Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 là năm có nhiều dấu ấn lịch sử lớn: Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ X, Hội nghị APEC 2006 tại Hà Nội thành công tốt đẹp, Việt Nam đã
chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đây
cũng là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc của các ngân hàng. Có nhiều sự
kiện nổi bật, không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngành mà mang tầm ảnh hưởng
đến cả nền kinh tế: các đợt tăng lãi suất vẫn tiếp diễn và căng thẳng, các ngân
hàng đua nhau tăng vốn điều lệ, lợi nhuận của các ngân hàng đạt mức cao
nhất từ trước đến nay, tỷ lệ nợ xấu được cải thiện, giá cổ phiếu của các ngân
hàng tăng cao,…
Hòa chung vào không khí sôi động đó, VPBank cũng gặt hái được
những thành công vượt bậc: vốn điều lệ tăng từ 310 tỷ đồng lên 750 tỷ đồng,
mạng lưới hoạt động được mở rộng ở hầu hết các tỉnh thành trọng điểm của
cả nước, lợi nhuận trước thuế và dự phòng rủi ro trên 156 tỷ đồng. Tuy vậy,
trong bối cảnh hiện nay, khi mà các ngân hàng thương mại nước ngoài được
phép hiện diện thương mại tại Việt Nam theo cam kết gia nhập WTO và hiệp
định thương mại Việt – Mỹ thì cạnh tranh giữa các ngân hàng sẽ ngày càng
gay gắt và khốc liệt, vì vậy để có thể hòa nhập, tồn tại và phát triển VPBank
cần phải nâng chất lượng và hiệu quả kinh doanh của mình. Một trong những
biện pháp quan trọng nhất là nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng, đặc
biệt là nâng cao chất lượng thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp
xin vay vốn_một vấn đề còn nhiều bất cập tại VPBank.
Xuất phát từ thực tiễn quan sát, tìm hiểu hoạt động tín dụng nói chung
và công tác thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp nói riêng tại VPBank,
đề tài: “Nâng cao chất lượng thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp
trong hoạt động tín dụng tại VPBank” được chọn làm khóa luận tốt nghiệp.
Nội dung chính của khóa luận được trình bày theo 3 chương:
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
1
Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng thẩm định tình
hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tình hình tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động tín dụng tại VPBank
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tình hình tài
chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng tại VPBank
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
2
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG
THẨM ĐỊNH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP TRONG
HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại
Để có thể hiểu rõ về thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, trước tiên cần tìm hiểu về hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Tổng quan về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, ngân hàng thương mại là tổ chức
thu hút tiết kiệm lớn nhất. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Thu nhập từ tiền
gửi ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân
hàng cũng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ
gia đình và một phần đối với Nhà nước. Tuy vậy, ngày nay, khi mà các tổ
chức tài chính khác đang lấn sân ngày càng mạnh mẽ trong việc cung cấp các
dịch vụ của ngân hàng thì để đưa ra một khái niệm chính xác về ngân hàng
thương mại là cả một vấn đề. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét
các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Theo đó, Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm,
dịch vụ thanh toán-và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
3
Khóa luận tốt nghiệp
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
cho khách hàng ngày càng đa dạng. Từ các dịch vụ truyền thống của ngân
hàng như thực hiện trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu và cho vay
thương mại, nhận tiền gửi, bảo quản vật có giá, tài trợ cho các hoạt động của
Chính phủ, cung cấp các tài khoản giao dịch… đến các dịch vụ ngân hàng mới
phát triển gần đây như cho vay tiêu dùng, dịch vụ thuê mua thiết bị, cung cấp
dịch vụ tương hỗ và trợ cấp, cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng
khoán…Đặc biệt với sự trợ giúp của khoa học công nghệ, khoảng cách về không
gian đã không còn là vấn đề, các dịch vụ chuyển tiền nhanh, homebanking,
phonebanking, internetbanking… đã được hầu hết các ngân hàng trên thế giới áp
dụng. Tuy nhiên, cho dù nền kinh tế có phát triển đến trình độ nào chăng nữa,
các dịch vụ cơ bản của ngân hàng thương mại vẫn không thay đổi, nó được
thể hiện ở ba hoạt động chủ yếu của chúng: hoạt động huy động vốn, hoạt
động tín dụng và hoạt động thanh toán. Ba hoạt động đó có mối quan hệ chặt
chẽ, hỗ trợ và bổ sung cho nhau. Trong đó, hoạt động tín dụng là một hoạt
động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất và đem lại thu nhập chủ yếu cho
ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Khái niệm tín dụng
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển
dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản
trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
4
Khóa luận tốt nghiệp
Ngoài ra, tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế
tài chính cung cấp cho khách hàng.
Từ các quan niệm trên, có thể hiểu tín dụng như sau: “Tín dụng là một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng hoặc
các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ
thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn
trả vô điều kiện vốn gốc và lãi chia cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”.
Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng, tín dụng
ngân hàng được hiểu là ngân hàng cho vay đối với khách hàng.
Phân loại tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong
phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu
quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Trong quá trình phân loại có thể sử
dụng nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, sau đây là một số cách phân loại
thường gặp.
* Phân loại theo thời gian
Việc phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân
hàng vì thời gian vừa liên quan chặt chẽ tới tính an toàn và sinh lợi của các
khoản tín dụng, đồng thời cũng liên quan đến khả năng hoàn trả của khách
hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành:
_Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn đến 1 năm. Tín dụng
ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn
hạn của Nhà nước doanh nghiệp, hộ sản xuất.
_Tín dụng trung hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm.
Loại tín dụng này nhằm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận
tải, trang thiết bị chống hao mòn,…
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
5
Khóa luận tốt nghiệp
_Tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng
này nhằm tài trợ nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như đầu tư xây dựng
nhà xưởng, công trình xây dựng như nhà xưởng, sân bay, cầu, nhà máy thủy điện…
* Phân loại theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản
đảm bảo bởi vì khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro và có thể không trả
được nợ cho ngân hàng. Trừ những khách hàng lớn và có uy tín cao, nhiều
khách hàng phải có tài sản hữu hình để đảm bảo cho khoản tiền mà họ vay
ngân hàng. Tài sản đảm bảo (tài sản hữu hình) giúp cho ngân hàng có nguồn
trả nợ thứ hai khi mà nguồn trả nợ thứ nhất không đảm bảo trả nợ và ràng
buộc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích. Theo cách phân loại này, tín
dụng được chia thành tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình và tín dụng
đảm bảo bằng tài sản vô hình.
_Tín dụng đảm bảo bằng tài sản hữu hình: Là hình thức tín dụng trong đó
khách hàng nếu muốn được ngân hàng cho vay thì phải có tài sản hữu hình
(các tài sản mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả
nợ) để cấm cố, thế chấp hoặc sự bảo lãnh bằng tài sản hữu hình của bên thứ
ba được ngân hàng đồng ý.
_Tín dụng đảm bảo bằng tài sản vô hình: Là hình thức tín dụng trong đó
ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng mà không cần
cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba. Tín dụng
đảm bảo bằng tài sản vô hình thường được cấp cho khách hàng có uy tín cao,
làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít nợ nần dây dưa,
hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
*Phân loại theo rủi ro
Phân loại theo rủi ro giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại các
khoản mục tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá
chất lượng tín dụng. Theo cách phân loại này, tín dụng gồm:
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
6
Khóa luận tốt nghiệp
_Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
_Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng gặp khó khăn trong tiêu thụ, khách hàng gặp thiên tai, khách
hàng chậm trả lãi…
_Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo hữu hình có
giá trị lớn…
_Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ thấp, khách
hàng dây dưa, chây ỳ không trả nợ…
Ngoài các cách phân loại trên còn nhiều cách phân loại khác như theo
ngành kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp…), theo mục đích (sản xuất, tiêu
dùng…), theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định)…tùy
thuộc vào mục đích của nhà quản lý ngân hàng.
Như vậy, rõ ràng việc phân loại tín dụng là rất cần thiết, nó giúp cho các
nhà quản lý ngân hàng cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn, đảm bảo
an toàn và tăng khả năng sinh lời cho ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của ngân hàng
thương mại, một hoạt động có khả năng sinh lời cao nhất song đây cũng là
hoạt động phức tạp nhất và chức đựng nhiều rủi ro nhất. Trong hoạt động tín
dụng, nếu hành động chủ quan duy ý chí sẽ mang lại tổn thất nặng nề cho
ngân hàng, thậm chí phá sản ngân hàng. Thực tế lịch sử của ngành ngân hàng
đã chứng kiến rất nhiều cuộc khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng đều xuất
phát từ nguyên nhân sâu sa là rủi ro từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, để đưa ra
một quyết định tín dụng đúng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng
và khách hàng thì hoạt động tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nghiêm
ngặt một quy trình chặt chẽ, đó là quy trình tín dụng.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
7
Khóa luận tốt nghiệp
Quy trình tín dụng
Để chuẩn hóa quy trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu hồi nợ với
khách hàng trong toàn hệ thống, các ngân hàng thường đặt ra quy trình tín
dụng. Đó chính là các bước mà cán bộ tín dụng, các phòng ban liên quan
trong ngân hàng phải thực hiện khi tài trợ cho khách hàng. Thông thường quy
trình tín dụng gồm bốn bước sau.
Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng.
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín
dụng. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý thông tin liên quan
đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra
lợi nhuận và nguồn vốn ngân quỹ, quyền sở hữu tài sản và các điều kiện kinh
tế khác liên quan đến khách hàng.
Trước tiên, cán bộ tín dụng cần phải thu thập thông tin về khách hàng
xin vay vốn. Thông tin về khách hàng có thể thu thập từ nhiều nguồn khác
nhau như phỏng vấn trực tiếp, hồ sơ do khách hàng cung cấp, thông tin lưu
trữ tại ngân hàng, thông tin từ các nguồn khác như thông tin từ các công ty
mua bán thông tin, thông tin có được từ các cơ quan quản lý…Sau khi có đầy
đủ các thông tin, ngân hàng tiến hành kiểm tra tính chính xác của các thông
tin đó và tiến hành phân tích tín dụng. Ngân hàng sẽ tiến hành đánh giá khách
hàng trên các mặt về năng lực pháp lý của khách hàng, uy tín của khách hàng,
thẩm định tình hình tài chính khách hàng, đánh giá năng lực điều hành sản
xuất kinh doanh của ban lãnh đạo doanh nghiệp, thẩm định phương án sản
xuất kinh doanh, dự án đề nghị vay vốn và thẩm định tài sản đảm bảo. Sau khi
phân tích tín dụng nếu thấy khả năng kinh tế và khả năng thanh toán của
khách hàng tốt, đồng thời có đảm bảo tín dụng một cách chắc chắn và ngân
hàng có thể đáp ứng nhu cầu đó thì ngân hàng sẽ quyết định cấp tín dụng cho
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
8
Khóa luận tốt nghiệp
khách hàng. Quyết định cấp tín dụng cho khách hàng, tức là ngân hàng và
khách hàng sẽ đi đến bước thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng.
Bước 2: Xây dựng và ký kết hợp đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giữa người nhận tài
trợ (khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết
cấp cho khách hàng một khoản tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định
với lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác
định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải
tuân thủ các điều khoản của Luật, Quy định. Vì vậy cả ngân hàng lẫn khách
hàng đều cân nhắc kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Nội dung
chính của hợp đồng tín dụng gồm họ tên, địa chỉ và tư cách pháp nhân (nếu
có) của khách hàng, mục đích sử dụng vốn, số lượng tín dụng, lãi suất, mức
phí, thời hạn tín dụng, các loại đảm bảo, điều kiện và kỳ hạn giải ngân và các
điều kiện khác.
Bước 3: Giải ngân và kiểm soát khoản vay
Sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết, ngân hàng phải có trách nhiệm
cấp tiền cho khách hàng như thỏa thuận trong hợp đồng. Cùng với việc cấp tín
dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng: sử dụng tiền vay có đúng mục đích,
đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất
lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ…Việc tài trợ gắn liền với kiểm
soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không
đúng mục đích của khách hàng. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng
phát hiện ra những khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà cón giúp xác định
được vấn đề cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay của ngân
hàng hay không.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
9
Khóa luận tốt nghiệp
Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới
Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản
tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn.
Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản tín dụng được hoàn trả đúng hạn.
Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc”
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Việc xem xét, tìm ra
nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết
định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng.
Trên đây là các bước mà cán bộ tín dụng của ngân hàng phải thực hiện
trước khi ngân hàng quyết định tài trợ cho khách hàng. Trong bốn bước đó,
bước 1 là quan trọng nhất và quyết định xem liệu ngân hàng có nên cấp tín
dụng cho khách hàng hay không. Trong bước 1, thẩm định tình hình tài chính
doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, chi phối đến quyết định tài trợ của
ngân hàng cho khách hàng. Vậy thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp là
gì và nội dung thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín
dụng của ngân hàng thương mại như thế nào. Tất cả những điều đó sẽ được
làm rõ ở phần tiếp theo.
1.1.2. Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết thẩm định tình hình tài chính doanh
nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của
ngân hàng thương mại là rà soát, kiểm tra lại, đánh giá một cách khách quan,
khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trên
giác độ của ngân hàng nhằm đưa ra quyết định cho vay đối với doanh nghiệp,
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
10
Khóa luận tốt nghiệp
đảm bảo an toàn và sinh lời cho ngân hàng. Trong quá trình thẩm định tình
hình tài chính doanh nghiệp, nhiều khi phải tính toán, phân tích lại các chỉ
tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Từ khái niệm thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng thương mại ta có thể thấy được sự cần thiết của
công việc này. Hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất cho ngân
hàng thương mại song cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Rủi ro tín dụng là
khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng do khách hàng vay không trả
đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến rủi ro tín dụng như thiên tai, dịch bệnh, sự thay đổi trong chính sách
kinh tế của Nhà nước, khách hàng yếu kém trong trình độ quản lý hoặc cố
tình lừa đảo ngân hàng…tất cả đều có thể dẫn đến ngân hàng không thu hồi
được các khoản tiền mà khách hàng vay. Như vậy, rõ ràng, trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng, khả năng xảy ra rủi ro tín dụng rất khó bị loại trừ.
Vấn đề cần quan tâm là phải hạn chế khả năng xảy ra rủi ro đến mức thấp
nhất có thể. Có nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro như đa dạng hóa các loại
hình tín dụng, đa dạng hóa khách hàng, sàng lọc và giám sát khách hàng, yêu
cầu tài sản đảm bảo… Nhưng, có lẽ biện pháp quan trọng nhất mà bất cứ
ngân hàng nào cũng áp dụng đó là thẩm định kỹ lưỡng khách hàng một cách
toàn diện trước khi quyết định cho khách hàng vay tiền. Trong đó, thẩm định
tình hình tài chính doanh nghiệp là rất quan trọng. Thông qua thẩm định tình
hình tài chính của doanh nghiệp xin vay, ngân hàng sẽ đánh giá được khả
năng trả nợ của khách hàng một cách sát thực hơn và ý muốn trả nợ của khách
hàng (thiện chí trả nợ của khách hàng), xác định xem doanh nghiệp có thực sự
có nhu cầu vốn không và mức ngân hàng có thể cấp cho doanh nghiệp là bao
nhiêu, đồng thời xác định thời hạn khoản tín dụng cho phù hợp. Thẩm định
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
11
Khóa luận tốt nghiệp
tình hình tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định
tín dụng, vì nếu thẩm định không chính xác sẽ dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch
và xảy ra rủi ro cho ngân hàng, làm giảm thu nhập của ngân hàng, thậm chí có
thể đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Như vậy, thẩm định tình hình tài chính
doanh nghiệp trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại rất quan
trọng, nó là nội dung không thể thiếu của thẩm định khách hàng. Cùng với
thẩm định các yếu tố khác, thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại rất cần thiết, ảnh hưởng trực
tiếp đến việc ngân hàng có thu được cả gốc và lãi đúng hạn hay không. Vậy,
thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu
gì, điều này sẽ được trình bày ở phần dưới đây.
1.1.2.2. Nội dung thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
a. Thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính
Trước khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín
dụng phải tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính do doanh
nghiệp cung cấp. Đây là yếu tố quyết định tới chất lượng thẩm định. Một báo cáo
tài chính sẽ trở nên vô nghĩa đối với ngân hàng khi nó được làm “đẹp” và phản ánh
không chính xác tình hình tài chính thực tế của doanh nghiệp. Vì vậy, trong trường
hợp này, các công việc tiếp theo hầu như không có giá trị.
Để tiến hành thẩm định mức độ tin cậy của báo cáo tài chính, cán bộ tín
dụng sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của các báo cáo tài chính
như các báo cáo tài chính gửi cho ngân hàng có giá trị pháp lý không, các số
liệu trong các báo cáo tài chính có đảm bảo phù hợp không hay mâu thuẫn
nhau, chế độ kế toán và phương pháp kế toán áp dụng có tuân thủ đúng quy
định của pháp luật không. Đó là quá trình kiểm tra, đánh giá sơ bộ.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
12
Khóa luận tốt nghiệp
Sau khi kiểm tra sơ bộ, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành kiểm tra một cách
cụ thể hơn các báo cáo tài chính. Bằng kinh nghiệm, sự hiểu biết thực tế, độ
nhạy cảm của mình, cán bộ tín dụng tìm xem trong các báo cáo tài chính đó
có chỗ nào mâu thuẫn, bất hợp lý và những chi tiết khả nghi. Vì các báo cáo
tài chính có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau nên
cán bộ tín dụng sẽ tiến hành đối chiếu so sánh để xem liệu chúng có phù hợp
không. Sự phù hợp của một báo cáo tài chính không những trong mối quan hệ
với các báo cáo tài chính khác mà còn phải phù hợp trong nội dung mỗi báo
cáo đó. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng thường kiểm tra tính chính xác
của số liệu trong các báo cáo đó.
Trong quá trình này, để đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài
chính, cán bộ tín dụng không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra về mặt sổ sách của
các báo cáo đó mà cần phải liên hệ thực tế hoạt động của doanh nghiệp đang
diễn ra. Cán bộ tín dụng tiến hành thu thập thêm các thông tin về doanh
nghiệp thông qua tiếp xúc với lãnh đạo doanh nghiệp, xuống cơ sở sản xuất
của doanh nghiệp để quan sát, tiếp xúc với công nhân trong doanh nghiệp và
thu thập thêm các thông tin từ bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, cơ quan thuế…để
có thể đối chiếu và xác minh tính chính xác các thông tin mà doanh nghiệp
cung cấp cho ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cần phải kiểm tra xem số
liệu đã được kiểm toán độc lập chưa và có phải do một công ty kiểm toán có
uy tín thực hiện không, mặt khác cần tìm hiểu các số liệu được cơ quan thuế
chấp nhận…có như vậy mới có thể đánh giá được mức độ tin tưởng của các
báo cáo tài chính do doanh nghiệp cung cấp.
Như vậy, qua việc kiểm tra các báo cáo tài chính và kết hợp các thông tin
mà ngân hàng thu thập được, cán bộ tín dụng có thể đánh giá được mức độ tin
cậy của các báo cáo tài chính. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng không phải là
chuyên gia trong việc đánh giá mức độ tin cậy của các báo cáo tài chính nên
ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp cam kết các báo cáo tài chính mà họ
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
13
Khóa luận tốt nghiệp
cung cấp là đúng sự thật và doanh nghiệp sẽ chịu trách nhiệm về tính chính
xác của các báo cáo này. Sau khi xác minh, đánh giá mức độ tin cậy của các
báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành thẩm định nội dung trong các
báo cáo tài chính đó.
b. Thẩm định các báo cáo tài chính
Thẩm định các khoản mục trong bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Bảng cân đối kế toán có
hai phần: bên trái là các khoản mục tài sản và bên phải là khoản mục nợ và
vốn chủ sở hữu. Bảng cân đối kế toán cho người sử dụng biết những tài sản
doanh nghiệp sở hữu và cách thức tài trợ chúng. Nhìn vào Bảng cân đối kế
toán, cán bộ tín dụng có thể nhận biết được các loại hình doanh nghiệp, quy
mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một
tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho cán bộ tín dụng đánh giá được khả
năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của
doanh nghiệp.
Nhìn chung, việc thẩm định bảng cân đối kế toán bắt đầu bằng việc cán
bộ tín dụng sẽ đánh giá khái quát các chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, cơ cấu vốn và
sự biến động của chúng, đồng thời xem xét mối quan hệ giữa tài sản và vốn.
Trong quá trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp sẽ liên tục
biến động cả về quy mô và cơ cấu. Thông thường, khi tổng tài sản tăng chứng
tỏ doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất kinh doanh và kết quả là doanh thu,
lợi nhuận cũng tăng theo. Trường hợp tổng tài sản tăng nhưng doanh thu
không tăng phải tìm hiểu nguyên nhân có thể do tài sản cố định mới đưa vào
hoạt động hoặc doanh thu không tăng nhưng lợi nhuận tăng có thể do quản lý
về tài chính tốt hơn, giảm chi phí... Những trường hợp tổng tài sản tăng mà
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
14
Khóa luận tốt nghiệp
doanh thu, lợi nhuận không tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh
nghiệp đang bị giảm sút và phải tìm hiểu nguyên nhân và xu hướng thay đổi.
Khi phân tích cơ cấu tài sản, để đánh giá tính hợp lý của việc phân bổ,
bên cạnh việc so sánh tỷ trọng từng loại tài sản chiếm trong tổng tài sản và xu
hướng biến động về tỷ trọng, cán bộ tín dụng còn phải xem xét sự biến động
trên tổng tài sản cũng như từng loại tài sản giữa cuối kỳ so với đầu kỳ. Cán bộ
tín dụng sẽ căn cứ vào tình hình phân bổ tài sản, tính chất kinh doanh và tình
hình biến động của từng bộ phận tài sản để đánh giá tính hợp lý của cơ cấu tài
sản và xu hướng biến động tài sản. Khi phân tích khoản mục nợ phải trả và
vốn chủ sở hữu, cán bộ tín dụng quan tâm đến việc doanh nghiệp dùng nguồn
nào để tài trợ cho các loại tài sản, việc phân bổ nguồn vốn có hợp lý không và
mức độ tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp thế nào.
Sau khi đã đánh giá tổng quát về tình hình tài sản và nguồn vốn của
doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ thẩm định chi tiết từng khoản mục trong
bảng cân đối kế toán.
Thẩm định chi tiết các khoản mục tài sản
Tài sản của doanh nghiệp phản ánh ở bên trái của bảng cân đối kế toán,
bao gồm giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc
quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp. Trong thẩm định tình hình tài
chính doanh nghiệp, đứng trên góc độ ngân hàng, cán bộ tín dụng sẽ đánh giá
các khoản mục chủ yếu sau:
_ Tiền mặt: Tiền mặt của doanh nghiệp bao gồm tiền mặt tại quỹ và tiền
trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp tại ngân hàng. Nó được sử dụng
để trả lương, mua nguyên vật liệu, trả nợ, mua tài sản cố định…Tiền mặt là
tài sản không sinh lãi nhưng nó giúp doanh nghiệp chủ động trong kinh doanh
và đảm bảo khả năng thanh toán trong các trường hợp cần thiết. Rõ ràng, việc
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
15
Khóa luận tốt nghiệp
nắm giữ tiền mặt có hai mặt của nó, khi cán bộ tín dụng đánh giá khoản mục
này cần đánh giá lượng nắm giữ tiền mặt hợp lý của doanh nghiệp. Vì nếu
doanh nghiệp nắm giữ quá nhiều tiền mặt sẽ giảm khả năng sinh lời, còn nắm
giữ quá ít có thể dẫn đến rủi ro thanh toán, việc nắm giữ lượng tiền mặt bao
nhiêu tùy thuộc vào từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp và chiến lược
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp cụ thể. Tuy nhiên, xét cho đến cùng các
khoản vay ngân hàng sẽ được trả bằng tiền mặt, vì vậy cán bộ tín dụng cần
đánh giá được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp.
_Các khoản phải thu: Đây là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản phải
thu từ khách hàng, khoản đặt trước cho người bán. Các khoản phải thu cho
thấy số vốn doanh nghiệp bị khách hàng chiếm dụng. Các khoản phải thu phải
được xem xét một cách cẩn thận vì đây là nguồn chủ yếu để doanh nghiệp chi
trả các khoản vay đến hạn. Khi xem xét các khoản phải thu, cán bộ tín dụng
tìm hiểu về phương thức tiêu thụ, chính sách thanh toán tiền hàng (chiết khấu
thanh toán), khả năng quản lý nợ của doanh nghiệp để nhận xét về khả năng
thu hồi các khoản phải thu của doanh nghiệp và loại trừ các khoản bán chịu
không thu được, khó thu được hoặc đã bán cho người khác, đồng thời cần xác
định vòng quay các khoản phải thu. Vì các khoản phải thu, giống như các tài
sản khác, phải được tài trợ theo một cách nào đó vì vậy khi đánh giá các
khoản phải thu cán bộ tín dụng cần xem xét trong mối liên hệ với các khoản
phải trả và các khoản nợ khác của doanh nghiệp.
_Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các
tài sản này tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.
_Dự trữ: Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị thực các loại hàng tồn kho
dự trữ cho quá trình sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều món
vay ngắn hạn nhằm mục tiêu tăng dự trữ hàng hóa, có nghĩa là một phần hàng
hóa trong kho được hình thành từ vốn vay của ngân hàng. Do đó, cán bộ tín
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
16
Khóa luận tốt nghiệp
dụng cần xem xét tình hình biến động xuất - nhập và tồn kho cả nguyên liệu
và hàng hoá của doanh nghiệp. Các số liệu về hàng tồn kho phản ánh chi tiết
và chính xác tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nó cho thấy mặt hàng
nào nhập nhiều, mặt hàng nào nhập ít, mặt hàng nào dễ bán, mặt hàng nào
khó bán, thời gian quay vòng của nó cao hay thấp, lượng tồn kho là bao nhiêu
và đặc biệt trong số hàng tồn kho có bao nhiêu hàng ế chậm luân chuyển, bao
nhiêu hàng kém chất lượng và hàng nào là của người khác gửi.
_Tài sản cố định: Đây là những tài sản tham gia vào nhiều chu kỳ sản
xuất và có giá trị lớn. Thông thường, đối với các khoản cho vay ngắn hạn,
ngân hàng thường không quan tâm đến việc bán các tài sản cố định như một
nguồn dùng để trả nợ. Tuy nhiên, đối với các khoản tài trợ dài hạn thì tài sản
cố định lại có vai trò quan trọng. Trước hết, tài sản cố định có thể dùng để thế
chấp tại ngân hàng. Khi tài sản cố định được dùng làm tài sản thế chấp, cán
bộ tín dụng phải đánh giá được giá trị hiện tại của chúng theo sổ sách (bằng
nguyên giá trừ đi khấu hao) và so sánh giá trị đó với giá trị thị trường của tài
sản để có thể đánh giá chính xác giá trị của nó. Lý do thứ hai mà cán bộ tín
dụng quan tâm đến tài sản cố định là nó được trích khấu hao hàng năm. Quỹ
khấu hao dùng để tái đầu tư hoặc dùng để trả các khoản mà doanh nghiệp vay
để tài trợ cho các tài sản cố định đó. Khi thẩm định, cán bộ tín dụng cần đánh
giá mức độ hợp lý của tỷ trọng các tài sản cố định tùy thuộc vào lĩnh vực kinh
doanh và mỗi doanh nghiệp cụ thể để từ đó có thể đánh giá nhu cầu thực sự
của doanh nghiệp khi vay vốn để đầu tư tài sản cố định.
Việc thẩm định các khoản mục tài sản không thể tách rời thẩm định các
khoản mục nguồn vốn bởi lẽ nguồn vốn là nguồn hình thành nên tài sản của
doanh nghiệp. Công việc tiếp theo là cán bộ tín dụng thẩm định chi tiết các
khoản mục nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
17
Khóa luận tốt nghiệp
Thẩm định chi tiết các khoản mục nguồn vốn
_Nợ phải trả: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ số nợ mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải trả tại thời điểm lập báo cáo. Nợ phải trả là nguồn vốn mà
doanh nghiệp chiếm dụng của các đối tác. Xét về mặt lợi ích thì chi phí doanh
nghiệp trả cho việc sử dụng nó rất thấp nhưng nếu các khoản phải trả quá lớn
thì có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán. Đặc biệt, nếu doanh nghiệp có
các khoản nợ dây dưa kéo dài thì cần xem xét lại uy tín của doanh nghiệp.
Các khoản phải trả nói lên uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng, khi đánh
giá các khoản phải trả cán bộ tín dụng cần chú ý, nếu doanh nghiệp có các
khoản phải trả lớn và các hoạt động của doanh nghiệp diễn ra bình thường,
các chỉ tiêu tài chính khác tốt thì có nghĩa là doanh nghiệp có uy tín lớn đối
với bạn hàng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có các khoản phải trả lớn, tình
hình kinh doanh không tốt, các khoản nợ nần chưa trả được tích lũy lại thì uy
tín của doanh nghiệp đang giảm sút, nếu không có biện pháp kịp thời có thể
dẫn đến mất khả năng thanh toán và nguy cơ phá sản cao.
Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Nợ ngắn hạn là chỉ
tiêu phản ánh tổng giá trị các khoản nợ mà doanh nghiệp còn phải trả, có
thời hạn trả trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh tại thời điểm
báo cáo. Các khoản nợ ngắn hạn dùng để tài trợ cho các tài sản lưu động.
Các khoản nợ ngắn hạn nói lên nhu cầu tiền mặt doanh nghiệp cần có để trả
nợ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp. Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn trên một năm hoặc phải trả
sau một chu kỳ kinh doanh, thông thường các khoản nợ dài hạn dùng để tài
trợ cho tài sản cố định. Mặc dù, nợ dài hạn không ảnh hưởng mạnh đến khả
năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại nhưng chúng nói lên các khoản
mà doanh nghiệp phải trả trong dài hạn, điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải
có kế hoạch để trả nợ.
Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng quan tâm tới tất cả các chủ nợ của
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
18
Khóa luận tốt nghiệp
khách hàng: có thể là các khoản nợ cũ, các khoản nợ của các ngân hàng khác,
nợ người bán…Vị trí của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên
cứu một cách kỹ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất trong
danh sách chủ nợ, nó dễ dàng thu nợ hơn các vị trí khác.
Như vậy, bằng việc đánh giá các khoản nợ của doanh nghiệp, cán bộ tín
dụng có thể thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp trong tương lai và rủi ro
tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải.
_ Vốn chủ sở hữu: bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và
phần vốn từ phát hành cổ phiếu mới. Vốn chủ sở hữu doanh nghiệp được sử
dụng mà không phải cam kết phải trả như vốn nợ. Vốn chủ sở hữu cho thấy
mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp và là nhân tố giúp doanh
nghiệp chống đỡ rủi ro. Vốn chủ sở hữu phần nào nói lên vị thế của doanh
nghiệp, đồng thời đây cũng là yếu tố đảm bảo doanh nghiệp không quá mạo
hiểm trong kinh doanh khi sử dụng tiền vay. Vì vậy, vốn chủ sở hữu là một
nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới quyết định cho vay của ngân hàng.
Thẩm định các khoản mục trong báo cáo kết quả kinh doanh
Khi tiến hành thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, lợi nhuận của
doanh nghiệp là vấn đề được cán bộ tín dụng đặc biệt quan tâm. Một doanh
nghiệp nếu làm ăn thua lỗ sẽ không thể trả nợ được ngân hàng và nếu có trả
được ngân hàng thì có lẽ chỉ lấy từ vốn chủ sở hữu hoặc vay của đối tượng
khác để trả nợ ngân hàng. Đây sẽ là rủi ro rất lớn cho ngân hàng. Lợi nhuận
của doanh nghiệp được thể hiện trong Báo cáo kết quả kinh doanh. Báo cáo
kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát về kết
quả hoạt động sản xuất-kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Khi thẩm định, để đánh giá chính xác tình
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
19
Khóa luận tốt nghiệp
hình hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng yêu
cầu khách hàng cung cấp các báo cáo kết quả kinh doanh ít nhất của 2 năm
gần nhất. Thẩm định báo cáo kết quả kinh doanh, cán bộ tín dụng sẽ tiến hành
thẩm định như sau:
Thẩm định doanh thu
Cán bộ tín dụng cần phân tích tổng doanh thu về mức tăng và tốc độ tăng
doanh thu của doanh nghiệp qua các năm. Qua phân tích doanh thu kết hợp
với những phân tích trong phần thẩm định về tình hình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp để rút ra kết luận về những kết quả, hạn chế của doanh
nghiệp trong việc tiếp cận thị trường và mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, cần phân tích tổng doanh thu của từng quý, từng tháng để
xác định được những thời điểm hoạt động mạnh của công ty và so sánh với
hoạt động của cùng kỳ năm trước, điều này rất quan trọng đặc biệt là đối với
những doanh nghiệp hoạt động sản xuất theo mùa vụ. Với những thay đổi bất
thường trong tổng doanh thu của doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ tín dụng phải
xem xét một cách kỹ lưỡng và giải thích nguyên nhân của sự thay đổi bất
thường đó.
Thẩm định chi phí
Khi đánh giá chỉ tiêu chi phí, cán bộ tín dụng cần đánh giá những chi
phí hợp lý của doanh nghiệp, những chi phí đóng góp vào việc tạo ra doanh
thu. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cần xem xét các chi phí không được tính vào
chi phí hợp lý và các khoản chi phí “chìm” mà doanh nghiệp không thể
hiện trên báo cáo kết quả kinh doanh để có được những đánh giá chính
xác hơn.
Chỉ tiêu quan trọng nhất trong báo cáo kết quả kinh doanh của doanh
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
20
Khóa luận tốt nghiệp
nghiệp đó là lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại
và phát triển được hay không phu thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo
ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài
chính của doanh nghiệp, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư và
mở rộng hoạt động sản xuất-kinh doanh của mình. Đồng thời, nó là nguồn để
trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, cán bộ tín dụng cần thẩm định xem liệu
doanh nghiệp thực sự kinh doanh có lợi nhuận không hay là lợi nhuận đó là
do nhân viên doanh nghiệp vẽ ra. Trên thực tế, rất nhiều doanh nghiệp có lãi
song cuối cùng vẫn rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Điều này
được giải thích bởi sự lệch pha giữa doanh thu và thu, giữa chi phí và chi.
Doanh thu được hạch toán khi mà người bán chấp nhận thanh thanh toán, tức
là người bán đã mua hàng, song chưa biết đã trả tiền hay chưa, trong khi đó
thu là khoản tiền thực tế doanh nghiệp đã nhận được. Chi phí và chi cũng
tương tự, một khoản chi phí nhưng chưa chắc doanh nghiệp đã xuất tiền ngay.
Qua trường hợp trên ta thấy rằng, Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả
kinh doanh chưa phản ánh đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì
vậy, trong thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp, cán bộ tín dụng còn
phải tiến hành thẩm định Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phân tích dòng tiền để
thấy đầy đủ hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Thẩm định các khoản mục trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ và
phân tích dòng tiền
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính phản ánh các dòng tiền
của doanh nghiệp, được xác định trong một thời kỳ nhất định. Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ giải thích sự thay đổi dòng tiền của doanh nghiệp, nó cho biết
khả năng chi trả của doanh nghiệp. Để lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, cần
phải xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ và nhập quỹ. Dòng tiền
thực nhập quỹ bao gồm dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh; dòng
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
21
Khóa luận tốt nghiệp
tiền nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động
bất thường. Dòng tiền xuất quỹ bao gồm dòng tiền xuất quỹ thực hiện sản
xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động đầu tư, tài chính;
dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường. Sau khi xác định dòng
tiền nhập quỹ và dòng tiền nhập quỹ, căn cứ vào số dư ngân quỹ đầu kỳ sẽ
xác định được số dư ngân quỹ cuối kỳ. Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
cán bộ tín dụng đánh giá và dự báo mức ngân quỹ của doanh nghiệp thời gian
tới, đánh giá được khả năng trả nợ doanh nghiệp. Bởi lẽ, suy cho cùng, không
phải lượng tiền doanh nghiệp hiện tại hay lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ đảm
bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp, mà nhân tố quyết định khả năng chi
trả của doanh nghiệp chính là dòng tiền của doanh nghiệp trong tương lai.
Thẩm định các khoản mục trong thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về
tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong báo cáo tài chính. Đồng thời, giải
thích thêm một số chỉ tiêu mà trong báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải
thích một cách rõ ràng và chi tiết. Đây là một báo cáo quan trọng giúp cán bộ tín
dụng đánh giá chính xác hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Như vậy, sau khi thẩm định các báo cáo tài chính, cán bộ tín dụng sẽ có
cái nhìn khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đánh
giá một báo cáo tài chính cần phải đặt trong mối liên hệ với các báo cáo tài
chính còn lại để có một bức tranh đầy đủ và chi tiết về tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài việc đánh giá các khoản mục trong các báo cáo
tài chính, cán bộ tín dụng còn phải đánh giá các tỷ số tài chính.
c. Thẩm định các tỷ số tài chính
Các tỷ số tài chính là những số liệu tương đối được xây dựng trên cơ sở
các khoản mục trong các báo cáo tài chính. Khi thẩm định các tỷ số tài chính,
cán bộ tín dụng sẽ tính toán các tỷ số này theo thời gian rồi so sánh với nhau
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
22
Khóa luận tốt nghiệp
để thấy xu hướng biến động, và so sánh với trung bình của ngành để thấy vị
thế của doanh nghiệp. Khi thẩm định các tỷ số tài chính, có 4 nhóm tỷ số sau
được cán bộ tín dụng quan tâm:
Nhóm tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu rất quan
trọng đối với cán bộ tín dụng khi xem xét cho doanh nghiệp vay vốn,
nó cho biết khả năng trả nợ của doanh nghiệp đối với các khoản nợ
ngắn hạn. Nhìn chung, khả năng kinh doanh lâu dài của doanh nghiệp
phục thuộc vào khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp.
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải luôn có tài sản để có thể
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và đây là mối quan tâm hàng đầu
trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Để đánh giá khả
năng thanh toán của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng thường sử dụng
các tỷ số sau:
Khả năng thanh toán hiện hành
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Nó được xác định bằng cách lấy tài sản lưu động chia cho nợ ngắn hạn.
Tài sản lưu động bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải
thu và dự trữ; còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung
cấp, các khoản nợ dài hạn đến hạn trả trong kỳ…Cả tài sản lưu động và nợ
ngắn hạn đều có thời hạn nhất định- một năm hoặc một chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành phản ánh khả năng thanh toán
ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ
ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một
giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó và năng lực của một
doanh nghiệp trong việc đáp ứng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi chúng
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
23
Khóa luận tốt nghiệp
đến hạn. Tỷ số của chỉ tiêu càng lớn, khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
của doanh nghiệp càng cao và ngược lại. Thông thường, tỷ số này lớn hơn 1 thì
doanh nghiệp coi là có khả năng đáp ứng nghĩa vụ các khoản nợ hiện hành.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, cán
bộ tín dụng còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng hay vốn lưu động
thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng
và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ
ngắn hạn. Nếu vốn lưu động ròng của doanh nghiệp âm chứng tỏ doanh
nghiệp đã dùng vốn ngắn hạn vào đầu tư tài sản cố định, điều này sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán nhanh
Tài sản lưu động – Dự trữ
Khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn
Nó được xác định bằng cách lấy các tài sản quay vòng nhanh chia cho nợ
ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, các chứng khoán ngắn hạn, các khoản
phải thu. Dự trữ là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng tài sản
lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán
nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc
vào việc sử dụng dự trữ.
Nếu tỷ số này lớn thì khả năng thanh toán tương đối khả quan. Nếu tỷ số
này nhỏ cho thấy doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ
vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên nếu quá lớn, lại phản ánh tình hình
không tốt vì vòng quay vốn chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
24
Khóa luận tốt nghiệp
Nhóm tỷ số về khả năng cân đối vốn: Nhóm chỉ tiêu này đo lường
mức độ ổn định, tự chủ tài chính, khả năng sử dụng nợ vay của doanh
nghiệp và mức độ an toàn đối với các chủ nợ. Tỷ số này đo lường
phần vốn góp của các chủ sở hữu doanh nghiệp so với phần tài trợ của
các chủ nợ đối với doanh nghiệp và có ý nghĩa quan trọng trong các
quyết định cho vay của các chủ nợ. Bởi vì, các chủ nợ nhìn vào số
vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự
bảo đảm an toàn cho các món nợ. Nếu chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ
đóng góp một tỷ lệ nhỏ trong tổng số vốn thì rủi ro xảy ra trong sản
xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Thông thường,
ngân hàng quan tâm tới các tỷ số sau:
Tỷ số nợ trên tổng tài sản
Nợ
Tỷ số nợ trên tổng tài sản =
Tài sản
Tỷ số này được xác định bằng cách lấy tổng nợ chia cho tổng tài sản. Nó
đo lường phần vốn được cung cấp bởi các chủ nợ. Đồng thời, nó được sử
dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong
việc góp vốn. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa
phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp
doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp ưa thích
tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm
soát doanh nghiệp. Song, nếu tỷ số nợ quá cao doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình
trạng mất khả năng thanh toán.
Khả năng thanh toán lãi vay
Lợi nhuận trước thuế + lãi vay
Khả năng thanh toán lãi vay =
Nguyễn Xuân Điệp Lớp: TCDN 45C
25