Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp và các loại hình chuyển đổi doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.26 KB, 29 trang )

A- Lời mở đầu.
Hiện nay khi nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển mạnh mẽ thì vấn đề
về pháp luật kinh doanh, trong đó các chế định về địa vị pháp lý của doanh nghiệp cũng
là một vấn đề quan trọng được các nhà đầu tư trong và ngoài nước quân tâm. Đặc biệt
bên cạnh những vấn đề về hồ sơ thủ tục đăng ký kinh doanh, về lợi nhuận đầu tư, thị
trường … thì vần đề về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp được quy định trong Luật
doanh nghiệp Việt Nam 2005 (có hiệu lực thi hành tư ngày 1/7/2006) là một trong những
vấn đề có vị trí quan trọng hàng đầu trong Luật doanh nghiệp 2005. Bên cạnh đó vấn đề
về các hình thức chuyển đổi loại hình doanh nghiệp cũng đang được các doanh nghiệp
chú trọng vi trong nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cơ hội mở
rộng đầu tư và lợi nhuận nhiều hơn nếu các doanh nghiệp biết nắm bắt cơ hội, vì thế các
doanh nghiệp luôn tìm giải pháp hiệu quả nhất cho quá trình đầu tư, trong những giải
pháp đó có thể là phát triển doanh nghiệp ở những hình thức khác nhau. Đó chính là
những vấn đề đáng được quan tâm và chú trọng hiện nay đối với những cá nhân, tổ chức
trong và ngòai nước đang muốn đầu tư vào nước ta trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta
đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đang trở thành
một nền kinh tế năng động của thế giới trong bối cảnh chúng ta đã là thành viên của tổ
chức Thương mại thế giới (WTO).
Bên cạnh đó khi nghiên cứu vấn đề trên sẽ giúp chúng ta nhìn nhận được những ưu
điểm cũng như khuyết điểm về những quy định của luật doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ
của doanh nghiệp, quá trình chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp. Để từ đó có những
đề xuất, giải pháp để khắc phục hạn chế và phát huy ưu thế của những quy định trên góp
phần làm phát triển nền kinh tế thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần phát triển
kinh tế đất nước.
Đó là lí do nhóm chúng tôi chọn và trình bày vấn đề về : “Quyền và nghĩa vụ cơ bản
của doanh nghiệp và các loại hình chuyển đổi doanh nghiệp”.
1
B- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của Doanh nghiệp
I- Khái niệm chung.
1. Khái niệm Doanh nghiệp.
a. Khái niệm


Doanh nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học. Doanh nghiệp như
một cái áo khoác (phương tiện) để thực hiện ý tưởng kinh doanh. Muốn kinh doanh,
thương nhân phải chọn lấy cho mình một trong số những loại hình mà pháp luật quy
định.
Về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005 ban hành ngày 29
tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về doanh nghiệp như sau: "Doanh nghiệp là
tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện ổn định các hoạt động kinh
doanh." Trên thực tế doanh nghiệp được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau: cửa
hàng, nhà máy, xí nghiệp, hãng,
b. Phân loại Doanh nghiệp.
* Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại hình doanh
nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp mà các
thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh
nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
2
- Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên hợp danh). Thành
viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân
chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.

- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư nước
ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
* Căn cứ vào chế độ trách nhiệm
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm có thể phân loại các doanh nghiệp thành có chế độ
trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn
- Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp mà ở đó chủ
sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp bằng tất cả tài sản
của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để thực hiện các nghĩa vụ tài chính của
nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là
doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này là chế độ trách
nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và của thành viên hợp danh công ty
hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh sẽ chịu trách nhiệm
đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp mà không giới hạn ở phần tài sản chủ
doanh nghiệp, các thành viên hợp dan đã bỏ vào đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp tư
nhân và công ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu tài sản của doanh nghiệp tư nhân và
công ty hợp danh không đủ để thực hện các nghĩa vụ về tài chính của doanh nghiệp khi
các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ tục thanh lý trong thủ tục phá sản, chủ sở hữu
doanh nghiệp và các thành viên hợp danh phải sử dụng cả tài sản riêng không đầu tư vào
doanh nghiệp để thanh toán cho các khoản nợ của doanh nghiệp.
3
- Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn
Theo pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn cụ thể
gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh và doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không tiến hành đăng ký lại theo Nghị định
101/2006/NĐ-CP.
Những doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là những doanh nghiệp mà ở
đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của
doanh nghiệp trong phạm vi sốp vốn đã góp vào doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là khi

số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải trả
nợ thay cho doanh nghiệp.
Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiệp trên thực chất là chế độ trách
nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tư - thành viên/chủ sở hữu công ty.
2. Các loại hình doanh nghiệp căn cứ theo hình thức pháp lí:
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình doanh nghiệp như sau:
a. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Theo quy định tại điều 63 Luật doanh nghiệp 2005 thì ta có khái niệm và đặc điểm
về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên như sau:
Điều 63. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công
ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi
số vốn điều lệ của công ty.
2. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày
được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ
phần.
b. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Theo quy định tại điều 38 Luật doanh nghiệp 2005 thì ta có khái niệm và đặc điểm
về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên như sau:
4
Điều 38. Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là doanh nghiệp, trong đó:
a) Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên không vượt quá năm
mươi;
b) Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp;
c) Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều
43, 44 và 45 của Luật này.

2. Công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
3. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phần.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là doanh nghiệp có những đặc
điểm chung sau đây;
- Hình thức sở hữu của công ty là thuộc hình thức sở hữu chung của các thành viên
công ty
- Thành viên của công ty có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng thành viên mỗi công ty
không ít hơn hai và không vượt quá năm mươi.
- Công ty không được quyền phát hành cổ phần.
- Công ty là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và chịu trách nhiệm hữu hạn về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
- Việc chuyển nhượng phần vốn góp chỉ được thực hiện khi thành viên muốn
chuyển nhượng đã chào bán phần vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ
tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện. Chỉ được chuyển
nhượng cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty
không mua và mua không hết.
5
c. Công ty cổ phần.
Theo quy định tại điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 thì ta có khái niệm và đặc điểm về
công ty cổ phần như sau:
Điều 77. Công ty cổ phần
1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.

2. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
3. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
d. Công ty hợp danh.
Theo quy định tại điều 130 Luật doanh nghiệp 2005 thì ta có khái niệm và đặc điểm
về công ty hợp danh như sau:
Điều 130. Công ty hợp danh
1. Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh
doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên
hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
3. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
e. Doanh nghiệp tư nhân.
6
Theo quy định tại điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 thì ta có khái niệm và đặc điểm
về doanh nghiệp tư nhân như sau:
Điều 141. Doanh nghiệp tư nhân
1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Từ quy định trên chúng ta thấy doanh nghiệp tư nhân gồm những đặc điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân đầu tư vốn thành lập và làm chủ.
Chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp là một cá nhân. Bởi vậy mà chủ doanh nghiệp tư

nhân có toàn quyền quyết định những vấn đề liên quan tới quản lý doanh nghiệp, thuê
người khác điều hành ( trong trường hợp này phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh
doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của doanh nghiệp), có quyền cho
thuê toàn bộ doanh nghiệp, bán doanh nghiệp, tạm ngừng hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân bởi vì tài sản của doanh nghiệp
không tách bạch rõ ràng với tài sản của chủ doanh nghiệp. Tài sản mà chủ doanh nghiệp
đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiêp là người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, Chủ Dn có thể
trực tiếp quản lý hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động của doanh
nghiệp. trong trường hợp thuê người khác quản lý doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp
phải đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.
- Chủ sở hữu là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền và nghĩa vụ liên quan trước
Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.
7
- Chủ doanh nghiệp có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình nhưng phải báo
cáo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có chứng nhận đến cơ quan
đăng kí kinh doanh, cơ quan thuế. Trong thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp vẫn
phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh
nghiệp.
- Chủ sở hữu doanh nghiệp có quyền bán doanh nghiệp cho người khác theo đúng quy
định của pháp luật ; phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan đăng kí kinh doanh
trong thời hạn 15 ngày. Thông báo phải nêu rỏ tên, trụ sở của doanh nghiêp và
người mua… Sau khi bán doanh nghiệp, chủ sở hữu vẫn phải chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và nghĩa vụ tài sàn khác của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp tư nhân không được phép phát hành bất kì loại chứng khoán nào.

II. Điều kiện cho việc xây dựng chế định quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
Là nội dung cơ bản cấu thành nên địa vị pháp lý của doanh nghiệp, chế định quyền
và nghĩa vụ chịu ảnh hưởng từ trình độ phát triển thị trường và nhận thức pháp lý về vị
trí, vai trò của các thành phần kinh tế. Chế định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp
trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (LDN 2005) được hình thành từ những điều kiện sau:
Thứ nhất, các bộ phận trong cấu trúc của thị trường Việt Nam đã cơ bản được hình
thành với diện mạo ổn định và chuyển sang giai đoạn phát triển. Mặt khác, quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế một cách toàn diện mở ra nhiều triển vọng cho sự phát triển, song
cũng đặt ra nhiều vấn đề cả về nhận thức lẫn thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết. Trong đó,
chúng ta phải công nhận và tôn trọng các nguyên tắc, nguyên lý căn bản đã được thị
trường khu vực và thế giới sử dụng. Pháp luật được xem là đại lượng bảo đảm sự cân
bằng, lành mạnh, bình đẳng của thị trường. Do đó, những thái độ đối xử phân biệt làm
ảnh hưởng đến sự bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác
nhau không được chấp nhận.
Thứ hai, có sự thay đổi trong quan niệm về quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Trong điều kiện mới, đòi hỏi phải tách bạch chức năng
quản lý kinh tế với vai trò sở hữu của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhà nước để
8
bảo đảm nguyên tắc về bình đẳng trên thị trường. Khi đó, có hai vấn đề luôn được quan
tâm là: (i) Chấm dứt sự chia cắt pháp luật về doanh nghiệp, nhà nước với vai trò là nhà
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước sẽ phải lựa chọn các hình thức kinh doanh như các
thành phần kinh tế khác tham gia thị trường; (ii) Nội dung của chế định về quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp là như nhau giữa các thành phần kinh tế để làm cơ sở cho thị
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
Thứ ba, đã có sự thay đổi trong nhận thức pháp lý về bản chất và nhiệm vụ của
doanh nghiệp trên thị trường. Từ góc độ tổ chức, doanh nghiệp được coi là đơn vị của thị
trường với chức năng kinh doanh.Tuy nhiên, quan điểm về chức năng kinh doanh của
doanh nghiệp không phải lúc nào cũng là nhất quán trong pháp luật. Đã có thời kỳ, trên
thị trường có tồn tại một loại hình doanh nghiệp với chức năng, nhiệm vụ chính là thực
hiện hoạt động công ích được Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 gọi là doanh

nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Sự thay đổi trong nhận thức về chức năng kinh
doanh của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để LDN 2005 thống nhất chế định quyền,
nghĩa vụ của doanh nghiệp. Về căn bản, các doanh nghiệp được thành lập đều có chức
năng kinh doanh cho dù chủ đầu tư là nhà nước, tư nhân hay nước ngoài, nên pháp luật
trao cho chúng các quyền, nghĩa vụ giống nhau. Chỉ khi doanh nghiệp tham gia vào các
hoạt động cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thì sẽ được hưởng những quyền dành
cho hoạt động nói trên.
Thứ tư, quan niệm về quyền tự do kinh doanh và giới hạn quản lý của nhà nước đối
với sinh hoạt thị trường tiếp tục có những bước phát triển mới. Với tư cách là nội dung cơ
bản của chính sách và công cụ quản lý kinh tế, pháp luật phải định được giới hạn quản lý
nhà nước để không làm tổn hại đến quyền tự do kinh doanh. Bằng các quy định về quyền
và nghĩa vụ, pháp luật trao cho doanh nghiệp chủ quyền riêng biệt trong chức năng kinh
doanh mà chủ doanh nghiệp đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền và xác định giới hạn
của chủ quyền đó để duy trì trật tự và dung hòa lợi ích của nhiều chủ thể tham gia thị
trường.
Thứ năm, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã làm thay đổi khái niệm thị trường theo
hướng xoá dần biên giới quốc gia hay vùng kinh tế. Cấu trúc và tương quan cạnh tranh
được thay đổi theo hướng mở rộng khả năng liên kết, hợp tác và đối đầu giữa các thế lực
9
kinh tế, đầu tư đa quốc gia, giữa các quốc gia và khu vực với nhau. Trong bối cảnh ấy,
nhu cầu về sự tương thích của pháp luật quốc gia với các tập quán đầu tư, kinh doanh đã
được thừa nhận rộng rãi trên thị trường khu vực và quốc tế, trở thành những đòi hỏi bức
thiết cho việc xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh. Trên cơ sởquyền tự
do kinh doanh và nhu cầu thoát ly tương đối với khả năng chỉ đạo, quản lý từ công
quyền, các doanh nhân đòi hỏi pháp luật phải ghi nhận chủ quyền cho họ một cách minh
bạch và hợp lý.
pháp luật mới thực sự là tác nhân nối kết thị trường quốc gia với thị trường khu vực
và quốc tế, mới là công cụ hữu hiệu để nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư từ các nhà
đầu tư quốc tế bằng cách tạo niềm tin về trật tự thị trường ổn định, lành mạnh và tương
đồng. Khi biên giới của thị trường thay đổi và ít chịu ảnh hưởng từ các yếu tố cấu thành

biên giới quốc gia, sự ảnh hưởng của quốc tịch đối với địa vị pháp lý của doanh nghiệp
phải giảm dần. Theo đó, những khác biệt căn bản về quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
mang quốc tịch và doanh nghiệp không có quốc tịch của một quốc gia nhất định sẽ phải
xoá bỏ dần, để tạo ra khả năng cạnh tranh thực sự bình đẳng giữa các doanh nhân đến từ
bất cứ khu vực đầu tư nào. Từ quan niệm cạnh tranh là nguyên lý và động lực cho sự phát
triển của thị trường, việc gia nhập WTO không chỉ mở ra chương mới cho sự nghiệp hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, mà còn tạo cơ hội cho chúng ta tìm kiếm động lực và
sức bật mới cho nền kinh tế thị trường còn non trẻ. Đương nhiên, trong tiến trình đó, mọi
chế định pháp luật của thị trường nói chung, đặc biệt là chế định về quyền, nghĩa vụ của
doanh nghiệp đóng vai trò to lớn.
III.Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp:
Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp là một bộ phận quan trọng trong địa vị pháp lí
của doanh nghiệp, nó thể hiện năng lực pháp lí và năng lực hành vi của doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp năm 2005 qui định quyền và nghĩa vụ cho cả 5 loại hình doanh
nghiệp: cộng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên, công ty hợp danh, công ty cổ phần và doanh nghiệp tư nhân.
1. Quyền của doanh nghiệp:
Quyền của doanh nghiệp được quy định cụ thể tại Điều 8 Luật Kinh doanh năm
2005 như sau:
1. Tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn hình thức kinh
doanh, đầu tư; chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh; được Nhà nước
10
khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm,
dịch vụ công ích.
- Quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh phải được thực hiện trong khuôn
khổ của pháp luật. Doanh nghiệp không được phép kinh doanh các ngành nghề mà pháp
luật cấm, đó là các ngành nghề gây phương hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mĩ tục Việt Nam và sức khoẻ
của nhân dân. Việc cấm hoặc hạn chế các ngành, nghề kinh doanh là nhằm mục đích bảo
vệ an ninh quốc gia và vì lợi ích chung của xã hội.

- Trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp có quyền lựa chọn địa bàn đầu tư, hình
thức đầu tư, có quyền xác định quy mô kinh doanh, pháp luật chỉ qui định vốn tối thiểu
phải có để thành lập doanh nghiệp trong một số ngành nghề, chứ không hạn chế sự phát
triển về vốn cũng như quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn.
- Trong kinh doanh, vốn là yếu tố quan trọng, công ty muốn phát triển, mở rộng qui
mô kinh doanh thì phải huy động vốn ở nhiều nguồn khác nhau.
- Đối với loại hình doanh nghiệp là công ty thì ngoài nguồn vốn ban đầu (vốn điều
lệ) công ty có thể huy động bằng cách tăng vốn điều lệ hoặc tạo thêm vốn bằng cách đi
vay.
- Đối với công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có thể tăng vốn vay bằng
cách phát hành trái phiếu theo qui định của pháp luật.
3. Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng.
- Việc lựa chọn khách hàng để quan hệ làm ăn là vấn đề đặc biệt quan trọng. Việc
giao kết với ai là phụ thuộc vào ý chí của doanh nghiệp, doanh nghiệp có quyền trực tiếp
giao dịch để kí kết hợp đồng theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và không
trái pháp luật.
4. Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu.
- Quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu là đảm bảo pháp lí quan trọng cho các doanh
nghiệp có một “sân chơi” đủ rộng và bình đẳng để phát triển hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp có quyền trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của mình bằng
phương thức xuất khẩu cũng như nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài về để phục vụ cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sao cho phù hợp với chức năng kinh doanh đã
được xác định trong Giấy chứng nhận Đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp.
11
5. Tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động theo yêu cầu kinh doanh.
- Doanh nghiệp tự quyết định số lượng lao động cần tuyển dụng, thuê mướn, quy
định những yêu cầu về nghề nghiệp của người lao động.
6. Chủ động ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại để nâng cao hiệu quả
kinh doanh và khả năng cạnh tranh.

- Trong phạm vi ngành nghề đã đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp có quyền tự mình
quyết định những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh như: Sản xuất cái gì? Sản
xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Thuộc quyền quyết định của doanh nghiệp, không
một tổ chức hay cá nhân nào có quyền can thiệp vào những hoạt động hợp pháp của
doanh nghiệp.
7. Tự chủ quyết định các công việc kinh doanh và quan hệ nội bộ.
- Luật doanh nghiệp năm 2005 đã nâng cao tính tự chủ của doanh nghiệp trong việc
tự mình hạn chế sự can thiệp quan liêu, tiêu cực tới chính hoạt động của doanh nghiệp,
hạn chế đến mức tối đa sự “sách nhiễu” của các cơ quan chức năng, của những người có
thế lực đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
8. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp:
- Để tồn tại và hoạt động chủ thể kinh doanh phải có tài sản và có những quyền
năng nhất định đối với tài sản đó. Doanh nghiệp có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
tài sản của mình để phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là
hoạt động kinh doanh.
- Việc trao cho doanh nghiệp quyền chủ sở hữu đối với tài sản của chính mình là
một trong những quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 nhằm tạo điều kiện cho các
loại hình doanh nghiệp hoạt động sao cho có hiệu quả trong bối cảnh của nền kinh tế thị
trường trên cơ sở tự quyết, linh hoạt đối với việc sử dụng vốn.
9. Từ chối và tố cáo mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp
luật quy định của bất kì cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào, trừ những khoản đóng góp vì
mục đích nhân đạo và công ích.
10. Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
11. Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng
theo quy định của pháp luật.
12. Các quyền khác theo quy định của pháp luật
12
Đối với doanh nghiệp tư nhân thì ngoài những quyền cơ bản được nêu trên, nó còn
có những quyền đặc thù góp phần làm cho doanh nghiệp tư nhân trở nên như một loại
hình doanh nghiệp đặc biệt:

- Thứ nhất, quyền cho thuê doanh nghiệp tư nhân. Nghĩa là chủ doanh nghiệp tư
nhân chuyển quyền sử dụng doanh nghiệp do mình đăng kí kinh doanh cho người khác
sử dụng trong một thời hạn nhất định Việc cho thuê doanh nghiệp không làm chấm dứt
tư cách pháp lí của doanh nghiệp đó.
- Thứ hai, quyền bán doanh nghiệp tư nhân, tức là chuyển giao quyền sở hữu doanh
nghiệp tư nhân cho người khác. Bên mua phải đăng kí kinh doanh lại để hoạt động kinh
doanh trên cơ sở doanh nghiệp tư nhân đã mua. Điều này cũng đồng nghĩa với việc hiểu
bán doanh nghiệp tư nhân thực chất chỉ là chuyển nhượng các tài sản của doanh nghiệp
mà không chuyển nhượng tư cách pháp lí.
- Thứ ba, quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Việc tạm ngừng hoạt động kinh
doanh không có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân được hoãn lại các nghĩa vụ phải thực
hiện với Nhà nước như nộp thuế hoặc với các bên thứ ba.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp:
Nghĩa vụ của doanh nghiệp được quy định cụ thể tại Điều 9 của Luật Kinh doanh
năm 2005 như sau:
1. Hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi
kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
Nếu muốn thay đổi ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp phải làm thủ tục thay đổi
nội dung đăng kí kinh doanh tại cơ quan đăng kí kinh doanh. Pháp luật bắt buộc kinh
doanh theo ngành nghề đã đăng kí là nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội, sự quản lí
của nhà nước.
2. Tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính
xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về thống kê- kế toán.
- Thống kê không chỉ giúp cho doanh nghiệp trong việc hạch toán kinh tế mà qua đó
Nhà nước thực hiện sự kiểm tra, theo dõi, giám sát hoạt động tài chính của doanh nghiệp
thông qua việc thanh tra.
- Doanh nghiệp có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu có liên quan đến việc thanh tra và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thanh tra.
13

3. Đăng kí mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiên các nghĩa vụ tài
chính khác theo qui định của pháp luật.
- Doanh nghiệp kinh doanh bất cứ ngành nghề gì, quy mô lớn hay nhỏ đều phải nộp
thuế.
- Ngoài nghĩa vụ nộp thuế là nghĩa vụ quan trọng nhất, doanh nghiệp còn phải thực
hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo qui định của pháp luật như đóng góp xây dựng cơ
sở hạ tầng, cơ sở văn hoá, y tế, giáo dục tại địa phương nơi doanh nghiệp đóng trụ sở.
4. Bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo qui định của pháp luật về
lao động; thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người
lao động theo qui định của pháp luật về bảo hiểm.
Việc tuyển dụng, thuê, mướn lao động trong doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện
thông qua hình thức hợp đồng lao động. Việc kí kết và thực hiện hợp đồng lao động phải
tuân thủ theo những quy định của pháp luật về hợp đồng lao động, đồng thời phải đảm
bảo chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo
đúng với những quy định trong luật bảo hiểm xã hội nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp cho người lao động.
5. Bảo đảm và chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, dịch vụ theo tiêu
chuẩn đã đăng kí hoặc công bố.
- Hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất phải đăng kí chất lượng tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền là Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng. Khi đăng kí tiêu chuẩn chất
lượng, sản phẩm này của doanh nghiệp sẽ được pháp luật bảo hộ.
6. Thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê; định
kì báo cáo đầy đủ các thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định, khi phát hiện các thông tin đã
kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các
thông tin đó.
7. Tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng
cảnh.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải có những biện pháp bảo vệ môi

trường như xử lí chất thải công nghiệp…tránh ô nhiễm, huỷ hoại môi trường.
8. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
14
3. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có sản xuất, cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ công ích:
Các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 8, Điều 9 vá các qui định khác có liên
quan của Luật này.
1.Được hạch toán và bù đắp chi phí theo giá thực hiện thầu hoặc thu phí sử dụng
dịch vụ theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.Được bảo đảm thời hạn sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thích hợp để thu hồi
vốn đầu tư và có lãi hợp lí.
3.Sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ đủ số lượng, đúng chất lượng và thời hạn
đã cam kết theo giá hoặc phí do cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định.
4.Bảo đảm các điều kiện công bằng và thuận lợi như nhau cho mọi đối tượng khách
hàng.
5.Chịu trách nhiệm trước pháp luật và khách hàng về số lượng, chất lượng, điều
kiện cung ứng và giá, phí sản phẩm, dịch vụ cung ứng.
6.Các quyền và nghĩa vụ khác theo qui định của pháp luật.
4. Các hành vi bị cấm:
Được quy định tại Điều 11 của Luật Kinh doanh năm 2005, cụ thể như sau:
1.Cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cho người không đủ điều kiện hoặc từ
chối cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cho người đủ điều kiện theo qui định của
Luật doanh nghiệp năm 2005; gây chậm trễ, phiền hà, cản trở, sách nhiễu người yêu cầu
đăng kí kinh doanh và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2.Hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà không đăng kí kinh doanh
hoặc tiếp tục kinh doanh khi đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
3.Kê khai không trung thực, không chính xác nội dung, hồ sơ đăng kí kinh doanh;
kê khai không trung thực không chính xác, không kịp thời những thay đổi trong nội dung
hồ sơ đăng kí kinh doanh.
4.Kê khai khống vốn đăng kí, không góp đủ và đúng hạn số vốn như đã đăng kí; cố

ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực tế.
5.Hoạt động trái pháp luật, lừa đảo; kinh doanh các ngành, nghề cấm kinh doanh.
6.Kinh doanh các ngành nghề kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện
kinh doanh theo qui định của pháp luật.
15
7.Ngăn cản chủ sở hữu, thành viên, cổ đông của doanh nghiệp thực hiện các quyền
theo qui định của Luật này và Điều lệ công ty.
8.Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.
5. Những yếu tố giới hạn nội dung của quyền của doanh nghiệp:
Trong thực tiễn, nội dung của quyền của doanh nghiệp bị giới hạn bởi nhiều yếu
tố:
Thứ nhất,Luật doanh nghiệp là đạo luật về tổ chức doanh nghiệp bao gồm các
quy định về quy trình khai sinh cho một doanh nghiệp; quy định về các loại doanh nghiệp
với những đặc thù riêng biệt về cơ cấu tổ chức quản lý, về quan hệ giữa các chủ sở hữu
với doanh nghiệp, về chế độ tài chính; quy định về tổ chức lại và giải thể doanh nghiệp.
Vì thế, luật doanh nghiệp đã làm rõ và giới hạn một số quyền liên quan đến tự chủ kinh
doanh và quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Sự tự quyết về mô hình quản lý doanh nghiệp
cũng chỉ được áp dụng triệt để đối với loại hình doanh nghiệp tư nhân. Đối với các loại
doanh nghiệp khác, các chủ sở hữu buộc phải sử dụng các mô hình mà luật đã quy định.
Sự lựa chọn của các thành viên, các cổ đông, chủ sở hữu cũng chỉ giới hạn trong những
nguyên tắc hoạt động của từng bộ phận trong mộ máy quản trị. Vì thế, sự sáng tạo của
doanh nhân về các mô hình quản trị mới theo nhu cầu và khả năng kinh doanh đã bị giới
hạn, cho dù là hợp lý hay không.
Ví dụ: Cho dù các doanh nghiệp có được quyền tự do lựa chọn và thay đổi ngành
nghề kinh doanh, song lại bị giới hạn bởi trách nhiệm đăng ký ngành nghề kinh doanh và
không xâm phạm những khu vực ngành nghề đặc biệt bị cấm kinh doanh.Mọi hoạt động
kinh doanh không phù hợp với nội dung đã đăng ký đều bị coi là vi phạm pháp luật. Điều
đó cho thấy, nhà nước chưa thừa nhận các hoạt động kinh doanh thực tế của doanh
nghiệp. Vì thế, nếu có phát sinh tình huống buộc doanh nghiệp phải tham gia vào các
giao dịch không phù hợp với chức năng đã đăng ký, họ đành thực hiện giao dịch thông

qua cơ chế ủy thác. Điều này có thể làm tăng chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp.

Thứ hai, vị trí của pháp luật doanh nghiệp trong hệ thống pháp luật kinh doanh –
thương mại ảnh hưởng đến giới hạn của chế định quyền và nghĩa vụ. Với tư cách là đạo
luật quy định về các loại chủ thể kinh doanh trên thị trường, luật doanh nghiệp xác lập
chủ quyền cho các doanh nghiệp bằng các quy định về thành lập và tổ chức doanh
nghiệp. Các hoạt động hay hành vi kinh doanh cụ thể được các lĩnh vực pháp luật khác
16
như Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, pháp luật về giá… điều chỉnh. Vì thế, khi các
lĩnh vực pháp luật nói trên xác lập hành lang pháp lý cho hành vi của doanh nghiệp cũng
đồng thời làm rõ giới hạn của các quyền năng được luật doanh nghiệp ghi nhận.
Thứ ba, dù quyền tự do kinh doanh đã được chi nhận trên dưới hai mươi năm qua,
song nội hàm của quyền năng này vẫn chưa thực sự ổn định bởi khái niệm quyền quản lý
kinh tế của nhà nước vẫn chưa ổn định. Người ta vẫn bàn luận về nguyên tắc doanh nhân
được làm những gì mà pháp luật không cấm. Thế nhưng, thực tế cho thấy, khi pháp luật
không cấm mà cũng không cho phép hoặc chưa quy định về một vấn đề gì đó, thậm chí là
chưa làm rõ về một nội dung đã được quy định, thì doanh nhân không dám hành xử, các
cơ quan nhà nước có chức năng quản lý cũng không cho phép người kinh doanh thực
hiện bất cứ hành vi nào có liên quan. Lúc đó, lĩnh vực hoặc vấn đề nói trên sẽ bị đóng
băng trước doanh nhân. Người dân không thể nại vào các quyền được quy định trong luật
doanh nghiệp để hành xử. Thái độ sợ trách nhiệm của các cán bộ và cơ quan công quyền
dường như đã làm giới hạn chủ quyền của doanh nghiệp.
Vì những lẽ trên, cho dù những quyền của doanh nghiệp được quy định rõ ràng
trong luật doanh nghiệp như đã phân tích, song trong thực tiễn, chẳng khi nào doanh
nhân hay cơ quan quản lý nhà nước lại vận dụng trực tiếp các điều khoản nói trên để xử
lý những vụ việc cụ thể. Tính tuyên ngôn và cam kết đã làm cho quy định của pháp luật
chỉ còn là sự liệt kê tên gọi của các quyền, nghĩa vụ mà doanh nghiệp được thụ hưởng.
Chúng nghiễm nhiên trở thành những chuẩn mực cho nhận thức pháp lý hơn là căn cứ
pháp lý để giải quyết từng vụ việc cụ thể. Tên gọi của từng quyền, nghĩa vụ mang tính
khái quát nên thiếu tính cụ thể, dễ tạo ra nhiều cách hiểu khác khau.


6. Ý nghĩa và một số đánh giá về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp:
Một là, từ lý thuyết, các quyền và nghĩa vụ được Luật doanh nghiệp 2005 ghi
nhận đã xác lập năng lực pháp luật cho doanh nghiệp.Mọi sự thay đổi của pháp luật về
đối tượng áp dụng cũng như nội hàm và số lượng quyền, nghĩa vụ mà doanh nghiệp được
thụ hưởng, đều ảnh hưởng nhất định đến chủ quyền của các loại doanh nghiệp, từ đó tác
động đến trật tự và quan hệ cạnh tranh trên thị trường cũng như mối quan hệ giữa quản lý
17
nhà nước và quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Với nhiệm vụ tạo lập khung pháp
lý chung về tổ chức doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp 2005 có đối tượng áp dụng bao
gồm các loại doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Vì thế, sự ghi nhận các quyền,
nghĩa vụ nói trên của doanh nghiệp trong pháp luật sẽ áp dụng thống nhất đối với tất cả
các chủ thể kinh doanh gọi là doanh nghiệp, cho dù thuộc bất cứ hình thức sở hữu nào để
tạo ra một trật tự chung trong cạnh tranh trên thị trường. Mặt khác, trên tinh thần giảm tối
đa khả năng can thiệp từ phía công quyền vào hoạt động kinh doanh và quản trị nội bộ
của doanh nghiệp, pháp luật có xu hướng mở rộng chủ quyền của doanh nghiệp và xây
dựng cơ chế bảo hộ cho chủ quyền đó.
Hai là, bằng việc ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cho doanh nghiệp, pháp luật đã
xác lập mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước mà chúng ta quen gọi là quan hệ về
quốc tịch. Trong giới hạn về đối tượng áp dụng, luật doanh nghiệp xây dựng cơ chế đăng
ký kinh doanh để xác lập quốc tịch cho doanh nghiệp.Những chế định trong luật doanh
nghiệp chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp được thành lập theo luật doanh nghiệp,
tức là những doanh nghiệp có mang quốc tịch Việt Nam thuộc những thành phần kinh tế
và hình thức sở hữu khác nhau, kể cả sở hữu có yếu tố vốn nước ngoài. Các doanh nghiệp
có quốc tịch nước ngoài khi có các hoạt động kinh doanh mà không thành lập doanh
nghiệp tại Việt Nam sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định liên quan đến hoạt động của
họ như pháp luật thương mại …
Ba là, về kỹ thuật lập pháp, các quyền cơ bản mà pháp luật đã liệt kê có nội hàm
rất rộng và khái quát.Chế định về quyền trong pháp luật doanh nghiệp chỉ đơn giản là sự
ghi nhận, tuyên bố của nhà nước về chủ quyền của doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn đâu

đó những rủi ro cho số phận của pháp luật bởi sự tuỳ tiện trong cách hiểu về nội dung
từng quyền của doanh nghiệp, cả từ phía các cơ quan nhà nước lẫn doanh nhân. Vì thế,
nếu có bất kỳ sự xung đột nào trong nhận thức về nội hàm của các quyền, nghĩa vụ nói
trên đều phải trông chờ vào sự hướng dẫn từ các văn bản pháp luật khác.
Bốn là, sự ghi nhận về quyền doanh nghiệp trong pháp luật còn là cam kết của
nhà nước trước doanh nhân về việc bảo đảm cơ hội kinh doanh và khả năng phát triển
trong một môi trường lành mạnh, ổn định. Các quy định của pháp luật về những quyền kể
18
trên sẽ chỉ trở thành hiện thực và có ý nghĩa đối với doanh nghiệp khi được công quyền
bảo đảm thực hiện bằng các cơ chế cần thiết và phù hợp. Nếu không, chúng sẽ chỉ là
những tuyên ngôn không có giá trị thực tế.Sự nhũng nhiễu của các cán bộ quản lý đối với
doanh nghiệp vẫn diễn ra, cho dù doanh nghiệp đã được pháp luật thừa nhận quyền “từ
chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định; khiếu nại, tố
cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”. Mặt khác, với vai trò định hướng
cho sự phát triển của thị trường, nhà nước còn thực hiện nhiều chính sách phát triển kinh
tế như chính sách thuế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi đầu tư… để bảo đảm cho doanh nghiệp
thực hiện quyền của mình hiệu quả nhất.
Năm là, cho dù các quyền được quy định khái quát, chung chung và thiếu tính cụ
thể, song lại có ý nghĩa rất lớn đến việc hình thành năng lực kinh doanh và xác định chức
năng cho doanh nghiệp.Pháp luật về doanh nghiệp luôn có ý thức đứng về phía doanh
nghiệp để bảo vệ quyền lợi một cách tuyệt đối cho họ, cho dù là công cụ để nhà nước
quản lý đời sống kinh tế. Với tư duy mở, hoạt động của doanh nghiệp được điều chỉnh
trên nguyên tắc pháp luật không cấm thì được thực hiện.

B- Các hình thức chuyển đổi Doanh nghiệp.
I- Chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể được chuyển đổi thành Công ty cổ phần hoặc
ngược lại. Thủ tục chuyển đổi Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần (sau đây
gọi là Công ty được chuyển đổi) thành Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn
(sau đây gọi là Công ty chuyển đổi) được quy định như sau:

19
- Hội đồng thành viên, chủ sở hữu Công ty hoặc đại hội đồng cổ đông thông qua
quyết định chuyển đổi và Điều lệ Công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các
nội dung chủ yếu sau: Tên, địa chỉ trụ sở chính thức của Công ty được chuyển đổi; tên, địa
chỉ trụ sở chính của Công ty chuyển đổi; Thời hạn và điều kiện chuyển tài sản, phần vốn
góp, cổ phần, trái phiếu của Công try được chuyển đổi thành tài sản, cổ phần, trái phiếu,
phần vốn góp của Công ty chuyển đổi; phương án sử dụng lao động; thời hạn thực hiện
chuyển đổi;
- Quyết định chuyển đổi phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông qua cho
người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua quyết định;
- Việc đăng ký kinh doanh của Công ty chuyển đổi được tiến hành theo quy định
của Luật Doanh nghiệp. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo
quyết định chuyển đổi.
Sau khi đăng ký kinh doanh, Công ty được chuyển đổi chấm dứt tồn tại; Công ty
chuyển đổi được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ
chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của Công ty được chuyển
đổi.
1. Chuyển đổi Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thành Công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được chuyển đổi thành Công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên khi chủ sở hữu Công ty đã góp đủ số vốn vào Công
ty như đã cam kết. Công ty được chuyển đổi bằng cách:
- Chủ sở hữu Công ty chuyển nhượng, cho, tặng một phần sở hữu của mình tại Công
ty cho một hoặc một số người khác; hồ sơ chuyển đổi bao gồm: a) Giấy đề nghị chuyển
đổi; b) Điều lệ Công ty chuyển đổi như quy định tại Điều 22 Luật Doanh nghiệp 2005; c)
Danh sách thành viên gồm nội dung quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 23 Luật Doanh
nghiệp 2005 và phần vốn góp tương ứng của mỗi thành viên; d) Hợp đồng chuyển
nhượng hoặc giấy tờ xác nhận việc cho, tặng một phần quyền sở hữu của Công ty.
- Công ty huy động thêm vốn góp từ một hoặc một số người khác. Hồ sơ chuyển đổi
bao gồm: a) Giấy đề nghị chuyển đổi; b) Diều lệ Công ty chuyển đổi như quy định tại

Điều 22 Luật Doanh nghiệp 2005; c) Danh sách thành viên theo quy định tại Điều 23
Luật Doanh nghiệp 2005; d) Quyết định của chủ sở hữu Công ty về việc huy động thêm
vốn góp.
20
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày chủ sở hữu Công ty chuyển nhượng,
cho, tặng một phần sở hữu của mình tại Công ty cho một hoặc một số người khác hoặc
Công ty huy động thêm vốn góp hoặc vốn cam kết góp từ một hoặc một số người khác,
Công ty gửi hoặc nộp hồ sơ chuyển đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan
Nhà nước quản lý đầu tư có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng
ký kinh doanh hoặc cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty chuyển đồi; Đồng
thời thu hồi lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư đối
với Công ty được chuyển đổi.
Công ty chuyển đổi kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm
về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của Công ty
được chuyển đổi.
Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan Nhà
nước quản lý đầu tư có thẩm quyền phải thông qua cho các cơ quan Nhà nước có liên
quan theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp 2005; đồng thời xóa tên
Công ty được chuyển đổi trong sổ đăng ký kinh doanh.
2. Chuyển đổi Công ty cổ phần hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- Công ty cổ phần hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có thể chuyển
đổi thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên bằng cách:
+ Một cổ đông hoặc thành viên nhận chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp
tương ứng của tất cả các cổ đông, thành viên còn lại; hoặc
+ Một cổ đông hoặc thành viên là pháp nhân nhận góp vốn đầu tư bằng toàn bộ cổ phần
hoặc phần vốn góp của tất cả các cổ đông, thành viên còn lại, hoặc

+ Một người không phải là thành viên hoặc cổ đông nhận chuyển nhượng hoặc nhận
góp vốn đầu tư bằng toàn bộ số cổ phần hoặc phần vốn góp của tất cả cổ đông hoặc thành
viên của Công ty.
- Hồ sơ chuyển đổi bao gồm: a) Giấy đề nghị chuyển đổi; b) Điều lệ Công ty chuyển
đổi; c) Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần hoặc phần vốn góp, hoặc thỏa thuận về việc
nhận góp vốn đầu tư bằng cổ phần hoặc phần vốn góp.
21
- Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày một cổ đông hoặc một thành viên
nhận chuyển nhượng, hoặc nhận góp vốn đầu tư, hoặc một người khác nhận chuyển
nhượng hoặc nhận góp vốn đầu tư theo quy định trên, Công ty gửi hoặc nộp hồ sơ chuyển
đổi tại cơ quan đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký hoặc cơ quan Nhà nước
quản lý đầu tư có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng
ký kinh doanh hoặc cơ quan Nhà quản lý đầu tư có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhân
đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty chuyển đổi; đồng thời, thu
hồi lại Giấy chứng nhận đầu tư đã cấp đối với Công ty được chuyển đổi.
- Công ty chuyển đổi kế thừa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách
nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của
Công ty được chuyển đổi.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
hoặc Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan Nhà nước quản lý
đầu tư có thẩm quyền phải thông báo cho các cơ quan Nhà nước liên quan theo quy định tại
khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp 2005; đồng thời xóa tên Công ty được chuyển đổi trong
sổ đăng ký kinh doanh.
3. Chuyển đổi Công ty trách nhiệm hữu hạn thành Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể đổi thành Công ty cổ phần. Trường hợp Công
ty trách nhiệm hữu hạn có ít hơn ba thành viên, việc huy động thêm thành viên mới có
thể thực hiện đồng thời với việc chuyển đổi Công ty. Thành viên mới có thể là người
nhận chuyển nhượng một phần vốn góp của thành viên hiện có hoặc là người góp thêm
vốn vào Công ty.

- Hồ sơ chuyển đổi bao gồm: a) Giấy đề nghị chuyển đổi; b) Quyết định của chủ sở
hữu Công ty hoặc hội đồng thành viên về việc chuyển đổi Công ty; c) Điều lệ Công ty cổ
phần; d) Danh sách cổ đông sáng lập (nếu có) hoặc cổ đông phổ thông với nội dung theo
quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Doanh nghiệp 2005; đ) Hợp đồng chuyển nhượng
phần vốn góp hoặc thỏa thuận góp vốn đầu tư.
- Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày chủ sở hữu Công ty hoặc hội đồng
thành viên ra quyết định chuyển đổi, Công ty gửi hoặc nộp hồ sơ chuyển đổi tại cơ quan
đăng ký kinh doanh có thẩm quyền hoặc cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư đã cấp Giấy
chứng nhận đầu tư.
22
Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ chuyển đổi, cơ quan đăng
ký kinh doanh hoặc cơ quan Nhà nước quản lý đầu tư cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty chuyển đổi; đồng thời, thu hồi lại
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư đã cấp đối với Công ty
được chuyển đổi.
- Công ty chuyển đổi kế thửa toàn bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách
nhiệm về các khoản nợ, gồm cả nợ thuế, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác của
Công ty được chuyển đổi.
- Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan Nhà nước
quản lý đầu tư có thẩm quyền phải thông báo cho các cơ quan Nhà nước có liên quan theo
quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Doanh nghiệp 2005; đồng thời xóa tên Công ty được
chuyển đổi trong sổ đăng ký kính doanh.
4. Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty trách nhiệm hữu hạn.
(i) DNTN có thể chuyển đổi thành công ty TNHH theo quyết định của chủ DNTN
nếu đủ các điều kiện sau đây:
a) Có đủ các điều kiện quy định tại điều 24 Luật Doanh nghiệp 2005.
b) Chủ DNTN phải là chủ sở hữu công ty (đối với trừờng hợp chuyển đổi thành
công ty TNHH một thành viên là cá nhân), hoặc thành viên (đối với truờng hợp chuyển
đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên);

c) Chủ DNTN cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng tòan bộ tài sản
của mình đối với các khỏan nợ chưa thanh tóan của DNTN và cam kết thanh tóan đủ số
nợ khi đến hạn.
d) Chủ DNTN có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý
về việc công ty TNHH được chuyển đổi tiếp nhận và thực hiện các hợp đồng đó.
đ) Chủ DNTN cam kết bằng văn bản hoặc có thỏa thuận bằng văn bản với các thành
viên góp vốn khác về việc tiếp nhận và sử dụng lao động hiện có của DNTN.
(ii) Hồ sơ chuyển đổi bao gồm:
a) Điều lệ công ty;
b) Giấy đề nghị chuyển đổi và đăng kí kinh doanh.
23
c) Danh sách chủ nợ và số nợ chưa thanh tóan, bao gồm cả nợ thuế, thời hạn thanh
tóan; danh sách ngừời lao động chưa thanh lý và các tài liệu tương ứng quy định tại các
điểm c, d và đ khỏan (i) nêu trên;
d) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của DNTN;
đ) Danh sách thành viên theo quy định tại điều 223 Luật Doanh nghiệp 2005 đối với
truờng hợp chuyển đổt thành côn ty TNHH hai thành viên trở lên.
(iii) Trong thời hạn 5 ngày làm việc (theo quy định tại điều 28 NĐ 43/2010/ NĐ-
CP) , kể từ khi nhận hồ sơ, cơ quan đăng kí kinh doah xem xét và cấp Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh đối với công ty TNHH, nếu có đủ các điều kiện quy định tại khỏan
(i) nêu trên. Trừơng hợp từ chối phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lí do và hướng dẫn
những yêu cầu cần sửa đổi, bổ sung.
(iv) Trong thời hạn 7 ngày làm việc , kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh quy định tại khỏan (iii) nêu trên, cơ quan đăng kí kinh doanh hoặc cơ quan quản lý
nhà nước về đầu tư có thẩm quyền phải thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan
theo quy định tại khỏan 1 điều 27 Luật Doanh nghiệp 2005; đồng thời xóa tên DNTN đã
chuyển đổi trong sổ đăng kí kinh doanh.
5. Chuyển đổi công ty TNHH một thành viên.
Trường hợp chủ sở hữu công ty chuyển nhượng một phần vốn điều lệ cho tổ chức,
cá nhân khác thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày chuyển nhượng, chủ sở hữu công ty

và người nhận chuyển nhượng phải đăng ký việc thay đổi số lượng thành viên với cơ
quan đăng ký kinh doanh. Kể từ ngày đăng ký thay đổi, công ty được quản lý và hoạt
động theo quy định về công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Trường hợp chủ sở hữu công ty chuyển nhượng toàn bộ vốn điều lệ cho một cá nhân
thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hòan thành thủ tục chuyển nhượng, người nhận
chuyển nhượng phải đăng ký thay đổi chủ sở hữu công ty và tổ chức quản lý, hoạt động
theo quy định về công ty TNHH một thành viên là cá nhân.
II. Việc đăng kí lại, chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai.
* Đăng kí lại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai.
- Theo quy định tại Nghị định số 101/2006/ NĐ-CP ngày 21-9- 2006, các hình thức
đăng kí lại doanh nghiệp bao gồm.
+ Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngòai có từ hai chủ sở
hữu trở lên đăng ký lại thành công ty TNHH hai thành viên trở lên;
24
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngòai do một tổ chức hoặc một cá nhân
nước ngòai đăng ký lại thành công ty TNHH một thành viên;
+ Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngòai được thành lập theo Nghị định số
38/2003/ NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính phủ đăng ký lại thành công ty cổ phần.
- Hồ sơ đăng ký lại doanh nghiệp gồm: Văn bản đề nghị đăng ký doanh nghiệp do
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp ký; dự thảo điều lệ doanh nghiệp sửa đổi phù
hợp với quy định của pháp luật về doanh nghiệp; bản sao hợp lệ giấy phép đầu tư và các
giấy phép điều chỉnh. Cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư không được yêu cầu doanh
nghiệp nộp thêm bất kỳ giấy tờ nào khác ngòai quy định này.
- Trình tự, thủ tục đăng lý lại doanh nghiệp:
+ Doanh nghiệp đề nghị đăng ký lại nộp hồ sơ theo quy định trên tại cơ quan cấp
Giấy chứng nhận đầu tư và chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác về nội dung hồ
sơ đăng ký lại;
Trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan cấp
Giấy chứng nhận đầu tư xem xét và cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Nếu từ chối hoặc có
yêu cầu sửa đổi, bổ sung thì thông báo rõ lý do với doanh nghiệp bằng văn bản.

- Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp đăng ký lại:
+ Doanh nghiệp đăng ký lại kế thừa tòan bộ các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu
trách nhiệm về các khỏan nợ chưa thanh tóan, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ khác
của doanh nghiệp trước khi đăng kí lại.
+ Doanh nghiệp có các quyền sau đây: được hoạt động theo nội dung quy định tại
Giấy chứng nhân đăng ký đầu tư; được giữ lại tên doanh nghiệp, con dấu, tài khỏan, mã
số thuế đã đăng ký; có các quyền khác theo quy định tại Luật đầu tư 2005 và Luật Doanh
nghiệp 2005.
* Chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các hình thức chuyển đổi doanh nghiệp gồm:
+ Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngòai có từ hai chủ sở
hữu trở lên chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên;
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngòai do một tổ chức hoặc cá nhân nước ngòai đầu
tư chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên;
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai là công ty TNHH chuyển đổi thành công
ty cổ phần và ngược lại.
25

×