Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

VAI TRÒ của NGUYỄN ái QUỐC TRONG VIỆC THÀNH lập ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.61 KB, 14 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN LỊCH SỬ VIỆT NAM

Đề tài:
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giảng Viên Phụ Trách: PGS.TS.Trần Thuận
Sinh viên thực hiện: Dương Thị Ngọc Ánh
Pháp danh: TN.Huệ Trạm
Mã sinh viên: TX 6009
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2021


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


BÀI TIỂU LUẬN MƠN LỊCH SỬ VIỆT NAM

Đề tài:
VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giảng Viên Phụ Trách: PGS.TS.Trần Thuận
Sinh viên thực hiện: Dương Thị Ngọc Ánh
Pháp danh: TN.Huệ Trạm


Mã sinh viên: TX 6009
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo

TP. Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2021


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................
.........................................................................................................................

Ngày….tháng…năm 2021

PGS.TS. Trần Thuận

MỤC LỤC



A LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Năm 1923, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh rời nước Pháp sang Liên Xô, hoạt

động trong Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Người tới Quảng Châu (Trung Quốc) và tại
đây, năm 1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên - tổ
chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là con đường mà Đảng và Bác Hồ đã dứt khoát lựa chọn từ năm 1930 khi Đảng
ra đời. Chú trọng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, chống nguy cơ sai lầm về
đường lối, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì
hạnh phúc của nhân dân.Đó cũng là lý do học viên chọn đề tài “Vai trò của Nguyễn ÁI
Quốc trong việc thành lập đảng ”.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên chọn nghiên cứu với phương pháp phân tích,so sánh và tổng hợp từ đó đi
đến kết luận để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
3.Nội dung nghiên cứu:
Vì kiến thức hạn chế,học viên chỉ đi xâu nghiên cứu Phong Trào Nông Dân Tây Sơn
Bùng Nổ Và Thắng Lợi trên bình diện cơ bản nhất.
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu&Nội dung,Nội dung gồm 02chương có 02 mục .
Phần kết luận & Tài liệu tham khảo

A. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM TRƯỚC
NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG

5


1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ
nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường

bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân
dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân
lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ
lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh
sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng
sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong
quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị
của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách
chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước
của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương,
chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một
chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc
lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều
hình thức thuế khóa nặng nề, vơ lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống
đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản
ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc

lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.
- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nơng dân; một bộ
phận địa chủ có lịng u nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức
và mức độ khác nhau.
Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân
mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân
Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu
thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã

6


nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược.
- Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp
xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng
hoảng về đường lối cách mạng
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu
tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng
đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại.
Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm
dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo
(1896); phong trào nơng dân n Thế của Hồng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng
không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế
tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách
mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

CHƯƠNG 2: VAI TRỊ CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THÀNH LẬP

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

7


Trước khi Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng đầu năm
1925, ở Việt Nam chưa thật sự xuất hiện một tổ chức nào đáng gọi là một chính đảng
theo đúng nghĩa của nó.
Năm 1905, sau khi Nhật thắng Nga trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật, ở Việt Nam
dấy lên phong trào Đông Du. Tiếng là phong trào, nhưng khơng có tổ chức. Duy Tân
Hội chỉ là “hữu danh vô thực.” Khi Pháp-Nhật câu kết với nhau trục xuất Phan Bội
Châu và số học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật, thì phong trào cũng tan rã.
Sau Cách mạng Tân Hợi (1911), Phan Bội Châu lập ra Việt Nam Quang phục Hội
(5/1912) với tôn chỉ “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, kiến lập Việt Nam
cộng hoà dân quốc.” Nhưng như Phan Bội Châu đã tự thừa nhận: Hội “mới lọt lòng
mẹ ra, mới thử một tiếng khóc thì đã biết triệu chứng là khó sống lâu rồi.” Khi thấy
phong trào đã nghiêng về xu hướng cách mạng thế giới, Phan Bội Châu dự tính cải tổ
Việt Nam Quang phục Hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng theo mẫu của Tôn Trung
Sơn, nhưng chưa kịp thực hiện thì ơng đã bị bắt. Phan Chu Trinh cũng đã từng nói
“Ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải có đồn thể...” nhưng ơng chỉ mới nói mà chưa
làm. Còn Đảng Lập hiến (1923), như Nguyễn Ái Quốc nhận định đó khơng phải là
một đảng có tổ chức mà đơn thuần chỉ là một vài nhà trí thức dựa theo kiểu Pháp mà
đặt tên đảng. Những thủ lĩnh của đảng này là những người theo quốc tịch Pháp.
Nhưng dù thành lập hay chưa thì các đảng kiểu đó cũng khơng thể lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành cơng, bởi nó thiếu một đường lối
chính trị và tổ chức đúng đắn, chặt chẽ, lại khơng có cơ sở rộng rãi trong quần chúng.
Nguyễn Ái Quốc, ngay từ khi về Quảng Châu mở các lớp huấn luyện chính trị, đã
đặt vấn đề: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”. Và Người khẳng định: “Trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành

cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.” (Hồ Chí Minh tồn tập, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia 1995, tập 2, tr 267-268).Người chỉ ra tấm gương của cách
mạng Nga: “Cách mệnh Nga dậy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì
phải lấy dân chúng (cơng nơng) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải
hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lenin
(chủ nghĩa Marx-Lenin).” (Hồ Chí Minh tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
1995, tập 2, tr 280).
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc không những là người Việt Nam đầu tiên nhận thức được
tầm quan trọng và sự cần thiết phải có đảng lãnh đạo mà cịn chỉ ra rằng đảng đó phải
là một đảng kiểu mới, tức là phải khác về chất so với các đảng, các hội chỉ tồn tại trên
danh nghĩa trước đó.
2.1. Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn cho
dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam từ một
quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược và biến thành
thuộc địa. Chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã hội Việt Nam biến đổi
toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội và sự bần cùng của đại đa số
dân cư.
8


Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật cường dân tộc, ngay khi đất nước đối
đầu với họa ngoại xâm, khi triều Nguyễn ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng,
từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra.
Mục tiêu chung là bảo vệ, khôi phục nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống
nhất quốc gia, chấn hưng đất nước, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi
Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế trong hệ tư
tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa
thục, Duy Tân theo xu hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, phong trào chống thuế ở
Trung Kỳ… Tuy nhiên, các phong trào yêu nước đó đều đi đến thất bại.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước, song nguyên
nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng khoa học dẫn đường,
chưa có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo và nhất là chưa có một tổ
chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thất bại
của các phong trào yêu nước thể hiện sự khủng hoảng, bế tắc của các phương cách
cứu nước truyền thống Việt Nam trước sự chuyển biến của thời cuộc. Song sự thất bại
đó khơng hề vơ ích, nó là động lực thơi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người
Việt Nam, đồng thời đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn
dắt.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với lịng u nước,
thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về “tự
do, bình đẳng, bắc ái” được truyền đến Việt Nam, với tầm nhìn chiến lược và phương
pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người.
Người nhận thấy những bất cập và bế tắc của con đường cứu nước của thế hệ cha anh
đang tiến hành và yêu cầu bức bách đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách
mạng mới và Người đã đảm đương trọng trách đó. Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế thứ ba” (1)
Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng kết, tìm ra
bản chất của các học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt lọc, vận dụng và
phát triển cho phù hợp với dân tộc mình. Năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách
mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” (2).
Cũng trong tác phẩm đó, Người đã thấy sự cần thiết phải có Đảng để lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề cách mệnh trước hết phải có cái gì? Người chỉ rõ:
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh” và “Đảng có vững cách mệnh thì mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt... Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn,
tàu khơng có bàn chỉ nam” (3). Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật
thiết giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng
con người. Và Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc

chân chính là một động lực lớn của cách mạng và đã kết hợp tài tình chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết cách mạng tiên tiến nhất của thời đại.
Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính đảm
bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
9


Từ ngày 6/1-7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam được tổ chức tại Hong Kong (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. (Ảnh: Tranh tư liệu/TTXVN)
2.2.Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước
và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước.
Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn
của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài giảng của Người cho
những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người trong các lớp huấn luyện được in thành
sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn
khơng chỉ đối với Việt Nam, mà cịn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân các nước thuộc địa Phương Đông. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, chủ yếu là cơng nơng, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại;
cách mạng muốn thành công phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối
và phương pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ
với cách mạng vô sản thế giới…

10


Cuốn 'Đường Kách mệnh' tập hợp những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí

Minh giảng tại lớp Huấn luyện chính trị các thanh niên yêu nước Việt Nam trong
những năm 1925-1927. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân,
làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm
chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến lập trường của giai cấp công
nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được
cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài
giảng với lời văn giản dị, nội dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến
quần chúng. Đồng thời, Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp
đối với nhân dân thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh,
Người tố cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính quốc...
để "phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các
thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ" v.v... Tác phẩm đã "hướng
các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt "hai
cái vòi của con đỉa đế quốc" – một "vịi" bám vào giai cấp vơ sản ở chính quốc, một
"vòi" bám vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam con đường cách mạng
vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin.

11


Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời
của chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo
cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu (Trung Quốc) để vừa
chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán
bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho
những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư
tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người

trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù chưa nhận
được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam. Song với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động cao, thực hiện trọng trách lịch
sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc
đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long –
Hồng Công (Trung Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của
Nguyễn Ái Quốc.
Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và
An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ Tùng Mậu và Lê
Hồng Sơn). Còn Đơng Dương Cộng sản Liên đồn đã thành lập, song chưa có liên hệ,
nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày 24/02/1930, tổ chức này được hợp
nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam). Với sự nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là
Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn
tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể hiện rõ con
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có vai trị to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực hoạt động nhận thức, phát triển lý luận cách
mạng gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của Người, đặc biệt là ở những
luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập. Nói cách khác, Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước.

12


KẾT LUẬN

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách quan,
bắt nguồn từ thực tiễn cuộc đấu tranh của nhân dân chống sự nô dịch đế quốc, được
soi rọi dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy luật vận động của
cách mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ra đời đã đáp ứng những
yêu cầu khách quan, thiết yếu và cấp bách của dân tộc là độc lập, tự do và phát triển.
Đảng thành lập là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó có vai trị to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh lịch sử sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam,
với những sáng tạo lý luận xuất sắc. Từ đây, cách mạng Việt Nam có một đảng cách
mạng chân chính dẫn đường cho tồn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của
thực dân, phong kiến đem lại độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân.Trải qua 90 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, sự nghiệp cách mạng nước ta đã giành được
những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử và thời đại. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng, sự dẫn dắt của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đồn kết, đồng lịng đánh thắng các
thế lực thù địch, những chiến công đã đi vào lịch sử như Cách mạng Tháng Tám năm
1945, cuộc kháng chiến chống Pháp 1945, cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954
- 1975. Đặc biệt, những thành tựu của công cuộc đổi mới gần 35 năm qua, càng chứng
minh cho sự lựa chọn đắn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những thắng lợi to lớn đó đã chứng
minh một chân lý: “sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam” (6).

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Chú thích:
(1), Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội, 2011, tr.562.

(3), Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2011, tr.289.
(4), (5), Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, tr.2
(6), Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.66.
Báo chí-Website:
1 Đề cương tuyên truyền 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,đăng:
17/12/2010 ,truy cập :02/02/2021 , />2.ThụyHồng:ThứNăm,22/10/2020,truycập:02/20/2021,
/node/1181
Sách:
1. Vũ Thanh Sơn,Nhân vật lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Nhà
xuất bản Quân đội nhân dân.
2. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb CTQG, H, 2011

14



×