khá tương tự nhau. Xem xét
kỹ hơntừ góc độ nguyên nhân sẽ cho thấy sự tương đồng này có lý do xuất phát
từ các đặcđiểm rất đặc trưng của các DNKNST, dù là ở nền kinh tế đang phát
triển hay đã pháttriển, đó là những khó khăn về tài chính; khó khăn trong quản
trị kinh doanh; khó khăn trong tuân thủ các thủ tục hành chính. Từ việc nghiên
cứu, rà sốt những khó khăn của DNKNST, bài viết đưa ranhững khuyến nghị
nhằm hỗ trợ DNKNST như sau:Thứ nhất, cần phân tích và đánh giá đúng thực
trạng. Chính phủ cần xem xétvà đánh giá đúng thực trạng triển khai hoạt động
khởi nghiệp ở nước ta, nhằm làm rõnhững đặc trưng của hoạt động này, những
ngành hoặc lĩnh vực mà khởi nghiệp cónhiều khả năng thành cơng, trình độ
cũng như mức độ áp dụng cơng nghệ trong nhữngngành/lĩnh vực đó. Trên cơ sở
đó, xem xét và áp dụng kinh nghiệm phù hợp của cácquốc gia khởi nghiệp đi
trước vào thực tiễn ở Việt Nam mới có hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Chúng ta cần cụ thể hóa chủ
trươngxây dựng quốc gia khởi nghiệp bằng một chương trình quốc gia khởi
nghiệp tổng thể,theo đó, nêu rõ những bước triển khai cụ thể để hình thành hệ
sinh thái khởi nghiệp.Cụ thể như: Khn khổ thể chế hỗ trợ cho hoạt động khởi
nghiệp bao gồm chính sách về thủ tục thành lập, đầu tư, thuế, thương mại hóa

sản phẩm cơng nghệ. Điểm cần lư là các chính sách ưu đãi khơng chỉ dành
riêng cho DNKNST, mà còn bao gồm cảnhà đầu tư bỏ vốn vào các quỹ đầu tư
khi họ rót vốn cũng như thối vốn; Chu trìnhhỗ trợ vốn đầu tư tương ứng với các
giai đoạn phát triển của DNKNST; Quy định hỗtrợ hoạt động của nhà đầu tư;
Các biện pháp tăng cường năng lực và hoạt động củacác tổ chức hỗ trợ khởi
nghiệp như hệ thống vườn ươm công nghệ hay các trung tâm
thúc đẩy DNKN.


Thứ ba, hoàn thiện việc xây dựng chiến lược khởi nghiệp quốc gia: Tùy
vàothế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn cho mình những lĩnh vực
ưu tiênphù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt
động hiệuquả. Nhà nước cần nghiên cứu kỹ để có thể đưa ra một chiến lược
quốc gia hỗ trợtích cực cho hoạt động khởi nghiệp, phù hợp với các chính sách
khác của quốc giacũng như chính sách quốc tế, đồng thời vẫn chú trọng vào các
lĩnh vực, ngành mụctiêu khởi nghiệp.
Thư tư, đẩy mạnh hoạt động giáo dục đào tạo. Mục tiêu là tạo dựng tinh
thầnkhởi nghiệp - đổi mới - sáng tạo trong học đường, các trường đại học cao
đẳng cầncó nhiều chương trình học và làm thiết thực, cung cấp kiến thức và
truyền cảm hứnglàm chủ sự nghiệp, làm chủ bản thân cho sinh viên. Phát triển
khởi nghiệp trongtrường đại học, cần tạo diễn đàn chung cho sinh viên các
ngành khác nhau, phải cómột nơi cho các em đến giao lưu, gặp gỡ, trao đổi ý
tưởng. Vai trò cốt lõi của đại họclà tạo ra hạt giống và ươm tạo các ý tưởng khởi
nghiệp. Nhà trường có điều kiện tạomơi trường thuận lợi để sinh viên tham gia
các hoạt động đổi mới, sáng tạo và nghiêncứu khoa học, tổ chức các cuộc thi ý
tưởng khởi nghiệp, tạo sự kết nối giữa các nhómnhằm hình thành các dự án khởi
nghiệp.Đối với giai đoạn khi hệ sinh thái khởi nghiệp ngay trong trường phát
triển tốt,các trường đại học phát huy tối đa vai trị kết nối. Đó là sự kiến tạo liên
kết giữa sinhviên với DNKNST để tạo việc làm; giữa nhà khoa học với
DNKNST, đưa tri thức,dự án nghiên cứu vào đời sống - xã hội, sản xuất, kinh

doanh; kết nối các nguồn lựchỗ trợ sinh viên khởi nghiệp sáng tạo. Với hoạt
động này, trường đại học không chỉlà nơi ươm mầm cho các dự án kinh doanh
đổi mới, sáng tạo tiềm năng mà còn tạocơ hội thu hút những tài năng đến tăng
trải nghiệm cọ xát với môi trường thực tiễncho sinh viên trong trường.
Các trường đại học, cao đẳng phải đóng vai trị tiên phong trong việc nghiên
cứu ứng dụng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho cộng đồng
vàđời sống xã hội. Đồng thời, tiên phong trong việc tiếp cận các thành tựu khoa
học tiêntiến của thế giới, thử nghiệm và truyền tải những kiến thức đó đến các
thế hệ, đưa racác định hướng phù hợp với tiến bộ của thế giới. Vai trò của đại


học cũng rất quan trọng trong chuyển giao kết quả nghiên cứu thành công đến
với doanh nghiệp, tạo racác kết nối giữa doanh nghiệp và nhà trường.
Kết luận: Ngày nay, công nghệ, tri thức và sáng tạo đã trở thành yếu tố
thenchốt quyết định năng lực cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế của từng quốc
gia cũngnhư từng doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mớisáng tạo (ĐMST) ngày càng đóng vai trị quan trọng và đạt được
nhiều thành côngrực rỡ. Tuy nhiên cứu về khởi nghiệp ĐMST tại Việt Nam cịn
nhiều thách thức, khókhăn gây trở ngại cho doanh nghiệp ĐMST. Một trong
những vấn đề lớn nhất đến từchính, đầu tư cơng nghệ và yếu tố con người trước
cuộc cách mạng 4.0. Do đó phầncuối bài viết đi vào khuyến nghị nhằm xây
dựng hệ sinh thái khởi nghiệp quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016
về hỗtrợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, Hà Nội.
2. Lương Minh Huân, Nguyễn Thị Thùy Dương (2016), “Thực trạng đầu tư
choKhoa học và Công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
Cơng nghệ Việt Nam, số 9A
3. Nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển Thái Lan (TDRI) về nhân sự
củacác doanh nghiệp năm 2017

4. Nhiều tác giả (2015), Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài khoa học cấp
Nhànước, mã số KX06.06/11-15 “Nghiên cứu, phân tích hệ thống khoa học,
cơngnghệ và đổi mới/sáng tạo (STI) Việt Nam trong xu thế hội nhập khoa học và
cơng nghệ quốc tế”, Hà Nội.
5. Phịng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2017), Báo cáo chỉ số
khởinghiệp Việt Nam.
6. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày
18/5/2016 vềviệc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo quốcgia đến năm 2025”, Hà Nội.



×