Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, VẬN DỤNG VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT TÔN GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 39 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐỒN KẾT DÂN TỘC, VẬN DỤNG VÀO THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐỒN KẾT TƠN
GIÁO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1


Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021

2


MỤC LỤC

3


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Đoàn kết , đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”. Câu
nói nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đi vào Cách mạng giải phóng dân tộc
Việt Nam như một khẩu hiệu chiến đấu thúc giục nhân dân ta quyết đấu tranh giành độc
lập nước nhà.


Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kỳ quý
báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để
dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển
bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã
sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. Với nhãn quan chính trị
sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơng
ngừng xây dựng, hồn thiện một hệ thống quan điểm về đại đồn kết dân tộc, tích cực
truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp
nhân dân, kể cả đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc.
Việc tìm hiểu quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc mang một ý
nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ trong thực tiễn mà cả trong công cuộc phát triển đất nước
sau này. Cũng chính vì lý do này nên nhóm chúng tơi đã chọn để tài tiểu luận “Quan điểm
của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. Vận dụng vào thực hiện chính sách đại đồn
kết tơn giáo ở nước ta hiện nay.” để làm rõ những quan điểm của mình đồng thời mang
lại cho người đọc có cái nhìn tổng quan, hiểu rõ về quan điểm đại kết dân tộc của chủ tịch
Hồ Chí Minh và cách vận dụng vào thực hiện chính sách đại đồn kết tôn giáo ở nước ta.
2. Đối tượng nghiên cứu

4


Sinh viên
3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và xác định cơ sở lý luận chung về quan điểm của Hồ Chí Minh về đại
đồn kết dân tộc. Làm rõ vấn đề vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc vào thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta hiện nay. Đưa ra các giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta hiện
nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

Thu thập thông tin: Đọc tham tham khảo, chọn lọc những bài báo từ Internet có
liên quan đến nội dung cần nghiên cứu, tổng hợp thông tin để phù hợp với mục đích của
tiểu luận.
Phương pháp quan sát: Quan sát tình hình tơn giáo ở nước ta hiện nay, các chính
sách của Đảng và Nhà nước. Nhằm đánh giá một cách trực quan nhất.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Để có được cơ sở hình thành, nội dung, ý nghĩa ,
cái nhìn tổng quan, chính sách. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo ở nước ta hiện nay.

5


PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1.1 Cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và
được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn
kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo,
chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng
giai đoạn cách mạng.
1.1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có
một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta từ xưa đến nay, mỗi
khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và cướp nước”.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước gắn liền với ý
thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đồn kết dân tộc Việt Nam đã hình thành và củng
cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở
thành lẽ sống của mỗi con người Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào

vận mệnh của cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Nó là cơ sở của ý chí
kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của mỗi con người Việt
Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng và của mỗi cá
nhân trong quá trình dựng nước và giữ nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết
của dân tộc. Dù lúc thăng, lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết
của dân tộc Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua hàng
6


nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc của
ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam
là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Giá trị hàng đầu của văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đồn kết,
cố kết cộng đồng. Tình cảm tự nhiên của con người Việt Nam là: “Nhiễu điều phủ lấy giá
gương. Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Triết lý nhân sinh của dân tộc:
“Một cây làm chẳng nên non. Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Tư duy chính trị được
phản ánh: “Nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Văn hóa Việt Nam lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí
nhân thay cường bạo. Đó là nền văn hóa trọng đạo lý làm người, đề cao trách nhiệm cá
nhân với cộng đồng mà hàng đầu là bổn phận đối với Tổ quốc.
Văn hóa Việt Nam “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc", hướng về dân,
lấy dân làm gốc, “Chở thuyền là dân, lật thuyền là dân. Lật thuyền mới biết dân như
nước”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến “Hội nghị Diên Hồng”, những kiểu “tập hợp
bốn phương manh lệ”, “Phụ tử trên dưới một lịng, hịa nước sơng chén rượu ngọt ngào”.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa khoan dung hịa hợp. hịa đồng. Điểm này có
nguồn gốc từ cội rễ của văn hóa Việt Nam là mọi người Việt Nam cỗi gốc tích, tổ tiên
chung. Điều này đã được Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh khi nói về con Lạc cháu
Hồng, con Rồng cháu Tiên. Người nhấn mạnh:
“Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Kể năm hơn bốn ngàn năm,
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta.
7


Nước ta lúc đó gọi là Văn Lang”.
1.1.2 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
“Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là lãnh đạo cách
mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn
của cách mạng. Chủ nghĩa Mác-lênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự
giải phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân
với nông dân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu
khơng có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên phong của
nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể thực hiện được”1.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa
học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các di sản
truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và
các nhà cách mạng lớn trên thế giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn
kết dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là minh chứng hùng hồn
cho tính đúng đắn của tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mac - Lênin. Cách mạng Nga
chỉ ra rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người làm nên
lịch sử. Giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải đi từ chiến lược “giai cấp vô sản tất cả
các nước đoàn kết lại!” tới chiến lược “giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp
bức đoàn kết lại!”. Đoàn kết trong học thuyết Mác - Lênin lấy giai cấp công nhân và nông
dân làm nền tảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế. Lênin là tấm gương
sáng chói về thực hành đồn kết, đồn kết trong nước, đồn kết quốc tế. hiện thân cho
tình anh em bốn bể. Có thể nói những quan điểm đồn kết trong học thuyết Mác - Lênin


1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Liên Đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình.

8


là cơ sở tư tưởng lý luận quan trọng nhất, bởi nó khơng chỉ trang bị thế giới quan, phương
pháp luận, mà còn chỉ ra những phương hướng rõ ràng trong q trình thực hiện đồn kết.
1.1.3 Tinh hoa văn hóa phương Đơng, phương Tây
Văn hóa phương Đơng trong đó có Nho giáo, Phật giáo, bên cạnh nhiều điều
khơng hợp lý, có nhiều điểm tích cực.
Chẳng hạn thuyết Đại đồng và tư tưởng bình đẳng về tài sản của Nho giáo. Theo
Khổng Tử, “thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có
khơng đều”. Quan điểm "nước lấy dân làm gốc" (quốc dĩ dân vi bản) là của Nho giáo.
Trong Phật giáo cũng có những điểm hay. Ví dụ tư tưởng “đại từ, đại bi, cứu khổ cứu
nạn”, “cầu đồng tồn dị” (tìm cái chung chế ngự cái khác biệt) mang sức mạnh đồn kết.
Văn hóa phương Tây được Hồ Chí Minh khai thác ngay từ lúc còn học trên ghế
Trường Quốc học. Sau này trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài. Người đã chọn
lọc những hạt nhân hợp lý trong Tuyên ngôn độc lập của cách mạng tư sản Mỹ. trong
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền từ cách mạng, tư sản Pháp. Người đã học được tư
tưởng, phong cách dân chủ phương Tây, khai thác tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, chủ
nghĩa nhân văn từ các triết gia tư sản trong Thế kỷ ánh sáng. Giá trị văn hóa phương Tây
đã góp phần làm giàu trí tuệ Hồ Chí Minh.
1.1.4 Phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, cùng với những nội dung
về lý luận tư tưởng, phải kể tới những phẩm chất cá nhân Hồ Chí Minh trên các phương
diện đạo đức, trí tuệ, bản lĩnh. Hồ Chí Minh là lãnh tụ quyết tâm suốt đời hết lòng, hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, đến khi phải từ biệt thế giới này,
khơng có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều
hơn nữa. Người thương dân, trọng dân, kính dân, tin tưởng nhân dân: hiểu rõ dân tình,

dân tâm, dân ý, chú trọng tới dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ. Vì vậy, Người được
9


dân tin, dân phục, dân yêu. Lòng thương yêu nhân dân là điểm tựa cho mọi sáng tạo của
Hồ Chí Minh trong việc tổ chức và thực hiện nhiệm vụ đoàn kết dân tộc.
1.1.5 Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào cách
mạng Việt Nam và thế giới.
Khơng chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận sng, tư tưởng này cịn xuất
phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bơn ba khảo nghiệm ở nước ngồi của
Hồ Chí Minh.
a. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc
mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong kiến chỉ có những cuộc đấu tranh
thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với
tư tưởng “Vua tơi đồng lịng, anh em hịa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân
để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử này đã tác động mạnh
mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như những bài học lớn cho sự hình thành tư
tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn cơng bán đảo Sơn Trà, từ đó, các phong trào yêu
nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Hồ Chí
Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đoạn
này. Đây cũng chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà
Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
b. Thực tiễn cách mạng thế giới

10



Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục. Cuộc khảo
nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận thức một sự thực:
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa có sự liên
kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa
biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí Minh đến bước
ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giành dân chủ
cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã
nghiên cứu để hiểu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài
học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách mạng
thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực lượng quần chúng cơng
nơng binh đơng đảo để giành và giữ chính quyền cách mạng.
1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc
1.2.1 Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm,
nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức cách mạng và tiến bộ, nhằm phát
huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh
vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây
dựng, củng cố, mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
a. Đại đồn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng của cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, đồn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta.
Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự
mình cứu lấy mình bằng cách mạng vơ sản. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách
11


mạng, có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng

cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được
Người coi là vấn đề sống cịn của cách mạng.
Đồn kết khơng phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản, nhất
qn, xun suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đồn kết quyết định thành cơng cách mạng. Vì đồn kết tạo nên sức mạnh, là then
chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh,
muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và
thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, qui mơ của đồn kết quyết định quy mơ,mức độ của
thành cơng.
Đồn kết phải ln được nhận thức là vấn đề sống cịn của cách mạng.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến tranh hiện đại lại
phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào
Việt Nam đã đồn kết như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tồn dân Việt Nam chỉ có
một lịng: Quyết khơng làm nơ lệ. Chỉ có một chí: Quyết khơng chịu mất nước. Chỉ có
một mục đích: Quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự
đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ quốc.
Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải
thất bại”. Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi của Cách
Mạng Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích: “ Vì sao có cuộc thắng lợi
đó"? Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực lượng của tồn dân
đồn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo là
cờ Việt Nam để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.Lực lượng tồn dân là lực lượng vĩ
đại hơn hết. Khơng ai thắng được lực lượng đó”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Sử dạy cho ta bài học này: Lúc
nào dân ta đồn kết mn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân
12


ta khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn”. Và Người khuyên dân ta rằng: “Dân ta xin
nhớ chữ đồng, đồng tình, đồng sức, đồng lịng, đồng minh” Đây chính là con đường đưa

dân ta tới độc lập, tự do.
b. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc”. Bởi vì, đại
đồn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng
có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vơ địch trong
cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
c. Đại đoàn kết dân tộc là đại đồn kết tồn dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con rồng cháu tiên,
không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng tín ngưỡng, khơng phân
biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo. Nói dến đại đồn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập
hợp mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “
ta đồn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây
dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự tổ quốc và phụng sự nhân dân
thì ta đồn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đồn kết tồn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân
nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lịng khoan dung, độ lượng với con người. Xác
định khối đại đồn kết là liên minh cơng nơng, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn
đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công nơng- lao động trí óc làm nền
tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn
kết dân tộc càng được mở rộng, khơng e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối
đại đoàn kết dân tộc.

13


d. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức là Mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc:
Một là: Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội mới có thêm

lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hai là: Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi
ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
Ba là: Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là:
“Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc, Người vạch
rõ: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác… Bất kỳ ai mà thật thà tán
thành hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống
chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người chỉ rõ: “Đồn kết là một
chính sách dân tộc, khơng phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài,
có đức, có sức, có lịng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”.
Người cịn nhấn mạnh: ”Đoàn kết rộng rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có
vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đồn kết phải
chống hai khuynh hướng sai lầm: cơ độc, hẹp hịi và đồn kết vơ ngun tắc”. Cũng tại
Đại hội đó, Người chỉ rõ: “Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai
mạc của Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của chung toàn
dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng không thể tả, một người đã
cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho khối đại đồn kết tồn dân. Hơm nay,
trơng thấy rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan
14


rộng khắp tồn dân, và nó có một cái tương lai “trường xn bất lão”. Vì vậy cho nên
lịng tơi sung sướng vơ cùng.” Người đã nói lên khơng chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn
mạnh của Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng cố
Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại đoàn kết dân tộc lâu
dài về sau. Điều này được thể hiện trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.

1.2.2 Ngun tắc đại đồn kết của Hồ Chí Minh
Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau, song chiến lược
đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh ln được xây dựng, hồn thiện và tuân theo
những nguyên tắc nhất quán sau.
a. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của
dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người
“Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác
nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác
nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có
thực hiện được hay khơng cịn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đồn
kết hay khơng và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế
nào. Ngun tắc đại đồn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy
những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn
và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đồn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách
biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Theo
Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, là
bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và
là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến

15


trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc
đó trong chiến lược đại đồn kết dân tộc của mình”2.
b. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được
Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa mác-Lênin, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức
mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng

nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm
được. Khơng có thì việc gì làm cũng khơng xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn
nghĩ mãi khơng ra”.
c. Đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đồn kết rộng rãi, lâu
dài, bền vững
Theo Hồ Chí Minh, có đồn kết mới tạo nên sức mạnh của cách mạng. Muốn đoàn
kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngồi
thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vơ sản ở mọi nơi. Như vậy, để đồn kết
và lãnh đạo cách mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách
là Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức, giữ mối liên
hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống nhất về chính trị và tư tưởng,
đảm bảo được vai trị đó, thì phải giữ vững bản chất của giai cấp cơng nhân, phải được vũ
trang bằng chủ nghĩa chân chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin:
”Để làm trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công
nhân, lấy liên minh cơng nơng làm nền tảng vững chắc để đồn kết các tầng lớp khác
2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, Liên Đoàn Lao động tỉnh Quảng Bình.

16


trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách mạng và đưa
cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định
hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ
Chí Minh về chiến lược đại đồn kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của
các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên
thế giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào cuộc đấu
tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất qn của Hồ Chí Minh.
d. Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc tự phê bình, phê

bình vì sự thống nhất bền vững
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng
cịn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo con đường đối thoại, bàn bạc để đi
đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc
phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu
đồng tồn dị”; mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng
cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đồn kết xi chiều, nêu
cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục những mặt chưa
tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng
phải nhất trí. Đồn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt
của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân”.
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống
nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ
tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hưđoớng đoàn kết
mà khơng có đấu tranh đúng mức trong khối đại đồn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách

17


mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã
hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
e. Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đồn kết quốc tế; chủ nghĩa u nước chân
chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân
Ngay khi thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành được thắng lợi hồn tồn khi có
sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong quá trình cách mạng, tư
tưởng của Người về vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn
và đầy đủ hơn. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới, với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân

chủ, tiến bộ và hồ bình thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành cơng 3 tầng
Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết, Thành
cơng, thành cơng, đại thành cơng. Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc.
Đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại đồn kết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện thành công là một nhân tố quyết định cách
mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam
lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
1.3 Ý nghĩa luận điểm
Đại đồn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc với cách
mạng nước ta. Tư tưởng của Người đã được phát huy cao độ trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam, từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể dân tộc.
18


Thực tiễn cách mạng Việt Nam 90 năm qua thể hiện sức sống kỳ diệu và sức mạnh
vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết, Từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ kính yêu
trở thành chiến lược đại đoàn kết của toàn Đảng và trở thành tình cảm, sức mạnh của cả
dân tộc. Sức mạnh đó là nguồn gốc làm nên thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm
1945, kháng chiến chống Pháp (1945-1954), chống Mỹ cứu nước (1954-1975). Trong hơn
30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc, vận dụng một cách
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc phù hợp với tình hình, yêu cầu và
nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng.
Tư tưởng đã để lại nhiều bài học giá trị, tập trung thể hiện ở những điểm chính sau:
Đồn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi thành cơng. Biết
đồn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, khơng đồn kết, chia rẽ là thất bại.
Đồn kết phải có ngun tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Khơng đồn kết một chiều,

đồn kết hình thức, nhất thời.
Đồn kết trong tổ chức, thơng qua tổ chức để tạo nên sức mạnh. Đoàn kết cá nhân và
đoàn kết tổ chức khơng tách rời nhau.
Đồn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ chức, từng thời kỳ.
Đồn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân dân.
Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả, hướng tới tương lai.
Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là biện pháp phát huy sức
mạnh của đảng, của toàn dân tộc.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết trong Đảng.
Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - Đoàn kết toàn dân - Đoàn kết quốc tế.

19


Đồn kết trong mọi chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước trên cơ sở bảo vệ và
tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc gia, dân tộc, quốc tế.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết tồn dân tộc là nội dung mang tính chiến lược
trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt
Nam, Tư tưởng và bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng mang tính thời sự, có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong bối cảnh đất nước ta đang chuyển mình mạnh mẽ để đón
nhận những cơ hội cùng thách thức lớn trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

20


Chương 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT
DÂN TỘC VÀO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐỒN KẾT TƠN GIÁO Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1 Thực trạng về tình hình tơn giáo nước ta hiện nay.

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tơn giáo cùng tồn tại lâu đời trong
lịch sử của dân tộc. Mặc dù đức tin, giáo lý và sự thờ phụng của đồng bào theo các tôn
giáo khác nhau nhưng đều có điểm tương đồng ở tinh thần dân tộc, truyền thống u
nước, truyền thống văn hóa và ln đồng hành cùng dân tộc cả trong cách mạng giải
phóng dân tộc trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Chính vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta ln khẳng định
chủ trương, chính sách nhất qn là tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
và tự do khơng tín ngưỡng tơn giáo của đồng bào các dân tộc.
Việt Nam hiện nay có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận.
Mỗi tơn giáo có giáo lý, giáo luật riêng nhưng đều chung đường hướng hành đạo gắn bó
với dân tộc, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. Đảng và Nhà nước ta từ khi thành lập
ln nhất qn chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của người dân, tạo
điều kiện để các tôn giáo hoạt động và tham gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số linh mục đi ngược lại đạo và đời, cấu kết với
các thế lực phản động trong và ngồi nước chống phá Nhà nước:


Nguyễn Đình Thục trong vai là linh mục quản xứ Song Ngọc, xã Quỳnh
Ngọc, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An cấu kết với một số đối tượng phản động
trong và ngồi nước, kích động một số người dân trên địa bàn lấy cớ là đi
khởi kiện Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa (Công ty
Formosa) để nhằm chống đối chính quyền, làm đảo lộn cuộc sống người
21


dân địa phương, làm ách tắc quốc lộ 1A gây nhiều thiệt hại cho các công ty,
doanh nghiệp và nhân dân địa phương.
• Lợi dụng tổ chức thánh lễ Đức Maria hồn xác lên trời ngày 15-8-2019, tại
nhà thờ giáo xứ Hịa Ninh, Quảng Hịa, TX. Ba Đồn, Quảng Bình, linh mục

Nguyễn Văn Hảo cùng một số linh mục như Nguyễn Thanh Tịnh, Nguyễn
Xuân Đình cầm đầu, tổ chức cho hơn 1.000 giáo dân đem theo nhiều băng
rôn, giấy A4 với nội dung xuyên tạc, bịa đặt và đầy tính kích động kéo về
đập Rào Nan để livestream, quay phim, chụp hình đăng lên mạng internet
nhằm phơ trương thanh thế, thách thức, chống đối chính quyền.
• Nguyễn Văn Lý được thụ phong linh mục năm 1974. Nhưng sau năm 1975,
Nguyễn Văn Lý đã xa rời con đường hành đạo chân chính, lợi dụng chiếc áo
của nhà tu hành tham gia nhiều hoạt động chống phá chính quyền nhân dân.
Nguyễn Văn Lý từng bị TAND tỉnh Quảng Trị kết án 10 năm tù giam về tội
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và gây rối trật tự an ninh. Nghiêm trọng
hơn, Nguyễn Văn Lý đã tiếp tục móc nối, cấu kết với các thế lực phản động
trong và ngoài nước chống đối Nhà nước tiếp tục có hoạt động lơi kéo, lừa
gạt và kích động giáo dân chống đối chính quyền, đi ngược lại lợi ích nhân
dân và dân tộc ta, vi phạm nghiêm trọng pháp luật của Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyên nhân của các hành vi lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam:


Sự đối lập về thế giới quan của tôn giáo và thế giới quan duy vật biện chứng
trong nền tảng tư tưởng của Đảng là cơ sở để chúng lợi dụng, khoét sâu mâu

thuẫn giữa chế độ xã hội chủ nghĩa với tơn giáo.
• Lợi dụng về đức tin và sự gắn kết cộng đồng của tôn giáo nhằm lơi kéo, tập


hợp lực lượng chống phá cách mạng nước ta.
Tận dụng những bất cập, sơ hở của các cấp chính quyền trong quản lý, tổ
chức thực hiện chính sách tơn giáo để kích động quần chúng gây mất ổn
định an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã hội tại các địa phương.
22





Dựa vào đặc điểm địa lý; khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng
dân tộc thiểu số, tôn giáo để phát triển tôn giáo, chia rẽ khối đại đồn kết
tồn dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với tín ngưỡng, tơn giáo.
Đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân tộc, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tơn giáo và khơng tín ngưỡng, tơn giáo là những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về tín ngưỡng, tơn giáo.
Hồ Chí Minh cho rằng, đồn kết tơn giáo là đồn kết lâu dài và tồn diện, là vấn đề
chiến lược.
Chỉ sau một ngày khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3-9-1945 Hồ Chí
Minh đã chủ tọa phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ. Trong phiên họp này, Chủ tịch
đã nêu sáu vấn đề cấp bách cần giải quyết,
trong đó vấn đề thứ sáu là thực hiện "tín
ngưỡng tự do và Lương Giáo đồn kết".
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ cả nước phải "quan tâm, chăm
sóc cuộc sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các tôn giáo. Mong sao sản xuất ngày
càng phát triển, phần xác ta được ấm no thì phần hồn cũng được yên vui".
Tôn giáo với dân tộc bao giờ cũng được Hồ Chí Minh xem xét và giải quyết trên
tinh thần của khối đại đồn kết tồn dân. Tơn giáo chỉ có thể khẳng định được mình khi
sống giữa lịng dân tộc và dân tộc trên con đường phát triển cần biết phát huy những giá
trị tích cực của các tơn giáo.

23



2.2 Chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách đại đồn kết tơn giáo
ở nước ta hiện nay
Trên cơ sở Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tơn giáo, trong q trình lãnh đạo
cách mạng cũng như trong lãnh đạo việc quản lý xã hội và điều hành đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến tơn giáo và có chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
đúng đắn và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng.
Ngày 12-3-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Nghị
quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo. Văn kiện đã trở thành nền tảng chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo trong thời kỳ đổi mới. Tư tưởng của Nghị
quyết 25 được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
1. Hoạt động tôn giáo và công tác tơn giáo trong giai đoạn mới phải nhằm tăng
cường đồn kết đồng bào các tơn giáo trong khối đại đồn kết toàn dân tộc, phát huy sức
mạnh tổng hợp của tồn dân tộc. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các
nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”.

24


Các nguồn lực của các tôn giáo rất đa
dạng: nguồn lực con người có tơn giáo; nguồn
lực từ cơ sở vật chất, nguồn vốn, khả năng vận
động, huy động tài chính; những giá trị văn hóa,
đạo đức tốt đẹp của tôn giáo.... Những nguồn lực
này được sử dụng vào việc “Đời”, ích nước, lợi
dân thì đó là một trong những nguồn lực cần phát
huy trong phát triển đất nước.
2. Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách đại đồn kết tồn
dân tộc, khơng phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tơn giáo. Mọi cơng dân khơng phân

biệt tín ngưỡng, tơn giáo đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Động
viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc;
thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phịng, bảo đảm
lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tơn giáo.

Hịa thượng
Bảo Nghiêm
Chức sắc, nam,
nữ tu sĩ Thích
Giáo phận
Bùi Chutái cử đại
biểu
Quốc
tham gia bỏ phiếu tại
Điểm
bầuhội
cửkhóa
số 1 XV.

Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định

Các chức sắc tôn giáo tham gia vào quản lý Nhà nước
25


×