1
thân cò lặn lội
NHIỀU TÁC GIẢ
Ngọc Thạch
Sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn
THƯƠNG HUYỀN
NHÀ XUẤT BẢN
THÔNG TẤN
2
cho tròn chữ hiếu
3
thân cò lặn lội
4
cho tròn chữ hiếu
5
thân cò lặn lội
CHỮ HIẾU, MỘT GIÁ TRỊ VĨNH HẰNG
Gs. Tương Lai
Có một giá trò xuyên thời gian và không
gian, từ khi con người xuất hiện trên trái đất
cho đến khi trái đất còn con người. Đó là tình
mẫu tử, là ơn sinh thành, đức dưỡng dục
mà mỗi một con người trân trọng đúc kết và
nâng niu thành chữ hiếu. Chữ hiếu ấy, triết
lý phương Đông nâng lên thành đạo, dẫn dắt
mọi ứng xử của con người trong xã hội thành
đạo hiếu, một giá trò vónh hằng.
Trong sâu thẳm tâm hồn con người luôn lung
linh một ánh sáng mang tính vónh hằng, đó là
ánh mắt trìu mến của mẹ. Với nhiều người, kể
cả những người tuổi đã cao, thì dù mẹ khuất
núi, ánh sáng từ đôi mắt mẹ vẫn ấm áp chiếu
rọi con đường đời của họ.
Trong cuộc đời mỗi con người, có bao nhiêu
giá trò được hồ hởi tiếp nhận rồi bò lạnh lùng
vứt bỏ. Có những giá trò thời thượng cứ tưởng
như ồn ào cuốn hút không dứt, nhưng rồi chúng
nhanh chóng bò lãng quên. Nếu như quên hẳn,
thì cũng chỉ còn là những vang bóng tình cờ
được hững hờ nhắc lại. Mà nhắc lại như hoài
niệm về một thời ấu tró bò choáng ngợp trước
6
cho tròn chữ hiếu
7
thân cò lặn lội
những ảo ảnh hào nhoáng, như những lấp
loáng phản quang bong bóng xà phòng được trẻ
con thổi ra, lóe lên phút chốc dưới ánh mặt
trời, và nhanh chóng bục vỡ, tan biến. Rồi với
thời gian và sự trải nghiệm trên đường đời,
người ta sẽ ngày càng nhận được những chân
giá trò mà nếu thiếu, con người không thể sống
nổi làm người. Trong những giá trò ấy, nhiều
người xếp chữ hiếu lên hàng đầu.
Và vì mỗi một người đều được một mẹ sinh
ra, nên dù được sinh ra nơi nhà cao cửa rộng,
lầu son gác tía hay sinh ra dưới mái tranh
nghèo xiêu vẹo dột nát, thì tiếng khóc chào đời
nào cũng gắn với một bầu sữa mẹ. Nghóa tình
sâu nặng của mẹ, mỗi con người được uống từ
bầu sữa thiêng liêng ấy. Cái đó tạo nên giá trò
vónh hằng vừa nói.
Giá trò thiêng liêng ấy do tạo hóa ban tặng
cho con người. “Công cha như núi Thái Sơn.
Nghóa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra”, đó là đạo lý ngàn đời không lay chuyển
được. Công cha nghóa mẹ, ơn sinh thành, đức
dưỡng dục mà mỗi con người được nhận lónh để
nên người chính là báu vật trời cho. Những
ai chẳng may không nhận lónh được trọn vẹn,
hoặc tự đánh mất ân huệ ấy, thì quả là nỗi
bất hạnh lớn nhất của một đời người. Hai chữ
nên người rất dung dò, cứ tưởng như đơn giản,
song ngấm sâu vào sẽ ngộ ra rất nhiều điều.
Lọt lòng mẹ, báu vật được tạo hóa ban tặng
đó sẽ từ dòng sữa mẹ mà tự trở thành con
người. “Con người tự sản sinh ra mình”,
Hegel, nhà triết học lớn người Đức, nêu lên
luận điểm tuyệt vời thâu tóm được quá trình
xã hội hóa (hiểu theo đúng nghóa đích thực
của chuyên ngành xã hội học chứ không phải
là “xã hội hóa” được hàm nghóa như người ta
đang dùng tràn lan hiện nay) để con người từ
một thực thể tự nhiên trở thành một thực
thể xã hội.
Nếu đứa trẻ vừa sinh ra được đưa vào nuôi
trong nhà kính – một thứ “ống nghiệm” – tách
khỏi cuộc sống xã hội của con người, thì thực
thể tự nhiên ấy cũng sẽ lớn lên, nhưng không
có tư duy vì không biết nói, không có ngôn ngữ –
công cụ của tư duy – đồng nghóa là thực thể
đó không có ý thức, cái làm nên thuộc tính
người. May thay, nhờ sự công bằng và sòng
phẳng của tạo hóa, quá trình “tự sản sinh ra
mình” được khởi đầu từ dòng sữa mẹ. Chẳng
thế mà các cụ ta đã đúc kết: Cha sinh không
bằng mẹ dưỡng!
Bú mẹ, bé đã bú vào mình dưỡng chất đặc
biệt của mẹ truyền cho, những dưỡng chất mà
khi còn là bào thai trong bụng mẹ, bé đã được
tiếp nhận. Phải hiểu rằng từ trong cơ thể mẹ,
dưỡng chất đặc biệt đó được chưng cất từ sự
sống người, của con người, của loài người từ
8
cho tròn chữ hiếu
9
thân cò lặn lội
khi loài người xuất hiện. Sự sống ấy hàm chứa
trong nó tri thức và kinh nghiệm sống của loài
người. Nhờ đó, từ dòng sữa mẹ, giúp tạo ra
trong bé những phẩm tính người của con
người xã hội. Phẩm tính người ấy, khi còn
là bào thai trong bụng mẹ, chỉ là chất vô thức
– người từ cơ thể của mẹ truyền cho. Chất vô
thức – người, nhân tố huyết thống tự nhiên
ấy đã đònh hình phẩm tính người, khu biệt
rạch ròi với mọi thực thể tự nhiên khác. Phẩm
tính ấy rõ dần lên trong quá trình con người
tiếp xúc với môi trường xã hội, khởi đầu từ
mối liên hệ giữa bé và mẹ, rồi tiếp đấy là bố, là
gia đình, cộng đồng xã hội đầu tiên.
Từ cộng đồng xã hội đầu tiên đó mà quá
trình con người trở thành con người xã hội
được khởi động và hoàn thành trong sự tiếp xúc
dần với những cộng đồng lớn hơn: hàng xóm
láng giềng, nhà trường, các hội đoàn… và xã hội
rộng lớn. Tất cả những điều ấy cho thấy: Tự
nhiên không trực tiếp sinh thành ra con
người theo nghóa đích thực của nó. Tạo hóa chỉ
ban cho thực thể tự nhiên những tiền đề sinh
thể để con người tự tác thành nên chính mình
trong quá trình xã hội hóa, tức là quá trình
con người tự sản sinh ra chính mình, trở
thành con người xã hội.
Phải dẫn dắt hơi dài dòng vì đã có một sự
ngộ nhận, hoặc thiếu minh bạch, khi chúng ta
quen dùng khái niệm “gia đình là tế bào xã
hội” một cách đơn giản như đã quy ước, một
khái niệm mà đã đi vào các văn bản pháp luật,
đònh hình những pháp quy. Bên cạnh sự đúng
đắn của những ước lệ đã được quy phạm hóa và
được sử dụng phổ biến ấy, cần phải thấy rằng,
nếu “gia đình là tế bào của xã hội” thì đó là một
tế bào đặc biệt mà tính huyết thống, làm
nên nét đặc biệt đó. Hơn nữa, gia đình là một
cộng đồng khác hẳn với tất cả các cộng đồng
xã hội khác không chỉ ở tính huyết thống mà
còn ở tính không chọn lựa. Không ai có thể
chọn cửa mà sinh ra, chọn lựa cha mẹ. Xã hội
càng phát triển, mức sống của con người càng
được cải thiện thì việc nuôi con sẽ bớt nhọc
nhằn nhờ vào những tiện nghi vật chất và tiến
bộ của công nghệ thực phẩm dinh dưỡng cho
trẻ em và dòch vụ hướng vào con trẻ cùng với
những thành tựu y học, nhưng sự dạy con sẽ
khó khăn phức tạp hơn rất nhiều. Lo cho con
đủ ăn, đủ mặc đối với đông đảo người dân đã
khó, chăm sóc đời sống tinh thần, những phẩm
tính văn hóa cho con càng khó hơn nhiều.
Chớ quên rằng “sữa nuôi phần xác, hát
nuôi phần hồn” (thơ Nguyễn Duy). Cái phần
“hồn” ấy mới mong manh, sống động, mãnh
liệt, nhưng cũng dễ bò thương tổn biết bao. Vậy
mà, không có cái phần “hồn” ấy thì phần “xác”
còn có nghóa lý gì? Chăm sóc đời sống tâm hồn
10
cho tròn chữ hiếu
11
thân cò lặn lội
của bé khó hơn rất nhiều so với lo cho chúng
“hay ăn, chóng lớn”. Ấy vậy mà, cái nôi hình
thành nhân cách cho con người lại chính là
đây. Theo học giả Nguyễn Khắc Viện, “có thể
nói sau 5, 6 tuổi, tính tình con người đã hình
thành, giáo dục khó mà biến đổi”. Thật chí lý
khi ông khuyên “Để cho trẻ sống hoàn toàn
đầy đủ thời thơ ấu của nó, sau này lớn lên nó
sẽ sống đời người lớn một cách hoàn toàn đầy
đủ”. Muốn “Để cho trẻ sống hoàn toàn đầy đủ
thời thơ ấu của nó” thì người lớn, trước hết là
cha mẹ của bé, phải có một nỗ lực rất lớn, nhất
là trong bối cảnh hiện nay. Chính ở đây, gia
đình có một vò trí đặc biệt.
Gia đình Việt Nam nói riêng và gia đình
phương Đông nói chung là một thiết chế
đònh hình sớm nhất và cũng ít biến đổi nhất.
Tính bền vững không mấy đổi thay ấy là sản
phẩm của nền kinh tế nông nghiệp kéo dài
triền miên. Quá trình chuyển sang kinh tế thò
trường tạo ra những yếu tố có sức công phá vào
thành trì của mô hình ứng xử trong mối quan
hệ đẳng cấp và phận vò của lề thói gia trưởng
trong khuôn mẫu gia đình được áp đặt vào xã
hội trước đây.
Mặt khác, vấn đề cá nhân – công dân
chính là vấn đề nền tảng của xã hội hiện tại.
Cũng trên ý nghóa đó, giải phóng cá nhân là
động lực tinh thần của hiện đại hóa. Các “con
em trong gia đình” cũng đồng thời là những
“thành viên của xã hội”. Tuy vậy, không thể
đem cách ứng xử trong mối quan hệ gia đình
áp dụng vào trong quan hệ xã hội, và ngược
lại, cũng không thể áp đặt những chuẩn mực
ứng xử xã hội vào trong ứng xử gia đình. Các
thành viên trong gia đình gắn bó với nhau
trong mối thâm tình máu mủ, ruột rà. Không
thấy rõ điều ấy, ắt khó mà hiểu rõ cái đạo
làm người: Đạo hiếu.
Chẳng hạn, trong Luật Hôn nhân và Gia
đình ở mục 4, Điều 2 của Chương I có ghi rõ
nghóa vụ của con cháu đối với ông bà, cha mẹ,
các thành viên trong gia đình có nghóa vụ
quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau. Nghóa vụ
ấy mang tính pháp lý, người vi phạm sẽ bò
pháp luật trừng phạt. Nghóa vụ ấy cũng hàm
chứa nội dung của hiếu nghóa. Thế nhưng,
nội dung của hiếu nghóa trong chữ hiếu, trong
đạo hiếu mà chúng ta đang bàn, có nội hàm
rộng hơn nhiều, vượt quá những điều quy đònh
về “nghóa vụ” ấy, đặc biệt là ở hàm lượng tình
cảm được chứa đựng trong nó.
Khi thực hiện đạo hiếu, con người vừa thực
hiện nghóa vụ làm người, điều mà pháp luật
đã quy đònh, và quan trọng hơn nữa, thực hiện
tình cảm đạo đức của con người. Đương
nhiên, trong nghóa vụ cũng có nghóa vụ
pháp lý và nghóa vụ đạo đức, hai điều đó
12
cho tròn chữ hiếu
13
thân cò lặn lội
không mâu thuẫn nhau, không đối lập và loại
trừ nhau, song không đồng nhất. Nếu so sánh
một cách hơi thô thiển thì nghóa vụ đạo đức
cao hơn, vì ở đây, vừa phải có ý thức về nghóa
vụ lại vừa phải làm cho ý thức về nghóa vụ
ấy được nâng lên để chuyển thành tình cảm
nghóa vụ. Mà đã là tình cảm, thì phải là do
sự thôi thúc từ bên trong, do tiếng gọi của con
tim, chứ không chỉ là do sự thúc ép từ bên
ngoài (ví như dư luận xã hội hay là luật pháp),
mặc dầu áp lực đó cũng rất quan trọng trong
việc hình thành phẩm cách của con người.
Khi cháu con thực hiện đạo hiếu trong ứng
xử hằng ngày với ông bà cha mẹ, nếu chỉ đơn
thuần là theo quy đònh của nghóa vụ mà
không phải là do sự thôi thúc của tình yêu
thương, theo nhòp đập của trái tim nhân
hậu thấm đượm tình máu mủ ruột rà, thì
khó có sự chân tình và nhuần nhò trong lời ăn
tiếng nói, trong cử chỉ hành vi, trong ánh mắt
nụ cười vốn không thể có một khuôn mẫu, một
chuẩn tắc nào đònh sẵn. Đọc kỹ mấy tập sách
nói về con cháu thảo hiền, tập hợp những
câu chuyện sống động và giản dò về những tấm
gương hiếu thảo, những giọt sáng lung linh góp
thành sức tỏa sáng của đạo hiếu truyền thống
trong cuộc sống của chúng ta hôm nay sẽ thấy
ngay điều ấy.
Từ một câu hỏi đầy ưu tư của bạn đọc gửi
đến báo Đại Đoàn Kết cách nay đã hơn 15
năm, vào tháng Giêng năm 1991: “Giữa thời
buổi kinh tế thò trường này chữ Hiếu còn
hay mất”, vấn đề được đặt ra trên bình diện
sinh hoạt tinh thần của xã hội, khơi dậy những
bức xúc dồn nén trong không ít tâm tư, tình
cảm của đủ loại lứa tuổi, song có lẽ nhiều nhất
ở những bậc cao tuổi tự vấn về sự suy thoái
của một biểu hiện đạo lý xã hội có tác động
trực tiếp từ lớp người này. Báo “Đại Đoàn Kết”
mở trang mục “Tâm sự người cao tuổi qua
những cánh thư” về sau đổi thành “Tâm sự
cùng con cháu”. Để rồi từ năm 1993, cuộc
thi “Viết về Ông Bà Cha Mẹ của chúng
ta” đã xác lập mối quan hệ hai chiều trao đổi
tâm sự giữa các bậc cao niên và lớp trẻ. Những
trang báo đã là những thông điệp cởi mở gửi
đến các tầng lớp nhân dân, đánh thức những
ấp ủ kín đáo trong tâm tình của nhiều thế hệ,
thổi bùng lên ngọn lửa tình người qua các cuộc
vận động “Bình chọn con cháu hiếu thảo” từ cơ
sở để tiến tới cuộc Liên hoan tôn vinh đại
biểu con cháu hiếu thảo của cả nước. Kể
từ tháng 12-1995 cho đến nay, đều đặn 4 năm
một lần, cuộc liên hoan cảm động và đầy ý
nghóa ấy được tổ chức. Và hôm nay, những tấm
gương hiếu thảo từng được tôn vinh qua các
cuộc liên hoan ấy cùng những mẩu chuyện cảm
động được kể lại và được tuyển chọn giới thiệu
14
cho tròn chữ hiếu
15
thân cò lặn lội
trong các tập sách này.
Có một sự thật cần phải nói rõ ngay từ đầu:
tập sách này, cho dù có cố gắng đến đâu cũng
chỉ giới thiệu được một trong những nét sống
động về đạo hiếu tình người vốn là chất xi
măng gắn kết những phẩm tính tốt đẹp làm
nên nét đẹp sâu lắng của xã hội ta. Không có
cái đó, mà chỉ rặt toàn những đâm thuê chém
mướn, ma túy, mại dâm, tham nhũng áp bức,
đồng tiền thao túng, những cuộc “chạy” quanh
những chiếc ghế quyền lực để có lợi và danh…
thì sự ngột ngạt ấy sẽ dìm chết con người.
Nhưng không, những cái đó chỉ là bèo bọt và
váng bẩn nổi lên trên mặt nước, tuy dễ thấy,
tuy có làm vẩn đục dòng sông, song con sông
cuộc sống vẫn xuôi về biển cả do sức cuộn chảy
từ bên dưới.
Trong cuộc sống còn vô vàn cực khổ khó
khăn, vẫn bật sáng lên những tấm gương hiếu
thảo có sức lan tỏa làm xao động lòng người.
Qua những tập sách này, người đọc có thể thấy rõ
những nét chói lòa của tấm lòng hiếu hạnh dưới
mái tranh nghèo. “Bông hồng cho những
ai còn mẹ” kể chuyện một phụ nữ nghèo có
nhan sắc nhưng phải ở vậy nuôi mẹ nuôi em
vì điều kiện chò đưa ra cho những người dạm
hỏi “thương chò thì đồng ý phải cưu mang mẹ
và em gái chò suốt đời” không ai đáp ứng được.
Chò nói: “Tôi ít chữ nghóa, không học rộng hiểu
sâu được như nhiều người, nhưng tôi cũng hiểu
được công lao sinh thành của cha mẹ to lớn
lắm. Mình may mắn hơn bao nhiêu người là
còn có mẹ trên đời nên phải biết lo mà đền
đáp. Chứ tới khi mẹ mất thì dẫu tiền núi tiền
sông cũng không tìm lại được mẹ”. Nhà quá
nghèo, có khi chò phải nhòn để dành cơm cho
mẹ và em. Nhưng ước ao của chò là mỗi năm
đến mùa Vu Lan, chò được cài lên áo một bông
hồng đỏ thắm dành cho những người
đang còn mẹ!
Câu chuyện “Một học sinh nghèo đậu ba
trường đại học” nói về chàng trai hiếu thảo
và ham học ở xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang,
tỉnh Thừa Thiên - Huế. Khi lên Huế dự thi,
cậu nói với mẹ: “Con sẽ không để mẹ phải thất
vọng”. Ngày người mẹ nghèo cầm trên tay ba
tờ giấy nhập học của con trai đã chảy nước mắt
mà rằng: “Dù tiền nhập học của con phải chờ
vào mấy sào ruộng sắp gặt, nhưng nghèo khổ
mấy cũng phải lo cho con đi học!” Phải chăng
câu chuyện về chàng trai nghèo xứ Huế này là
sự kế tục sinh động của truyền thống hiếu học
của những ông Trạng ngày xưa phải đọc sách
bằng ánh sáng đom đóm và viết chữ trên mặt
cát. Lửa thử vàng, gian nan thử sức.
Nhà sử học người Anh, Arnold Toynbee,
được xem là nhà sử học lớn nhất của thế kỷ
XX, từng chỉ ra: “Thành công của con người
16
cho tròn chữ hiếu
17
thân cò lặn lội
thường là kết quả của sự chống trả đối với
thách thức. Thiên nhiên phải đến với con người
như một khó khăn cần phải vượt qua, nếu con
người chọi lại thách thức, thì sự chống trả của
nó tạo những nền tảng cho nền văn minh”. Từ
ý nghóa luận bàn về bản lónh của một dân tộc
và nền tảng của văn minh của Toynbee, thu
hẹp vào sự hình thành tính cách của con người
cũng như vậy! “Những quý tử đua xe, những
cậu ấm cô chiêu thời hiện đại” được cha mẹ
nuông chiều và sẵn tiền tham nhũng để mua
cho chúng chiếc ghế đại học như đã từng mua
cái ghế quyền lực cho mình, sẽ không thể có
được sự hiếu học và càng không thể có được
hiếu nghóa.
Bởi lẽ, hiếu học và hiếu nghóa, những phẩm
tính làm nổi rõ chất người trong tính cách
của từng người, dù được biểu hiện ở khía cạnh
dung dò nhất, vẫn là sự kết đọng của sức chống
trả những thách thức của ngoại cảnh để sống.
Thách thức càng nghiệt ngã thì sức chống trả
càng quyết liệt. Sự nghiệt ngã và tính quyết
liệt ấy làm nên vẻ đẹp tinh thần của con
người. Và cũng thật dễ hiểu, vẻ đẹp ấy ngời
lên trong khi người ta phải đổ mồ hôi, sôi nước
mắt để có được bữa cơm nghèo, thì bát cơm ăn
vào miệng vừa cay đắng vừa ngọt ngào vì có vò
mặn của nước mắt. Bàn tay đưa bát cơm nghèo
nhường cho mẹ già sáng tình người ấy dễ nhòe
đi trong ngôi nhà lộng lẫy chói chang ánh điện
cao áp và đèn chùm pha lê lấp lánh, nhưng lại
lung linh ngời tỏ dưới mái tranh nghèo thiếu
ánh điện.
Cùng với những câu chuyện cảm động của
tình mẹ con, bà cháu, đức hy sinh và nghò lực
của những người cha dành cho con và lòng biết
ơn thấm đẫm trong hành động kiên trì và quả
cảm của những đứa con vượt lên số phận, tập
sách còn đưa ra những câu chuyện mà biên độ
cảm xúc và sức thuyết phục của tình người
mở ra rất rộng, đưa chữ hiếu lên tầm mức
thật cao cả.
Chuyện một sinh viên nghèo chăm sóc mẹ
nuôi, là một trong những ví dụ cảm động về
điều đó. Từ bi kòch tận cùng của một người phụ
nữ bò ung thư phải sống nhờ trong bệnh viện
dưới sự cưu mang của cô hộ lý có tấm lòng vàng,
trải qua những kết nối kỳ lạ của thân phận con
người, bà nhận được ân tình cao cả và hiếu
nghóa của cậu con nuôi là một sinh viên nghèo,
“Câu chuyện cổ tích hiện đại về hai chữ
Hiếu - Sinh”. Rồi câu chuyện “Ông đại tá và
người mẹ 104 tuổi” lại gợi lên một nét thật
độc đáo của chữ hiếu, vừa bình thường dung
dò như chính cuộc sống hàng ngày ta vẫn gặp
nhưng lại vừa kỳ diệu của chính cuộc sống ấy.
Trong chiến tranh, người làng nói về ông đại
tá như một người anh hùng, chỉ huy cả binh
18
cho tròn chữ hiếu
19
thân cò lặn lội
đoàn xe tăng nghiền nát quân thù, còn bây
giờ họ nói về ông là nói về một người con hiếu
thảo, ngày ngày thay quần áo, tắm rửa, nấu ăn
cho mẹ già 104 tuổi, đêm đêm mắc màn kê gối
cho mẹ ngủ, ông vẫn nằm cạnh mẹ như cậu bé
của 73 năm trước để mẹ lại che chở cho ông!
Quả thật, với hình ảnh ông đại tá xe tăng thiết
giáp, ta hiểu sâu hơn câu triết lý của nhà triết
học cổ đại Aristote “Ta chẳng bao giờ trả xong
nợ với cha mẹ mình”.
Chữ hiếu, đạo hiếu trên mảnh đất thấm
đẫm máu và nước mắt của bao thế hệ Việt
Nam này còn có một nội dung vượt khỏi mọi
điều mà sách vở cổ kim Đông Tây thường bàn
đến: Chữ hiếu đối với các bà mẹ liệt só.
Câu chuyện “Ước gì có những người con
như anh” là một minh chứng sống động về
nội dung độc đáo này. Câu chuyện in đậm dấu
ấn của thời đại máu lửa, vừa giàu chất tráng
ca vừa giàu chất bi ca, và rồi phẩm cách của
con người nổi bật lên cao vời vợi trong hành
động nghóa tình theo nhòp đập trái tim nhân
ái của người thương binh, vốn là lính trinh
sát của một trung đoàn từng 3 lần được tuyên
dương là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân. Làm giám đốc một cơ sở thương binh, anh
dành dụm tiền để giúp đồng đội cũ, đi tìm được
gần một trăm ngôi mộ đồng đội rồi đưa hài
cốt về quê. Câu chuyện cảm động dừng lại ở
việc anh nhận phụng dưỡng một bà mẹ có ba
con là liệt só: “Mẹ ơi, các anh con đã hy sinh
cả rồi. Mẹ cho con được làm con của mẹ, thay
thế các anh phụng dưỡng mẹ lúc tuổi già”. Bà
mẹ liệt só nghẹn ngào “…Xin được nhận cháu
nó đây, coi như một đứa con của tui sống lại.
Biết bao đêm thao thức, tui cứ nằm nghó ngợi
và ước ao riết…” Rồi mẹ rờ nắn cánh tay anh,
ngước nhìn anh như thực như mơ trong nước
mắt. Câu chuyện kết thúc bằng một điều ước
của người kể: “Ước gì có thêm nhiều người con
như vậy để vơi đi nỗi đau tột cùng của các bà
mẹ Việt Nam”.
Chữ hiếu đang mở rộng biên độ của nó, và
vì thế, những câu “kinh điển” của Khổng Mạnh
như “Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà,
nhà gốc ở thân mình” hay “Nhà hòa thuận
êm ấm, bền vững là gốc rễ cho đất nước
an ninh” có thể vẫn đúng song chưa đủ.
Điều này dễ hiểu. Cuộc sống không ngừng
vận động. Đặc biệt là với những bước tiến như
vũ bão của khoa học và công nghệ cuối thế
kỷ XX bước vào thế kỷ XXI khiến cho kiểu
tư duy tuyến tính sẽ không phù hợp nữa cho
một thời đại phi tuyến tính với những biến
động và sức mạnh vượt trội bất ngờ, khiến
cho những ai chần chừ, còn tin rằng tương lai
chỉ sẽ là sự tiếp tục đơn giản của quá khứ, sẽ
sớm thấy mình hụt hẫng trước sự thay đổi. Họ
20
cho tròn chữ hiếu
21
thân cò lặn lội
buộc phải suy nghó lại: sẽ đi đến đâu và bằng
cách nào đi đến đó, khi mà có lẽ đã quá muộn
để tránh được điều không thể tránh. Chữ hiếu
cũng vậy thôi.
Cuộc sống đang mở rộng biên độ nội dung
của hiếu, cho nên, trong sự kế thừa phải biết
chọn lọc và nâng cao. Cần lưu ý rằng, như đã
nêu ở trên: Vấn đề cá nhân – công dân chính
là vấn đề nền tảng của xã hội hiện đại, cũng
trên ý nghóa đó, giải phóng cá nhân là động lực
tinh thần của hiện đại hóa. Do đó, cũng phải
có những biến đổi, theo đó nội dung của chữ
hiếu cũng không đứng yên, dậm chân tại chỗ.
Tính độc lập của gia đình và cá nhân đang dần
đònh hình và dần khẳng đònh. Có thể đây đó
có những biểu hiện thái quá, nhưng quá trình
này về cơ bản là đúng quy luật. Chữ Hiếu
hôm nay cũng phải được vận hành trong quỹ
đạo của hệ giá trò đó. Không thấy được những
biến đổi ấy, chúng ta sẽ lạc hậu với cuộc sống.
Song, nếu không nhận ra một cách sâu sắc cái
giá trò mang tính vónh hằng của chữ hiếu
trong cuộc sống của con người, chừng nào con
người vẫn còn tồn tại trên quả đất này, thì
cũng lại là một hụt hẫng nguy hiểm trong đời
sống tinh thần của xã hội. Vì, dù cho biên độ
của chữ hiếu có thu hẹp hay mở rộng đến đâu
thì cái cốt lõi của nó vẫn nguyên vẹn giá trò.
Cho nên khi người nhạc só tài hoa biết “Tạ
ơn hoa sáng thơm cho mẹ, tạ ơn chim
chiều hát cho cha” (Trònh Công Sơn) thì
chính người nghệ só thiên tài ấy đã nói hộ
chúng ta những ước ao thầm kín và sâu lắng
trong lòng đối với những đấng sinh thành, mà
với họ, mặt trời chỉ chiếu sáng cho mỗi đứa con
của mình. Chữ hiếu là một giá trò vónh hằng
là do đó.
Nhân ngày “Gia đình Việt Nam” 28.6.2008
22
cho tròn chữ hiếu
23
thân cò lặn lội