Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Nghèo đô thị cận cảnh hàng dong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.86 KB, 13 trang )

-1-

NGHÈO ĐÔ THỊ – CẬN CẢNH HÀNG RONG

Trong nghiên cứu đô thị, nghèo đói là một vấn đề hết sức quan trọng. Cho
đến nay, có nhiều cách tiếp cận khác nhau nghiên cứu về “nghèo đô thị”. Trong bài
viết này, chúng tôi tiếp cận với vấn đề nghèo đói từ góc nhìn cận cảnh “hàng rong”
vừa như một tất yếu có tính lịch sử vừa như một nghịch lý trong các quy hoạch
phát triển đô thị của nhà nước và chính quyền đô thị.
Nghèo là một khái niệm đã được dùng rất lâu trên thế giới để chỉ mức sống
của một nhóm dân cư, một cộng đồng, một nhóm quốc gia so với mức sống của
một cộng đồng hay các quốc gia khác1.Về cơ bản, sự nghèo khổ được xác định
trong mối tương quan xã hội, và người nghèo “ là người phải sống dưới mức được
định nghĩa như là chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận được trong một thời gian và
địa điểm cho trước” 2.Do đó, cốt lõi của khái niệm nghèo là thiếu mức độ tối thiểu
về nhân lực và vật lực để có thể đạt được một cuộc sống hợp lý 3. Đặc điểm cơ bản
nhất của người nghèo là phần lớn trong số họ không có trình độ và kỹ năng. Người
nghèo đặt trong bối cảnh nào cũng gặp nhiều thiệt thòi và sự bất bình đẳng xã hội.
Nhưng về mức độ dễ bị tổn thương và những rủi ro trong cuộc sống mưu sinh thì
người nghèo ở đô thị, đặc biệt là những người làm nghề tự do, bán hàng rong
chính là đối tượng gánh chịu nhiều hơn.
Trong những năm gần đây, hướng tới việc xây dựng môi trường và cảnh
quan đô thị thông thoáng, mỹ quan sạch đẹp, đặc biệt là đối với các đô thị trung
tâm như Hà Nội, Tp.Hồ Chí Minh… các chính sách quản lý đô thị đã được xây
dựng và điều chỉnh liên tục. Một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong các chính sách ấy là làm thế nào để giải quyết một cách triệt để hàng rong,
1

Lương Hồng Quang (chủ biên) Văn hóa của nhóm nghèo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2001, tr.33.
2


Lương Hồng Quang (chủ biên) Văn hóa của nhóm nghèo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2001, tr.33.
3
Lương Hồng Quang (chủ biên) Văn hóa của nhóm nghèo ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội, 2001, tr.34.


-2-

một nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và cảnh quan đô thị. Tuy
nhiên, sau hàng loạt các quy định, thông tư, hướng dẫn, hàng rong vẫn tồn tại như
một hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hóa “ồ ạt” ở các vùng ngoại vi, khiến cho
dòng dân xuất cư từ các vùng này chảy vào các thành phố lớn nhằm tìm kiếm
những cơ hội “đổi đời”.
Vì sao tính rủi ro và mức độ tổn thương cao vẫn không thể ngăn những
người nghèo đô thị, đặc biệt là dân nhập cư lựa chọn hàng rong như một phương
kế sinh nhai chính?Điều gì khiến cho các chính sách quản lý liên quan đến đối
tượng buôn bán tự do, hàng rong gần như không đạt hiệu quả? Những người bán
hàng rong sẽ tạo nên những bất lợi gì cho bản thân họ, cũng như cho môi trường
và cảnh quan đô thị? Giải pháp nào cho vấn đề này?. Đó là tất cả những vấn đề
chúng tôi muốn góp phần giải đáp trong bài viết này.
Để trả lời cho các câu hỏi trên, chúng tôi đặt ra các giả thiết sau:
Thứ nhất, việc làm và sinh tồn là nhu cầu cơ bản nhất của con người, vì
vậy, hàng rong như là một phương tiện tối ưu nhất có thể đáp ứng hai nhu cầu cơ
bản trên của người nghèo đô thị đặc biệt là đối tượng người nhập cư.
Thứ hai, về phương diện nào đó, hàng rong có một chức năng xã hội nhất
định khi nó góp phần giải quyết việc làm cho một số lượng người nghèo không có
nhiều vốn và kỹ năng cũng như các điều kiện tiếp cận nghề nghiệp khác.
Thứ ba, chính sách quản lý đô thị chưa đạt được kết quả mong muốn vì đã
không giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu sinh tồn và lợi ích của một bộ phận

không nhỏ người nghèo thành thị với lợi ích chung của cộng đồng đô thị trong khi
chưa đưa ra được giải pháp khả thi để giải quyết thỏa đáng các nhu cầu chính đáng
về việc làm và sinh tồn.
Thứ tư, phải xem hàng rong như một nhân tố có chức năng giải quyết nhu
cầu về việc làm và sinh tồn cho một bộ phận không nhỏ người nghèo thành thị,
các chính sách quản lý đô thị mới tránh được những xung đột và đạt được hiệu quả
như mong muốn.


-3-

Từ những giả thuyết đặt ra, chúng tôi sử dụng ba lý thuyết: lý thuyết Nhu
cầu, lý thuyết Chức năng, lý thuyết Xung đột như ba lý thuyết nền tảng để phân
tích và tìm kiếm giải đáp cho các câu hỏi đã nêu.
Bên cạnh đó, để có cái nhìn cận cảnh nhưng khách quan và khoa học,
chúng tôi sử dụng số liệu là kết quả điều tra xã hội học từ các công trình nghiên
cứu như: “Cải thiện nơi ở và môi trường sống cho người nghèo đô thi” của trường
Đại học Kiến Trúc Hà Nội, trường Đại học Kiến trúc Tp.HCM, Viện qui hoạch đô
thị và nông thôn, Viện Xã hội học được tiến hành bởi sự tài trợ của Trung tâm
nghiên cứu phát triển quốc tế Canada (IDRC), 1994; “Văn hóa của nhóm nghèo ở
Việt Nam, thực trạng và giải pháp” do Lương Hồng Quang (chủ biên), Nxb Văn
hóa – thông tin, 2001; “Đô thi hóa và nghèo khó đô thi ở Việt Nam: một số đặc
điểm cơ bản” của Nguyễn Hữu Minh và Nguyễn Xuân Mai, Nxb Khoa học Xã
hội, 2005… để phân tích các luận điểm đề ra nhằm đạt đến một nhận định rõ ràng,
khách quan và khoa học.
Những biến đổi mạnh mẽ của quá trình đô thị hóa trong thập niên 90 ở Việt
Nam đã được nhiều nhà quản lý đô thị và các nhà nghiên cứu quan tâm. Đặc biệt
là Các vấn đề về sự ảnh hưởng của đô thi hóa đến văn hóa làng xa (Trung tâm
nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh
nay là Viện Khoa học Xã hội Vùng Nam Bộ); vấn đề giảm nghèo trong quá trình

đô thi hóa ở thành phố Hồ Chí Minh (Viện Khoa học xã hội Vùng Nam Bộ); về
vấn đề phân tầng xa hội ở đô thi của Viện Xa hội học, vấn đề di cư tại Hà Nội và
Tp.HCM (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Lao động – thương binh và
Xã hội, Viện khoa học xã hội Vùng Nam Bộ, Viện Kinh tế Tp.HCM, Viện Xã hội
học; Những vấn đề của phát triển không gian đô thi (Nhiều tác giả, của Đại học
quốc gia Tp HCM, trường Đại học KHXH và NV Tp.HCM, Trung tâm nghiên cứu
phát triển đô thị và cộng đồng); “Văn hóa của nhóm nghèo ở Việt Nam, thực trạng
và giải pháp” (Lương Hồng Quang (chủ biên); Đô thi hóa và nghèo khó đô thi ở
Việt Nam: một số đặc điểm cơ bản (của Nguyễn Hữu Minh và Nguyễn Xuân Mai);
Cải thiện nơi ở và môi trường sống cho người nghèo đô thi (trường Đại học Kiến


-4-

Trúc Hà Nội, trường Đại học Kiến trúc Tp.HCM, Viện qui hoạch đô thị và nông
thôn, Viện Xã hội học ) ….Các nghiên cứu trên đã cho ra các kết quả nghiên cứu
về đô thị rất phong phú, nhưng nghiên cứu cụ thể có tính chuyên sâu về vấn đề
nghèo khó đô thị dưới một góc nhìn cận cảnh như “hàng rong”, bản thân người
viết chưa được tiếp cận với công trình nào ngoài các bài viết trên các báo hàng
ngày theo phong cách phóng sự báo chí hơn là một nghiên cứu khoa học.
II. Thực trạng của nghèo đô thi
Cuộc chuyển mình của đời sống kinh tế xã hội từ cơ chế cũ sang cơ chế
mới của nền kinh tế thị trường ghi đậm dấu ấn trên các nhóm xã hội khác nhau,
trong đó, nhóm người nghèo đô thị luôn luôn gánh chịu những thử thách nặng nề
nhất. Nằm ở đáy tháp phân tầng xã hội, hiện tượng mang tính quy luật của quá
trình phân hóa xã hội trong nền kinh tế thị trường, nhóm nghèo đô thị gặp nhiều
tổn thương và rủi ro trên bước đường mưu sinh nhằm đáp ứng cho nhu cầu sinh
tồn của mình.
Lịch sử quần cư, quá trình di động xã hội bao gồm trong nó động thái nhập
cư từ ngoài vào và chuyển cư nội đô, gắn liền theo chúng là đặc điểm nghề nghiệp,

công ăn việc làm, mức sống và lối sống đều hội tụ vào một chỉ báo tổng hợp của
người nghèo đô thị và môi trường sống của họ. Cộng đồng người nghèo đô thị là
một bộ phận hợp thành hữu cơ của xã hội đô thị. Do đó, quan tâm và giải quyết
các vấn đề liên quan đến nhu cầu và lợi ích của họ là một nhiệm vụ có tính cấp
bách của chính quyền đô thị.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, quá trình đô thị hóa nhanh, khiến cho dòng dân
nhập cư từ các vùng lân cận vào trong các thành phố quá lớn, mang tính đột biến
cao, khiến cho các chính sách quản lý đô thị trở nên lúng túng.
Nét đặc trưng của đô thị hóa ở Việt Nam là không đồng đều. Đại bộ phận
dân cư đô thị tập trung chủ yếu vào vài đô thị lớn như Thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng… Riêng thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là đô thị


-5-

lớn nhất Việt Nam, qui mô dân cư năm 2000 lên đến 5,2 triệu người (chiếm
khoảng 32% tổng số dân cư đô thị cả nước). Do đó, lực lượng lao động trên địa
bàn thành phố rất đông đúc, chiếm trên 3,3 triệu người (năm 1999) 4. Điều này cho
thấy một thách thức lớn mà thành phố Hồ Chí Minh phải đối diện, đó chính là nhu
cầu việc làm tăng cao trong khi khả năng cung cấp việc làm ở thành phố lại có giới
hạn, vì vậy đây là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của một đội quân thất
nghiệp to lớn, trung bình từ 300 đến 400 nghìn người/năm 5. Mặt khác, thành phố
Hồ Chí Minh hiện còn là một trung tâm kinh tế – thương mại – dịch vụ – đối ngoại
lớn ở Việt Nam: sản xuất công nghiệp của thành phố chiếm gần 1/3, giá trị xuất
khẩu chiếm trên ½ tởng giá trị của cả nước6 , vì thế Thành phố Hồ Chí Minh trở
thành một trong những “cực hút” dân cư và lao động từ các nơi khác đổ dồn về,
tạo thành các luồng di dân mạnh mẽ từ vùng nông thôn và ngoại vi vào Thành phố
Hồ Chí Minh. Trong thập niên 90 vừa qua trung bình có khoảng 50.000 người
nhập cư vào thành phố hàng năm 7. Xét về nguồn gốc, người nhập cư vào Thành
phố Hồ Chí Minh xuất phát từ 52/63 đơn vị tỉnh và thành phố khác nhau trên cả

nước, trong đó chủ yếu từ các địa phương thuộc về miền Nam Việt Nam (chiếm
62,36% tổng số dân nhập cư). Trong số các nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
nhập cư ồ ạt vào Thành phố Hồ Chí Minh là tìm kiếm việc làm (nguyên nhân kinh
tế). Do vậy, xét về độ tuổi, di dân chủ yếu ở độ tuổi trẻ từ 15 – 34 tuổi. Những
thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng…cũng chịu chung những áp lực tương tự,
mặc dù có những đặc điểm riêng.
Đặc điểm chung của di dân nông thôn – thành thị là trình độ tay nghề hay
chuyên môn kỹ thuật thấp kém, chủ yếu là loại lao động giản đơn. Họ có thể tìm
được công việc tại thành phố nhanh chóng, nhưng đấy là những công việc mang
4

Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, 2005, tr
143.
5
Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, 2005, tr
143.
6
Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, 2005, tr
144.
7
Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, 2005, tr
144.


-6-

tính chất “3D”: Dirty (bẩn thỉu), Difficulty (Khó khăn, nặng nhọc) và Dangerous
(nguy hiểm). Đó là những công việc mang tính chất tạm thời, bấp bênh, kém ổn
định mà nhiều lao động tại chỗ chê bỏ vì thu nhập thấp. Tuy nhiên, cũng có một bộ
phận đông đảo có chút vốn nhỏ lại tham gia vào đội ngũ người bán hàng rong,

hoặc bán hàng rong thuê cho những chủ hàng tại chỗ. Trong số những người làm
nghề bán hàng rong ở Thành phố Hồ Chí Minh, lao động nữ tương đối chiếm ưu
thế hơn lao động nam.
Hoạt động bán hàng rong diễn ra rộng khắp trên địa bàn Thành phố, với
mỗi khu vực dân cư sẽ xuất hiện những người bán hàng rong với các phương thức
khác nhau. Ở khu vực trung tâm, tập trung chủ yếu những người buôn bán các loại
thức ăn nhanh truyền thống, quà bánh, nước giải khát, thuốc lá bằng các phương
tiện thô sơ như xe đẩy, gánh, xe đạp và cả sách báo, các dụng cụ cá nhân như
gương, lược, bóp, ví…, Kẹo cao su, vé số được bán bởi những người bán hàng
rong đi bộ. Ở khu vực ngoại thành hoặc tại những nhà máy, tại các khu công
nghiệp, ngoài những người buôn bán các loại hàng hóa như trong trung tâm thành
phố, còn có những người buôn bán các loại thức ăn tươi sống trên các xe ba gác,
xe đẩy, gánh. Thậm chí, trong đội quân này còn có lực lượng những người làm
dịch vụ dạo như tẩm quất, mài dao kéo, cân sức khỏe, mua bán phế liệu….Nhìn
chung, bộ phận lao động buôn bán hàng rong ở Thành phố Hồ Chí Minh rất đông
đảo với sự đa dạng về các loại hàng hóa, dịch vụ.
Đội ngũ bán hàng rong đã đem đến cho thành phố một dáng vẻ tấp nập,
nhưng nhếch nhác và những nguy cơ tiềm ẩn trên nhiều phương diện môi trường,
mỹ quan, an ninh trật tự, giao thông đô thị, vệ sinh an toàn thực phẩm…. Và ngay
cả bản thân người lao động trên lĩnh vực này cũng gặp rất nhiều những rủi ro và sự
tổn thương trên bước đường mưu sinh, đó là tai nạn giao thông, suy kiệt sức khỏe,
bị coi thường bởi định kiến xã hội…
Trong những năm gần đây, nhằm thiết lập lại trật tự và mỹ quan đô thị, các
chính quyền sở tại ở các thành phố lớn đều có những động thái về mặt chính sách
gần như “tuyên chiến”, đối mặt với “nạn” hàng rong với những hoạt động cưỡng


-7-

chế rầm rộ. Như Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16.03.2007 của Chính Phủ,

Quyết định 41/2005/QĐ-BYT của Bộ Y Tế, Quyết định số 02/2008/QĐ-UBND
của UBND Thành Phố Hà Nội… Nhưng thực tế vẫn cho thấy, hàng rong vẫn tiếp
tục tồn tại và phát triển nhiều hơn như một sự “thách thức” của người lao động
nhập cư nghèo với chính quyền sở tại, mặc dù về bản chất họ luôn rất lo lắng và sợ
hãi trước các hoạt động cưỡng chế của chính quyền đô thị. Hiện tại, Ước tính
người bán rong tại quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) khoảng 3.000 người, quận Hai Bà
Trưng (Hà Nội) là 4.000 người. Theo số liệu của Sở Công Thương Hà Nội, trên
địa bàn hiện có tới hơn 10.000 gánh hàng rong tập trung chủ yếu tại các tuyến phố
lớn như Hàng Bài, Bà Triệu, Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Cát
Linh... Ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo thống kê của Bến xe Miền Đông, hiện có
khoảng 135 người sống bằng nghề bán hàng rong trong bến, trong đó hơn 90% là
phụ nữ, nhiều người bán hơn 20 năm. Thậm chí, ở một số địa phương gần Hà Nội,
phần lớn lao động chính là những người làm nghề bán hàng rong ở Hà Nợi. Ơng
Hoàng Văn Nam, phó chủ tịch UBND xã Bình Kiều (Hưng Yên) cho biết “xã này
có khoảng 2.000 người lên Hà Nội bán hàng rong trong khi dân số xã chỉ xấp xỉ
8.000 nhân khẩu. Hầu như gia đình nào tại xã cũng có người lên Hà Nội, có nhà đi
một người, có nhà đi cả hai vợ chồng”. Tại các xã khác của huyện Khoái Châu
(Hưng Yên) số người đi bán hàng rong, làm ăn trên Hà Nội chiếm một số lượng
lớn, thường từ 20-25% dân số của mỗi xã. Cụ thể, thống kê của từng xã cho biết:
xã Bình Kiều chiếm 25%, xã Đông Kết 15%, xã Hàm Tử 19%... Một câu hỏi đặt
ra cho vấn đề này khiến cho các nhà quản lý đô thị trở nên lúng túng trong hoạt
động quản lý của mình: Vì sao, các chính sách đề ra không đạt hiệu quả? Liệu có
thể giải quyết triệt để vấn đề này không?
Để trả lời câu hỏi trên, điều đầu tiên, chúng ta phải tìm ra nguyên nhân của
sự tồn tại có tính khách quan của đối tượng, những yếu tố cốt lõi mang tính nền
tảng cho việc vạch ra một phương pháp quản lý tối ưu nhất với vấn đề tưởng
chừng như nan giải này.


-8-


III. Nguyên nhân của thực trạng và những nguy cơ tiềm ẩn
a.Nguyên nhân
Quá trình đô thị hóa nhanh, khiến cho người nông dân tại các vùng ngoại vi
đô thị không kịp thích ứng và chuyển đổi kịp phương thức kinh tế. Mặt khác,
người dân ở những vùng này vốn là những người nghèo khó, không có trình độ và
kỹ năng nghề nghiệp…do đó, khi mất đất nông nghiệp, hoặc không có đất nông
nghiệp để canh tác, họ buộc phải tìm kiếm một giải pháp khả thi đem lại thu nhập
cho nền kinh tế gia đình nhằm đáp ứng những nhu cầu sinh tồn của cá nhân và gia
đình.
Hoạt động kinh doanh này tuy đem lại những khoản thu nhập không đáng
kể so với những chi phí đắt đỏ tại các đô thị lớn, nhưng tạo ra công ăn việc làm
cho những người lao động nhập cư vừa thiếu vốn, thiếu tri thức và kỹ năng cũng
như các vốn xã hội khác. Do đó, đây là công việc duy nhất mà người nghèo nhập
cư có thể làm để đáp ứng nhu cầu sinh tồn của bản thân và gia đình họ trong điều
kiện “vô gia (không nhà), vô nghệ (không nghề), vô quyền (không quyền hạn)”.
Khoản thu nhập này vừa có thể giúp cho họ tiếp tục tồn tại và mưu sinh tại những
đô thị đắt đỏ vừa có thể giúp cho những người thân sống ở quê nhà trang trải một
phần, hoặc toàn phần cuộc sống. Vì vậy, có thể thấy, hoạt động bán hàng rong đối
với những người nghèo nhập cư ở đô thị có một chức năng hết sức quan trọng, giải
quyết công ăn việc làm cho phần lớn người nghèo và người thân của họ.
Sự đa dạng trong hoạt động mua bán và dịch vụ khiến cho thành phần bán
hàng rong ở các đô thị cũng trở nên đa dạng, chủ yếu là những người trung niên, ít
học; một số thanh niên không có học vấn không thể vào làm tại các khu công
nghiệp; người già và trẻ con, những người không được nhận vào bất cứ vị trí làm
việc nào, nhưng vẫn có nhu cầu tồn tại và giúp đỡ gia đình.
Xét về mặt nào đó, bản chất của một đô thị là nơi diễn ra các hoạt động
thực sự của kinh tế thị trường. Có cung nhất thiết phải có cầu. Người nghèo đô thị
chiếm phần lớn trong đời sống đô thị, những chi phí đắt đỏ của các hoạt động mua



-9-

bán tại các hàng quán, siêu thị, cửa hàng trở thành một thách thức với khoản thu
nhập “eo hẹp” của họ. Do đó, hàng rong trở thành một cứu cánh đáp ứng kịp thời
những nhu cầu thiết yếu của người nghèo đô thị. Ngoài ra tính “linh hoạt” và “di
động” cao của hoạt động bán hàng rong trở thành một ưu điểm giúp cho hoạt động
này vừa được sự ưa chuộng của phần đông người tiêu dùng có thu nhập thấp vừa
khiến cho người bán hàng rong có thể phản ứng nhanh trước các chính sách quản
lý đô thị kèm theo các hoạt động cưỡng chế.
Tựu chung lại, ta có thể thấy được một vòng tuần hoàn của hoạt động bán
hàng rong trên địa bàn các đô thị lớn như sau:

Nhu cầu sinh tồn
của người nghèo
đô thị

HÀNG RONG

Nhu cầu tiêu dùng
của người nghèo
đô thị

b. Những nguy cơ tiềm ẩn
Tuy hàng rong, nhìn từ góc độ kinh tế – xã hội, nó có một chức năng quan
trọng về kinh tế nhằm thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn và tiêu dùng của người
nghèo đô thị. Nhưng hoạt động này cũng tiềm ẩn những nguy cơ và rủi ro rất cao,
là một hoạt động gây nhiều cản trở cho sự quy hoạch, chỉnh trang và mỹ quan đô
thị.
* Về phía bản thân người bán hàng rong:

- Họ chịu nhiều tổn thương về định kiến, về sức khỏe do phải tiếp xúc trực
tiếp với sự ô nhiễm môi trường (không khí, bụi bẩn, rác thải…).
- Hoạt động hàng rong là hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ, tính ổn định không
có, sự bấp bênh trong thu nhập cao.


- 10 -

- Người lao động phải bỏ ra rất nhiều sức lực cho sự di động cao, mau
xuống sức, dễ bệnh tật.
- Dễ gặp tai nạn do cản trở giao thông.
- Không được hưởng các chính sách của xã hội, không được bảo vệ bởi
pháp luật.
- Bị ức chế tâm lý khi luôn phải tìm cách đối phó với sự quản lý của chính
quyền.
* Về phía người tiêu dùng:
- Không được bảo đảm chất lượng, vệ sinh và an toàn thực phẩm khi sử
dụng hàng hóa từ những gánh hàng rong (bản thân người bán không có ý thức đảm
bảo, cơ quan chức năng không thể quản lý)
- Mua đắt hơn thực tế giá trị của hàng hóa. Người nghèo thường không đủ
sức để mua cùng lúc một sản phẩm, họ thường có tâm lý mua từng ít một để tiết
kiệm chi phí, nhưng thực tế, những người bán hàng rong thường mua lại hàng hóa
với giá bán lẻ của thị trường, rồi chia nhỏ ra, bán với giá chênh lệch để sinh lợi.
- Dễ mắc bệnh truyền nhiễm từ người bán và hàng hóa.
* Về phía đô thi
Hàng rong tạo ra những mặt trái cho quá trình phát triển đô thị nhiều hơn
những yếu tố tích cực. Nó tạo cho đô thị một dáng vẻ:
- Nhếch nhác, bẩn thỉu, mất trật tự
- Ơ nhiễm mơi trường đơ thị
- Tắt nghẽn giao thông đô thị

- Khó khăn trong thiết lập và quy hoạch cảnh quan đô thị bởi ý thức của
người bán hàng rong rất thấp
- An ninh trật tự xã hội diễn biến phức tạp.
IV. Những đề xuất cho các giải pháp ứng xử với hàng rong ở đô thi


- 11 -

Về phương diện phát triển xã hội, hạn chế và đi đến giải quyết triệt để sự
tồn tại của hàng rong là một tất yếu có tính khách quan đối với các đô thị. Tuy
nhiên cần có một lộ trình để giải quyết từng bước vấn đề này.
Thứ nhất, cần nhận thức rằng, đô thị là địa bàn sinh sống và làm việc của
tất cả mọi người, do vậy nhất thiết cần tôn trọng sự tham gia (Participatory) của
cộng đồng cư dân trong tiến trình đô thị hóa. Chính quyền đô thị cần có chính sách
và cơ chế kiểm soát nguồn dân nhập cư để có những định hướng trong các chính
sách ổn định, sắp xếp và quy hoạch công việc phù hợp cho những người nghèo
nhập cư vào đô thị có thể an tâm kiếm sống.
Thứ hai, tồn tại của hàng rong trong đô thị là một hiện tượng chịu nhiều sự
tác động của quá trình đô thị hóa nhanh và sự chênh lệch về kinh tế giữa thành thị
và nông thôn. Trong các chính sách đô thị hóa, cần quan tâm đến khả năng chuyển
đổi và thích nghi của người dân, tránh những “cú sốc” đô thị hóa, đồng thời, cũng
quan tâm cân bằng phát triển kinh tế, giảm thiểu sự chênh lệch về phát triển kinh
tế, nhằm tránh cho các đô thị sự gia tăng “đột biến” số lượng dân nhập cư. “Việc
phát triển bền vững của đô thị phải luôn đặt nó trong một mối quan hệ hữu cơ gắn
bó với các vùng ngoại vi và nông thôn bao quanh. Đô thị không thể phát triển một
cách đơn độc và càng không thể chỉ là những khối bê tông vô hồn”8
Thứ ba, đối với những chính sách có tác động trực tiếp đến cuộc sống của
người nghèo, cần có sự tuyên truyền rộng khắp, liên tục, xuyên suốt để người dân
hiểu được bản chất của chính sách, trước khi áp dụng các phương thức chế tài.
Thứ tư, khảo sát và quy hoạch thành khu vực kinh doanh ở các điểm trung

tâm, di tích và du lịch cho các đối tượng hàng rong nhằm giúp cho quá trình quản
lý được thuận tiện hơn.
Thứ năm, thiết lập đội ngũ thi hành các biện pháp quản lý có kỹ năng,
nghiệp vụ và văn hóa trong giao tiếp ứng xử, biết tôn trọng người dân.

8

Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thị, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, 2005, tr
156.


- 12 -

Thứ sáu, tại các khu công nghiệp, các khu dân cư lao động, các xí nghiệp,
nơi có nhiều người nghèo sinh sống, cần xây dựng các chợ nhỏ có thiết kế khu vực
kinh doanh phù hợp, có ưu đãi về mức thuế, có giáo dục về ý thức môi trường và
vệ sinh an toàn thực phẩm để người nghèo có thể mua bán, trao đổi hàng hóa trong
hiểu biết và điều kiện của cá nhân mình.
Thứ bảy, cụ thể hóa thành chi tiết các quy định trong quản lý đô thị để
người dân dễ tiếp cận, dễ hiểu, dễ thực hành, để đội ngũ quản lý cơ sở dễ quản lý,
không gây phiền hà và xung đột với người dân.
Thứ tám, các chính sách cần hướng đến tính nhân văn, nhân đạo, hiểu biết
và cảm thông với người nghèo hơn là mang tính áp đặt, sẽ dễ được chấp nhận
hơn….
Người nghèo nói chung và người nghèo ở đô thị nói riêng là những đối
tượng dễ bị tổn thương và dễ bị cô lập về mặt xã hội. Do đó, các chính sách dành
cho người nghèo cần thiết thực, cụ thể, tế nhị….và luôn tạo cảm giác an toàn cho
người tiếp nhận chính sách.
Thực tế cho thấy, giải quyết các vấn đề có liên quan đến nghèo đô thị, đặc
biệt là với đối tượng bán hàng rong là một vấn đề nan giải và phức tạp đối với

chính quyền các đô thị lớn. Tuy nhiên, đây là vấn đề có tác động lớn đối với quá
trình quy hoạch và phát triển đô thị, vì thế không thể không quan tâm đến vấn đề
này trong quá trình xây dựng và phát triển đô thị theo hướng hài hòa và bền vững.


- 13 -

Tài liệu tham khảo
1. Nhiều tác giả, Những vấn đề của phát triển không gian đô thi, Nxb Đại học
quốc gia TPHCM, 2005.
2.Trung tâm nghiên cứu Phát triển Đô thị và Cộng đồng, Văn hóa truyền thống
trong phát triển đô thi, Nxb Đại Học Quốc gia TPHCM, 2004.
3. Nguyễn Minh Hòa, Tiếp cận đa chiều tới vấn đề trật tự đô thi, Tuổi trẻ Chủ
Nhật ngày 20/04/2003.
4. Nguyễn Văn Tài, Di dân tự do nông thôn – Thành thi ở TPHCM, Nxb Nông
nghiệp TpHCM, 1998.
5. Lương Hồng Quang (chủ biên) Văn hóa của nhóm nghèo ở Việt Nam thực trạng và
giải pháp, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2001.
6. Nguyễn Quốc Việt, Vấn đề nghèo trong khu vực kinh tế phi chính thức ở thành
phố Hồ Chí Minh. Trích trong Nguyễn Thế Nghĩa, Mạc Đường, Nguyễn Quang Vinh
(đồng chủ biên): “Vấn đề giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí
Minh”, Nxb, Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001.



×