Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Luận văn Kinh tế biển ở Trà Vinh pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (937.81 KB, 100 trang )




1





Luận văn
Kinh tế biển ở Trà Vinh



2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy, biển và kinh tế biển có vị trí
đặc biệt quan trọng đối với các quốc gia có biển trong quá trình phát triển.
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là “Thế kỷ của đại dương”, bởi
cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên
thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền, sẽ bị cạn kiệt
sau vài ba thập kỷ tới. Hầu hết các vấn đề mang tính toàn cầu có liên quan tới
sự sống còn của con người trong thế giới đương đại đều liên quan chặt chẽ
đến biển. Việt Nam là một quốc gia ven biển, có bờ biển dài trên 3.260 km, có
những ưu thế và vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng đối với khu vực và trên
thế giới, có một tài nguyên biển khá phong phú và đa dạng, là điều kiện thuận
lợi thúc đẩy kinh tế biển phát triển, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên từ
biển, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ lợi thế
về vị trí, địa lý và vai trò của biển đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội,


an ninh và quốc phòng. Ngày 06/5/1993 Bộ chính trị ra Nghị quyết 03-
NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trong những năm trước
mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với
tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; Ngày 22/9/1997
Bộ chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế
biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ quan điểm chỉ đạo trên,
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua
Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Thực hiện theo quan
điểm chỉ đạo của Đảng, trong hơn 20 năm đổi mới và mở cửa. Việt Nam đã
chú trọng khai thác tiềm năng biển, sử dụng các nguồn lực biển phục vụ tích
cực cho công cuộc phát triển kinh tế. Các ngành khai thác dầu khí, thủy sản, du
lịch, cảng biển, đóng tàu trở thành những ngành kinh tế quan trọng, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đi đôi với đảm bảo an ninh quốc phòng. Cơ cấu



3

ngành nghề có sự thay đổi lớn. Tiếp tục công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt Nam phải đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng nhằm tránh tình
trạng tuột hậu xa hơn về kinh tế. Để bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững, các lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển và vùng ven biển phải được coi là
động lực chủ yếu. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại như điều kiện hiện nay, chúng ta
sẽ không bắt kịp xu thế chung của thế giới, sẽ hạn chế trong việc bảo vệ và khai
thác lợi thế từ biển, mà lại càng hạn chế khi mở rộng ra biển quốc tế.
Trà Vinh có 65 km bờ biển, Đất Trà Vinh là một dải đồng bằng ven
biển bao gồm cả vùng châu thổ được hình thành lâu đời và những vùng đất trẻ
mới bồi, là một trong những vùng có tiềm năng rất lớn về kinh tế, nhất là
trong lĩnh vực nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Vì vậy, vùng biển và ven biển
Trà Vinh có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế, giao lưu thương

mại và an ninh quốc phòng của tỉnh nói riêng và Đồng bằng Sông cửu Long
nói chung. Cảng biển Trà Vinh là cảng thương mại đầu mối cho các tỉnh
Đồng bằng Sông cửu Long ra vào cảng Cần Thơ. Mặc khác, địa hình Trà
Vinh là một bán đảo, ba bên giáp sông, một bên giáp biển. Trà Vinh là một
tỉnh cùng, chỉ có một con đường bộ duy nhất nói Trà Vinh với thành phố Hồ
Chí Minh và các tỉnh khác. Để Trà Vinh phát triển toàn diện và bền vững,
không còn hướng nào khác là phải phá thế độc đạo, hướng ra biển. Quán triệt
quan điểm chỉ đạo của Đảng, trong những năm vừa qua, Đảng bộ và nhân dân
Trà Vinh luôn quan tâm đầu tư cho phát kinh tế biển, coi đây là ngành kinh tế
mũi nhọn, đột phá cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc
phòng của tỉnh. Tỉnh đã chú trọng thu hút các nguồn lực trong và ngoài tỉnh
cho đầu tư phát triển, khai thác được tiềm năng thế mạnh và lợi thế của ngành
kinh tế biển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng theo hướng tích
cực, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập, giảm hộ nghèo
vùng ven biển, thúc đẩy kinh tế xã hội vùng ven biển phát triển, bảo vệ và
khai thác nguồn tài nguyên rừng theo hướng bền vững, chú trọng đảm bảo an
ninh quốc phòng.



4

Tuy nhiên, nhận thức về vị trí, vai trò của biển trong phát triển kinh tế
và bảo vệ an ninh quốc phòng của các cấp, các ngành và nhân dân Trà Vinh
chưa đầy đủ; cơ chế, chính sách chưa đủ thông thoáng để mở cửa vùng biển
trong tiến trình hội nhập. Chưa đánh thức hết tiềm năng và thế mạnh của kinh
tế biển phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội và an ninh - quốc
phòng. Kinh tế biển vẫn còn nhỏ bé về quy mô, chưa hợp lý về cơ cấu ngành
nghề. Trình độ kỹ thuật nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản còn hạn
chế. Trình độ của người lao động đối với kinh tế biển còn thấp. Tình trạng

khai thác, đánh bắt còn bừa bãi, ô nhiễm môi trường chưa kịp thời khắc phục.
Để tiếp tục quản lý, khai thác hiệu quả tiềm năng thế mạnh của kinh tế
biển, để kinh tế biển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, cần phải đánh giá thực trạng
kinh tế biển để có những giải pháp kịp thời thúc đẩy kinh tế biển Trà Vinh. Vì vậy,
tôi chọn đề tài “Kinh tế biển ở Trà Vinh” làm đề tài luận văn thạc sĩ tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ vị thế, vai trò và tiềm lực của kinh tế biển, ngày 06/5/1993 Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 03-NQ/TW về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng phải đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích
quốc gia; Ngày 22/9/1997 Bộ chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy
mạnh phát triển kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ
quan điểm chỉ đạo trên, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X đã thông qua Nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020,
phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo
đảm vững chắc chủ quyền, biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm cho đất nước giàu mạnh. Bên cạnh đó, còn
có những thông tin, bài viết được đề cập đến kinh tế biển:
- Thông tin chuyên đề số 08, ngày 25/12/2006 của Văn phòng Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam về chiến lược và mô hình quản lý biển của một số nước.
- Hồ sơ sự kiện chuyên đề của Tạp chí Cộng sản số 20, ngày 25/9/2007.



5

- Bài viết của tiến sĩ Tạ Quang Ngọc, Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản Việt Nam
“Để Việt Nam sớm trở thành một quốc gia mạnh về biển và giàu lên từ biển”
trong tạp chí cộng sản sô 777, tháng 7/2007.
- Biển và hải đảo Việt Nam, do Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng

phối hợp với Cục Chính trị Quân chủng Hải quân biên soạn…
Có thể nói kinh tế biển là lĩnh vực còn rất mới, ít được nghiên cứu. Kinh
tế biển ở Trà Vinh lại càng ít được đề cập, cho đến nay chưa có một công trình,
bài viết nói về kinh tế biển. Do đó, cần được nghiên cứu cơ bản và toàn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế biển, phân tích thực trạng
kinh tế biển ở Trà Vinh. Từ đó, xác định phương hướng và giải pháp phát
triển kinh tế biển ở Trà Vinh.
- Trình bày khái quát lý luận về kinh tế biển và những nhân tố ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế biển.
- Đánh giá thực trạng kinh tế biển ở Trà Vinh và phân tích những
nguyên nhân thành công, hạn chế của kinh tế biển ở địa phương.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp để phát triển kinh tế biển ở
Trà Vinh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là kinh tế biển nằm trong tổng thể
nền kinh tế của tỉnh, nhưng trọng tâm là nghiên cứu giữa lực lượng sản xuất
và các mối quan hệ kinh tế, xã hội trong kinh tế biển ở Trà Vinh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Kinh tế biển ở Trà Vinh từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận



6

Trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm, đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng cùng những bài viết tổng

kết về sự phát triển kinh tế biển Việt Nam của các nhà quản lý, của các học
giả và một số công trình nghiên cứu khoa học khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-
Lênin như: phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp lôgíc và lịch
sử, phương pháp tổng hợp và phân tích.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm rỏ hơn lý luận về kinh tế biển và vai trò của nó trong
nền kinh tế Việt Nam nói chung và Trà Vinh nói riêng.
- Đánh giá khách quan mặt mạnh, mặt yếu của kinh tế biển ở Trà Vinh
và nguyên nhân.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp có tính khả thi để góp
phần phát triển kinh tế biển ở Trà Vinh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 03 chương, 8 tiết.









7

Chương 1
KINH TẾ BIỂN - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


1.1. KINH TẾ BIỂN - NỘI DUNG VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
1.1.1. Nội dung kinh tế biển
Theo một nghĩa chặt chẽ nào đó, cho tới nay, việc xác định nội dung
của kinh tế biển vẫn còn đang là vấn đề để ngỏ. Tuy nhiên, trên thực tế, trong
phân tích và thống kê kinh tế, việc quy ước về nội dung kinh tế biển lại không
phải là vấn đề gây nhiều tranh cãi về mặt học thuật. Về cơ bản, kinh tế biển là
khái niệm mang tính thực tiễn, nghĩa là người ta có thể không tranh cãi nhiều
về bản thân các ngành nghề thuộc kinh tế biển, mà phần phải bàn luận nhiều
hơn lại thuộc về các lĩnh vực liên quan và không phải diễn ra trên biển. Do
tính đặc thù của môi trường biển, mọi hoạt động kinh tế biển đều liên quan
mật thiết và được quyết định từ trong đất liền, nên không thể nói về kinh tế
biển mà không tính tới những hoạt động kinh tế liên quan đến biển.
Để có một khái niệm mang tính quy ước, chúng tôi xin định nghĩa kinh
tế biển như sau: Kinh tế biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên
biển và các hoạt động kinh tế diễn ra trên đất liền nhưng trực tiếp liên quan
đến khai thác biển.
Từ đó kinh tế biển bao gồm:
- Các hoạt động kinh diễn ra trên biển: 1.Kinh tế Hàng hải (Vận tải biển
và dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. khai thác
dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ tìm kiếm , cứu
hộ, cứu nạn; 7. Kinh tế đảo.
- Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy
không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này nhờ vào yếu
tố biển hoặc trực tiếp phục vụ cho các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền



8

ven biển, bao gồm: 1. Đóng và sửa chữa tàu biển; 2. Công nghiệp chế biến

dầu, khí; 3. Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5.
Thông tin liên lạc biển; 6. Nghiên cứu khoa học – công nghệ biển; 7. Đào tạo
nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển; 8. Điều tra cơ bản về tài nguyên –
môi trường biển.
Từ định nghĩa về kinh tế biển như đã nêu cho chúng ta thấy đặc điểm
của kinh tế biển khác so với một số ngành kinh tế khác đó là:
- Kinh tế biển là một lĩnh vực kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực. Bao gồm
nhiều ngành, nghề khác nhau, có quan hệ và tác động lẩn nhau.
- Quá trình phát triển của kinh tế biển phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện về
vị trí địa lý, tiềm năng tài nguyên biển và vùng ven biển, thời tiết và khí hậu…
Kinh tế biển chịu sự tác động rất lớn của thiên nhiên, bão lũ.
- Kinh tế biển là ngành kinh tế chủ yếu nhờ vào việc khai thác tài
nguyên, khoáng sản là chính. Thí dụ như: khai thác dầu khí, đánh bắt thuỷ
sản, du lịch…
- Kinh tế biển là ngành kinh tế mà ở đó mọi hoạt động chủ yếu diễn ra
trên biển và ven biển. Do vậy, tác động rất lớn đến môi trường sinh thái biển.
- Trong kinh tế biển doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò đầu tàu trong
một số ngành trọng yếu của kinh tế biển như: tìm kiếm, khai thác, chế biến
dầu khí; khai thác khoáng sản biển và ven biển; cảng biển Với vốn đầu tư
lớn, sử dụng lao động và công nghệ chất lượng cao, đóng góp lớn cho ngân
sách nhà nước, mhiệm vụ mở đường, hỗ trợ cho các ngành kinh tế phát triển,
khai thác có hiệu quả tài nguyên biển.
- Hoạt động kinh tế biển mang tính liên vùng, biểu hiện thông qua vận
tải biển, khai thác đánh bắt thuỷ sản không chỉ dừng lại trong phạm vi vùng
biển của địa phương mà diễn ra trên phạm vi thềm lục địa thuộc chủ quyền
Việt Nam.



9


Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ưu thế và vị trí chiến lược
đặc biệt quan trọng đối với khu vực và trên thế giới. Cùng với xu hướng gia
tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền, sẽ bị cạn kiệt trong
vài ba thập kỷ tới. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, các
lĩnh vực kinh tế liên quan đến biển sẽ ngày càng có vai trò quan trọng. Hơn
nữa, hướng phát triển ra biển còn là đòi hỏi bức thiết của chiến lược mở cửa
và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.Vấn đề đặt ra là,
trong tình hình phát triển kinh tế biển của nước ta chậm như hiện nay, nếu
không bắt kịp xu thế chung của thế giới, thì không chỉ hạn chế trong việc bảo
vệ và khai thác lợi thế của biển mà còn lại càng hạn chế khi vươn ra biển quốc
tế. Việt Nam là một quốc gia có biển, một nhân tố mà thế giới luôn xem như
một yếu tố địa lợi, chúng ta phải cần tăng cường hơn nữa những khả năng
vươn ra biển và xác định đây là động lực quan trọng thúc đẩy các vùng khác
trong đất liền phát triển.
1.1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế biển nói chung và kinh tế
biển của Việt Nam nói riêng
1.1.2.1. Tài nguyên của biển và vùng ven biển
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của mọi dân tộc, biển có vai trò
rất quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh, quốc
phòng. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, hội nhập
kinh tế quốc tế, vị trí, vai trò của biển lại càng quan trọng hơn. Các nước có
biển đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi
mặt để chinh phục và khai thác biển. Như chúng ta đã biết mọi sự thành công
hay thất bại đều do con người mà ra, nguồn lực con người quyết định sự phát
triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Nhưng ngoài nguồn lực con người để
phát triển kinh tế xã hội, thì yếu tố về lợi thế tài nguyên là động lực quan




10
trọng thúc đẩy cho sự phát triển nhanh và bền vững. Việt Nam có đường bờ
biển dài hơn 3.260 km, là quốc gia có nguồn tài nguyên biển khá phong phú,
sẽ tạo điều kiện cho ngành kinh tế biển phát triển.
Theo Mác lưu thông hàng hoá là một khâu không thể thiếu trong một
chu trình sản xuất hàng hoá. Lưu thông hàng hoá là cầu nói giữa sản xuất và
tiêu dùng, nó sẽ làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá nhanh hay
chậm. Mặc khác, lưu thông ảnh hưởng lớn đến giá thành của sản phẩm hàng
hoá. Do vậy, lưu thông tác động rất lớn đến sức cạnh tranh của sản phẩm hàng
hoá. Để quá trình lưu thông hàng hoá thuận lợi thì một trong những giải pháp
quan trọng là phải phát triển hệ thống giao thông vận tải đồng bộ, hiện đại.
Ngày nay, trong hệ thống giao thông vận tải thì giao thông vận tải biển được
các nhà sản xuất, kinh doanh ưa chuộng vì ưu thế của vận tải biển là chi phí
thấp, khối lượng vận tải lớn. Vì vậy, vận tải biển phát triển đã thúc đẩy
thương mại các quốc gia ngày càng trở nên có hiệu quả. Phát triển vận tải
biển thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá, là động lực thúc đẩy phát
triển công nghiệp. Trong sản xuất công nghiệp, chi phí cho vận tải nguyên vật
liệu, hàng hoá chiếm tỷ trọng lớn, nhất là khi phải vận chuyển xa từ quốc gia
này đến quốc gia khác, thậm chí từ châu lục này tới châu lục khác. Vận tải
bằng đường biển hầu như không phải làm đường mà chỉ xây dựng cảng và
mua sắm phương tiện vận tải. Từ đó, vị thế địa lý biển là nhân tố địa lợi cho
quá trình phát triển vận tải biển và cảng biển phục vụ cho quá trình phát triển
kinh tế, xã hội. Việt Nam có bờ biển dài, là lợi thế để xây dựng nhiều cảng
biển phục vụ cho nhu cầu vận tải hàng hoá trong nước và quốc tế, tạo điều
kiện cho ngành giao thông vận tải biển ngày càng phát triển. Đến năm 2005,
Việt Nam có 126 cảng biển ở các vùng, miền trong đó có 4 cảng có công suất
trên 10 triệu tấn/năm và 14 cảng có công suất trên 1 triệu tấn/năm, còn lại là
cảng quy mô nhỏ, khả năng neo đậu được tàu 3.000 tấn trở xuống [47, tr.6].
Trong những năm sắp tới, nền kinh tế phát triển mạnh theo hướng hội nhập




11
quốc tế và khu vực, giao lưu hàng hoá quốc tế và trong nước tăng nhanh, đòi
hỏi hệ thống cảng biển cần có những bước tiến mạnh mới đáp ứng yêu cầu
của nền kinh tế - xã hội. Trên cơ sở quy hoạch tổng hợp phát triển hệ thống
cảng biển Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chúng ta sẽ
phải thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch hệ thống cảng biển, tiến hành
lập và quy hoạch chi tiết các nhóm cảng quan trọng. Trong đầu tư xây dựng
cảng, cần tạo liên kết cảng với các hệ thống giao thông mặt đất nhằm tạo
thuận lợi nhất cho khách hàng khi sử dụng phương thức vận tải đa phương.
Vai trò vận tải ven biển cũng ngày càng tăng đối với hàng rời thông thường
và hàng bách hoá. Đầu tư ngắn hạn cho cảng tại các cảng tổng hợp với mục
tiêu cải tiến nâng cao năng suất cảng, hiện đại hoá những thiết bị dẫn luồng,
nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải trong xếp dỡ có hiệu quả nhằm khuyến
khích các tàu lớn, hiện đại vào cảng Việt Nam.
Biển Việt Nam có hệ sinh thái phong phú và đa dạng, là nhân tố quan
trọng để phát triển nuôi trồng, đánh bắt hải sản, cung cấp ngày càng nhiều và
đa dạng các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như: cá, tôm, cua, sò,
mực, rong, ngọc trai… dưới dạng đánh bắt tự nhiên và nuôi trồng. Như vậy,
phát triển nuôi trồng và đánh bắt hải sản ở nước ta ngày càng giữ vai trò quan
trọng trong phát triển kinh tế của đất nước nói chung và công nghiệp nói
riêng. Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản đã trở thành ngành mũi nhọn đem
lại hiệu quả kinh tế cao, tăng thu nhập cho ngư dân và cho nền kinh tế quốc
dân giải quyết nhiều công ăn việc làm. Nguồn lợi hải sản của nước ta được
đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Tổng trữ lượng hải sản khoảng
3,9-4,0 triệu tấn/năm, cho phép hàng năm khai thác 1,9 triệu tấn, trong đó
vùng biển gần bờ chỉ khoảng 500 nghìn tấn, còn lại là vùng xa bờ; cá biển
chiếm 95,5% [2, tr.109]. Theo các nghiên cứu khoa học, nguồn lợi hải sản

Việt Nam có: 105 loài tôm, 25 loài mực, 7 loài bạch tuộc, 653 loài rong biển,
trong đó rong kinh tế chiếm 14% (90 loài), san hô (loài san hô cứng) tạo rạn



12
có 298 loài, thuộc 76 giống, 16 họ và trên 10 loài san hô sừng. Cá có trên
2.100 loài, trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế [7, tr.15]. Theo đánh giá
của các chuyên gia chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật thuỷ sản, thì trữ lượng của
một số loài hải sản tiêu biểu có thể khai thác hàng năm tại vùng biển đặc
quyền kinh tế Việt Nam như sau: cá (các loại) khoảng 4.180.133 tấn; tôm
khoảng 44.404 tấn; mực ống khoảng 64.140 tấn ; mực nang khoảng 59.113
tấn [7, tr.16] Dọc theo bờ biển có khoảng 180 cửa sông, thuộc vùng khí hậu
nhiệt đới gó mùa, trải dài trên 13 vĩ độ, có hơn 3 triệu ha đất ngập nước, hiện
nay nước ta có khoảng 100.000 ha rừng đước mang lại cho cư dân nhiều loại
cá và chim, đước cũng đem lại nguồn kiếm sống cho hàng nghìn bà con vùng
ven biển. Mặc khác, rừng ngập mặn rất thích hợp cho nuôi trồng hải sản, gắn
với bảo vệ môi trường sinh thái biển .Hệ sinh thái rạng san hô với tổng diện
tích ước tính khoảng 127 nghìn ha, hệ sinh thái cỏ biển vào khoảng 8 nghìn ha
[81, tr.6]…Đó là những nguồn lợi, tài nguyên vô cùng quý giá, phục vụ cho
quá trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống xã hội. Kinh tế
du lịch đã và đang trở thành ngành kinh tế quan trọng và chiếm tỷ trọng ngày
càng tăng trong thu nhập kinh tế quốc dân. Vì vậy, các nước đều quan tâm
phát triển du lịch, có quốc gia đặt du lịch là một trong những ngành kinh tế
mũi nhọn – là ngành “công nghiệp không khói”, là “con gà đẻ trứng vàng” đối
với cơ cấu thu nhập quốc dân. Đặc biệt, biển và vùng ven biển gắn chặt với du
lịch và tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh cho du lịch. Việt Nam có bờ
biển dài, với những cảnh quan đẹp vào lại bậc nhất của thế giới, như Vịnh Hạ
Long và vô số vịnh đẹp mà thiên nhiên đã ban tặng. Dọc bờ biển Việt Nam có

khoảng 125 bãi biển lớn và nhỏ với khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ xa bờ [81,
tr.6] là lợi thế cho phát triển du lịch, du lịch sinh thái. Trong đó có khoảng 20
bãi biển đạt quy mô và tiêu chuẩn quốc tế [81, tr.4]. Các bãi biển của Việt



13
Nam nhìn chung khá bằng phẳng, nước trong, sóng gió vừa phải, không có
các ổ xoáy và cá dữ…, rất thích hợp cho tắm biển và vui chơi giải trí trên
biển. Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan tự nhiên với cảnh quan văn hoá - xã
hội của biển, vùng ven biển và các hải đảo cùng với điều kiện thuận lợi về vị
trí, địa hình của vùng ven biển đã tạo cho du lịch biển có lợi thế phát triển hơn
hẳn so với nhiều loại hình du lịch khác trên đất liền. Để khai thác mọi tiềm
năng lợi thế về biển và tài nguyên từ biển, kể từ sau đổi mới Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm đến phát triển ngành du lịch nói chung và du lịch biển
nói riêng, nguồn thu mà du lịch mang lại là động lực cho phát triển kinh tế xã
hội. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá VII) của Đảng
đã nêu rõ: “phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có
qui mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta”. Đây
là một chủ trương đúng đắn vừa phù hợp với xu thế phát triển chung, vừa gắn
với điều kiện thực tế, với tiềm năng và yêu cầu bức thiết của sự phát triển đất
nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đã nhấn mạnh: “phát
triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên,
sinh thái, truyền thống văn hoá, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước
và phát triển nhanh du lịch quốc tế, sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu
vực”. Với lợi thế về tài nguyên mà thiên nhiên đã ban tặng, tạo điều kiện
thuận lợi cho phát triển du lịch biển, mà hầu như trước đây chúng ta chưa khai
thác đúng mức. Do vậy, cần phải khai thác và sử dụng có hiệu quả, đánh thức
du lịch biển phát triển, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá hiện

đại hoá đất nước.
Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nền sản
xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nền kinh tế đòi hỏi phải đáp ứng một nguồn liệu lớn
phục vụ cho sản xuất và chế biến. Biển và vùng ven biển Việt Nam có hệ
khoáng sản phong phú, đa dạng. Khai thác chúng phục vụ cho phát triển công



14
nghiệp, với nguồn nguyên liệu tại chổ góp phần giảm giá thành sản phẩm, sức
cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá sẽ cao hơn. Mặc khác, xuất hiện nhiều
ngành công nghiệp mới: dầu khí, vàng sa khoáng…Các nguồn tài nguyên biển
có khả năng khai thác lớn, đóng góp cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Trong đó phải kể đến dầu khí, một nguồn tài nguyên mũi nhọn,
có ưu thế nổi trội nhất của vùng biển Việt Nam, tiềm năng và trữ lượng dầu
khí của Việt Nam khoảng 3 - 4 tỷ m
3
dầu quy đổi, trong đó 0,9 - 1,2 tỉ m
3
dầu
và 2100 - 2800 tỷ m
3
khí [81, tr.3]. Mặc dù so với nhiều nước, nguồn tài
nguyên dầu khí chưa thật sự lớn, song đối với nước ta nó có vị trí rất quan
trọng, đặc biệt là trong giai đoạn khởi động nền kinh tế đi vào công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Ngoài dầu mỏ, biển và ven bờ biển Việt Nam còn có nhiều
khoáng sản quan trọng phục vụ phát triển công nghiệp như than, sắt, titan, cát
thuỷ tinh, các loại vật liệu xây dựng khác và khoảng 5-6 vạn ha ruộng muối
biển… Tiềm năng về khí-điện-đạm và năng lượng biển cũng rất lớn như năng
lượng gió, năng lượng mặt trời, thuỷ triều, sóng và cả thuỷ nhiệt.

Có thể nói, tài nguyên trên biển và vùng ven biển có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển các ngành, nghề, tạo ra nguồn nguyên liệu đáp ứng
nhu cầu cuộc sống cho con người, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, góp phần đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần phải đánh thức
các tiềm năng tài nguyên của biển và ven biển mang lại, đưa ra giải pháp,
chiến lược khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá mà thiên nhiên ban
tặng phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước sớm đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.
1.1.2.2. Vốn, công nghệ
Vốn và công nghệ là đòn bẩy của quá trình sản xuất và kinh doanh, nâng
cao năng suất và hiệu quả, sức cạnh tranh của sản xuất, kinh doanh, có vai trò rất
quan trọng đến phát triển kinh tế, xã hội. Vốn cũng ảnh hưởng rất lớn đến phát
triển kinh tế biển. Để khai thác tiềm năng thế mạnh từ biển góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng và sớm đưa nước ta trở



15
thành nước công nghiệp, giàu lên từ biển, những năm vừa qua Đảng và nhà nước
ta luôn quan tâm đến việc đầu tư, huy động các nguồn vốn và công nghệ cho
việc phát triển kinh tế biển. Có thể chứng minh đều này ở nước ta:
* Đối với ngành thuỷ sản: Từ năm 1997 đến nay, nhà nước đã đầu tư
1.300 tỷ đồng đóng 1.292 [47, tr.6] chiếc tàu đánh bắt xa bờ trong chương
trình đánh bắt cá xa bờ. Đến nay cả nước đã có khoảng 14 ngàn tàu đánh bắt
xa bờ, chiếm hơn 40% [24, tr.3] tổng sản lượng hải sản khai thác. Một hệ
thống trên 60 cảng cá, bến cá với hơn 10 ngàn mét cầu cảng [24, tr.3] đã được
xây dựng chủ yếu trong 10 năm gần đây đang dần phát huy hiệu quả, đặc biệt
là phục vụ cho các tàu đánh bắt xa bờ. Khai thác hải sản là một nghề truyền
thống của đại bộ phận cư dân ven biển. Hiện nay hơn 80% [75, tr.1] số tàu
thuyền tập trung khai thác chủ yếu ở vùng nước nông ven bờ, trong khi vùng

này chỉ chiếm khoảng 11% diện tích vùng đặc quyền kinh tế. Sản lượng khai
thác bền vững ở vùng nước có độ sâu nhỏ hơn 50 mét được ước tính khoảng
600 nghìn tấn, trong khi sản lượng khai thác ven bờ hiện nay đã đạt khoảng
1,1 triệu tấn [74, tr.2]. Điều này chứng tỏ sức ép lên nguồn lợi ven bờ là quá
lớn. Chính vì vậy, Bộ Thuỷ sản trong chiến lược phát triển nghề cá của mình
đưa ra mục tiêu là đến năm 2010 giảm số tàu thuyền khai thác ven bờ từ
96.000 chiếc như hiện nay xuống còn 50.000 chiếc [74, tr.3], tăng số tàu
thuyền đánh bắt xa bờ nhằm giảm sức ép khai thác huỷ diệt nguồn lợi.
Ngành thuỷ sản đã hiện đại hoá thành công ngành công nghiệp chế biến
thuỷ sản. Cuối năm 1980 chỉ có tổng số là 27 nhà máy [22, tr.67], thì đến cuối
năm 2005 cả nước đã có tổng cộng 439 nhà máy đông lạnh với tổng công suất
cấp đông 4.262 tấn/ngày [22, tr.67]. Nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản hiện nay
đã ngang với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và thế giới. Từ
18 cơ sở chế biến được phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU hồi tháng 11-1999
[22, tr.67], đến nay trong tổng số hơn 470 cơ sở-doanh nghiệp chế biến thuỷ
sản đã có 248 cơ sở-doanh nghiệp (chiếm gần 53%) đã được Liên minh châu



16
Âu công nhận đủ điều kiện bảo đảm an toàn vệ sinh, 300 đơn vị đã áp dụng
HACCP đủ điều kiện xuất khẩu sang thị trường Mỹ, 295 doanh nghiệp đạt
tiêu chuẩn vào Trung Quốc và 300 danh nghiệp chế biến đáp ứng các yêu cầu
an toàn vệ sinh đối với thị trường Hàn Quốc [24, tr.3].
*Hàng hải: Trong 10 năm qua, đội tàu biển quốc gia Việt Nam đã có
bước phát triển, tăng bình quân 10%/năm về số lượng tàu và trên 10%/năm về
trọng tải. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay cả nước có trên 1.000 tàu với tổng
vận tải hơn 3,5 triệu DWT. Năng lực vận tải tăng lên, đồng thời có sự thay đổi
cơ bản về cơ cấu, chất lượng đội tàu, tạo thêm thị trường và trực tiếp tham gia
thị trường khu vực, khách hàng nước ngoài đã sử dụng trên 50% năng lực của

đội tàu Việt Nam. Ngành công nghiệp đóng tàu củng được Chính phủ quan tâm
đầu tư rất nhiều vốn để phát triển. Trong năm 2006, toàn bộ 750 triệu USD trái
phiếu chính phủ đã được dành phát triển công nhiệp đóng tàu [2, tr.363]. Như
vậy, công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam đã đạt những bước phát triển khích lệ,
ngày càng được nhiều hảng tàu lớn của nước ngoài tín nhiệm, góp phần đưa
Việt Nam trở thành quốc gia được công nhận là ngành công nghiệp đóng tàu
đứng hàng thứ 11 trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam có hơn 60 nhà máy sửa
chữa và đóng tàu thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn và Bộ Giao thông Vận tải, trong đó Bộ Giao thông Vận tải có số lượng
chiếm trên 70% công xuất đóng tàu của ngành. Năm 2005, trong tổng số 126
cảng biển ở các vùng, miền thì chỉ có 4 cảng có công suất trên 10 triệu
tấn/năm và 14 cảng có công suất trên 1 triệu tấn/năm, còn lại là cảng quy mô
nhỏ, khả năng neo đậu được tàu 3.000 tấn trở xuống [47, tr.6]. Chính vì vậy, để
đáp ứng yêu cầu trung chuyển hàng hoá phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế.
Những năm vừa qua Chính phủ đã rất chú trọng đầu tư mở rộng và phát triển
cảng biển. Chỉ tính từ tháng 6/2006 - 2/2007, đã có năm cảng biển mới được
phép xây dựng tại phía Nam với tổng vốn đầu tư 984 triệu USD [2, tr.362]. Việc



17
thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ven biển cũng đạt bước nhảy vọt, chỉ
riêng khu kinh tế vinh Vân Phong (Khánh Hoà) đã và đang hình thành 48 dự án
với tổng vốn đăng ký đầu tư trên 7 tỷ USD [2, tr.363]. Các dự án chủ yếu đầu tư
vào lĩnh vực công nghiệp nặng như luyện thép, điện, hoá dầu, dịch vụ du lịch…
* Đối với du lịch biển: để khai thác lợi thế tiềm năng từ du lịch biển,
những năm vừa qua đầu tư cho phát triển du lịch biển luôn được các cấp, các
ngành và toàn xã hội quan tâm, nhiều nhà đầu tư du lịch lớn quốc tế đã và đang
chọn Việt Nam làm địa điểm đầu tư. Các khu du lịch biển ngày càng hoàn thiện
và khang trang hơn, hệ thống cơ sở lưu trú vùng ven biển phục vụ cho du khách

không ngừng tăng lên. Theo thống kê, vùng ven biển có gần 1.400 cơ sở lưu trú
với trên 45.000 buồng. Đội ngũ lao động du lịch vùng ven biển hiện chiếm
khoảng 65% tổng số lao động trực tiếp làm du lịch của cả nước [81, tr.27].
* Đối với nghề làm muối: Nghề muối là một nghề có truyền thống lâu đời
của Việt Nam, gắn chặt với biển và phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời
tiết. Trong những năm qua, mặc dù điều kiện thời tiết không thuận lợi. Nhưng
nhờ công tác huy hoạch, đầu tư sản xuất muối, đặc biệt là muối công nghiệp, cho
nên nghề muối Việt Nam đã phần nào giảm bớt những khó khăn. Hiện nay,
ngành muối Việt Nam đang tích cực triển khai các dự án xây dựng đồng muối
công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối, nhất là công nghệ sản xuất muối
sạch. Hoạt động đầu tư về vốn, công nghệ sản xuất trên đồng muối có nhiều
chuyển biến tích cực theo hướng xã hội hoá. Ngoài nguồn vốn xây dựng cơ bản
của ngành nông nghiệp dành để đầu tư các dự án về muối, ngành muối đang tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia
đầu tư vào các dự án sản xuất muối, chế biến, tiêu thụ muối công nghiệp.
Vậy thì sự tăng trưởng ngoạn mục cả về lượng và chất của dòng vốn đầu tư
vào các khu vực, ngành sản xuất có lợi thế gần biển đã thể hiện điều gì? Câu trả
lời là: Điều đó không chỉ ghi nhận lợi thế địa lý, tiềm năng phát triển kinh tế biển
của Việt Nam. Mà trên hết, đó là thể hiện cụ thể sự tin tưởng của các nhà đầu tư



18
với những chuyển biến tích cực của Việt Nam trong xây dựng tầm nhìn chiến lược
và chương trình cụ thể nhằm phát triển kinh tế biển bền vững, hiệu quả.
1.1.2.3. Nguồn nhân lực
Như chúng ta đã biết nguồn lực vô cùng quan trọng đối với phát triển
kinh tế, xã hội. Tăng năng suất lao động, tạo ra giá trị cho sản phẩm hàng hoá.
Do vậy, nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế nói chung và kinh tế biển nói riêng. Ở nước ta có lợi thế

nguồn nhân lực dồi dào ven biển là một nhân tố quan trọng hàng đầu quyết
định kết quả khai thác tiềm năng nguồn lợi biển, vùng ven biển. Vùng ven
biển Việt Nam gồm 29 tỉnh, thành phố gồm 124 huyện, thị xã với 612 xã,
phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo), dân cư tập trung khá đông đúc
với khoảng 25 triệu người, bằng gần 31% dân số cả nước và khoảng hơn 13
triệu lao động (năm 2005). Dự báo đến năm 2010, dân số vùng ven biển
khoảng gần 27 triệu người, trong đó lao động gần 18 triệu người, năm 2020
dân số khoảng trên 30 triệu người, trong đó lao động khoảng 19 triệu người
[2, tr.45]. Tuy dân số vùng ven biển chiếm khoảng 1/3 dân số cả nước, nhưng
chỉ có gần 40% số này sống nhờ vào hoạt động kinh tế liên quan trực tiếp đến
biển [2, tr.52]. Điều này cho chúng ta thấy tuy nguồn nhân lực ở vùng ven
biển nước ta số lượng thì đông nhưng chất lượng thì còn hạn chế, trình độ học
vấn rất thấp . Nhất là các tỉnh ven biển miền trung do thiên tai, bão lũ thường
xuyên xảy ra. Từ đó, đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân, điều kiện để
nuôi con, em ăn học gặp rất nhiều khó khăn. Dẫn đến chất lượng nguồn nhân
lực kém. Đối với ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, lao động chủ yếu là
từ kinh nghiệm, cha truyền con nối, ít được đào tạo. Do vậy, năng suất, hiệu
quả kinh tế không cao. Phần nào ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội nói
chung, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế biển nói riêng.
1.1.2.4. Thị trường



19
Thị trường là nơi trao đổi sản phẩm hàng hoá, là sự gặp rỡ giữa người
bán và người mua, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Một trong những
quan điểm của đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước hiện nay là thực hiện
nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá. Từ đó,
đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước hợp tác kinh doanh,

mở rộng đầu tư phát triển, thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển.
Sản phẩm hàng hoá của Việt Nam có điều kiện xâm nhập và cạnh tranh thị
trường thế giới. Do vậy, thị trường có vai trò rất quan trọng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế nói chung của kinh tế biển nói riêng.
* Đối với thị trường ngành thuỷ sản: Thế mạnh của thị trường thuỷ sản
được thể hiện chủ yếu ở thị trường xuất khẩu thuỷ sản là chính. Từ năm 1980,
được Chính phủ cho phép thực hiện cơ chế tự cân đối, tự trang trải, nên ngành
thuỷ sản đã có cơ hội tiếp cận với kinh tế thị trường sớm hơn so với các ngành
kinh tế khác. Khi cả nước chuyển sang mô hình kinh tế mới và xây dựng chiến
lược xuất khẩu, thị trường nguyên liệu của ngành thuỷ sản đã hội đủ các điều
kiện để phát triển với tốc độ tăng trưởng rất cao và có sự chuyển biến theo
hướng sản xuất hàng hoá và ngày càng đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất
khẩu. Những kết quả đạt được trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam những
năm qua không thể tách rời với công tác phát triển thị trường. Hiện nay, hàng
thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở khoảng 130 thị trường trên thế giới [8, tr.6]. Các
doanh nghiệp đã chuyển hẳn từ tiếp thị thụ động sang tiếp thị chủ động. Nhờ đó
đã hình thành thế chủ động cân đối về thị trường tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm duy
trì tăng trưởng bền vững. Hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam không lệ thuộc
hoàn toàn vào thị trường truyền thống Nhật Bản như những năm trước đây, giảm
hẳn tỷ trọng các thị trường trung gian và bắt đầu giành được vị trí quan trọng
trên các các thị trường lớn, có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn vệ sinh như
Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản, Ôxtrâylia Các doanh nghiệp thuỷ sản đã có thể



20
điều chỉnh được cơ cấu thị trường, khi thị trường truyền thống có biến đổi bất
lợi. Việc mở rộng và điều chỉnh thị trường xuất khẩu các sản phẩm cá tra, basa là
một minh chứng về sự thành công của Việt Nam cho khẳng định này. Bên cạnh
đó, các nhà xuất khẩu Việt Nam còn luôn chú trọng khai thác chiều sâu của các thị

trường chính, thực hiện “khai thác thị trường mới trên địa bàn cũ” như Mỹ, Nhật,
EU. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu vào Mỹ, Nhật Bản và EU đã chiếm khoảng 65%
tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam[8, tr.6]. Số liệu này khẳng định thêm
tầm quan trọng của ba thị trường này đối với ngành thuỷ sản của Việt Nam.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản đã có sự thay đổi rõ nét kể từ năm
2000 đến nay. Trước tiên là việc Mỹ trở thành thị trường tiêu thụ thuỷ sản hàng
đầu của Việt Nam cùng với Nhật Bản. Trước kia thị trường Nhật thường chiếm
tỷ trọng 50 – 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nhưng trong gần 10 năm
trở lại đây chỉ còn trên dưới 30%. Các thị trường tiêu thụ hàng thuỷ sản của Việt
Nam ở châu Á như Đài Loan, Hàn Quốc khá ổn định, chiếm tỷ trọng khoảng 3 –
6% giá trị xuất khẩu, vị trí tiếp theo thuộc về các nước ASEAN. Thị trường EU
cũng là một mục tiêu quan trọng mà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam hướng tới và
đã cố gắng khai thác từ những năm 1990 song không mấy thành công. Nhưng
đến vài năm trở lại đây, những cố gắng đó đã được đền đáp xứng đáng. Năm
2006, EU đã chiếm khoảng 22% thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam,
đứng vị trí thứ hai sau Nhật Bản. Thành công này có liên quan mật thiết với sự
“bùng nổ” xuất khẩu cá tra, basa nói trên. Tổng sản lượng thuỷ sản năm 2006 đạt
3,4 triệu tấn, tăng 3,37 lần so với năm 1990 [22, tr.64]. Giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt 3,3 tỷ USD, tăng 16,1 lần so với năm 1990 [22, tr.64].
Bảng 1.1: Các thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính của Việt Nam

2001 2002 2003 2004 2005
Giá tr


(1000
USD)
Tỷ trọng

(%)

Giá tr


(1000
USD)
Tỷ trọng

(%)
Giá tr


(1000
USD)
Tỷ trọng

(%)
Giá tr


(1000
USD)
Tỷ trọng

(%)
Giá tr


(1000
USD)
Tỷ trọng


(%)
Mỹ 489.035 27,51
654.977
32,38
777.656 35,35

602.969
25,12

649.630
23,81
Nhật Bản 465.901 26,21
537.459
26,57
582.838 26,50

772.195
32,16

824.907
30,24



21
EU 90.745
5,11
73.720
3,64

116.739 5,31

231.528
9,64

433.085
15,88
Bỉ
18.517
1,04
18.574
0,92
31.935 1,45

51.075
2,13

76.482
2,80
Đức 20.708
1,16
11.750
0,58
18.245 0,83

44.200
1,84

67.812
2,49

Italia 13.075
0,74
17.491
0,86
23.043 1,05

32.123
1,34

63.202
2,32
Hàn Quốc 102.788
5,78
114.308
5,65
107.296 4,88

144.002
6,00

162.083
5,94
Đài Loan 93.519
5,26
116.261
5,75
70.723 3,22

106.072
4,42


118.965
4,36
Hồng Kông

121.953
6,86
129.325
6,39
96.320 4,38

85.917
3,58

73.823
2,71
Trung Quốc

194.766 10,96
172.612
8,53
50.785 2,31

46.827
1,95

60.843
2,23
Úc 23.870
1,34

29.672
1,47
44.398 2,02

82
.973
3,46

98.802
3,62
Canađa 20.218
1,14
16.477
0,81
22.514 1,02

56.839
2,37

66.971
2,45
ASEAN 64.860
3,65
79.343
3,92
73.013 3,32

167.488
6,98


127.091
4,66
Singapo 24.980
1,41
35.747
1,77
27.527
1,25

79.407
3,31

42.644
1,56
Thái Lan
25.214
1,42
27.535
1,36
29.852
1,36

26.401
1,10

40.987
1,50
Các thị
trường khác


109.830
6,18
98.667
4,88
257.295 11,70

103.971
4,33

111.823
4,10
Cộng
1.777.486
100,00
2.022.821
100,00
2.199.577
100,00

2.400.781
100,00

2.728.023
100,00
Nguồn: Tổng cục thống kê.
Chế biến xuất khẩu là lĩnh vực phát triển nhanh và có thể coi là động
lực cho tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu trong khai thác và nuôi trồng thuỷ
sản. Chất lượng và tính cạnh tranh của các mặt hàng thuỷ, hải sản Việt Nam
được cải thiện không ngừng, tạo được uy tín lớn trên thị trường thế giới. Đến
nay, trong tổng số hơn 470 cơ sở-doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đã có 248 cơ

sở-doanh nghiệp (chiếm gần 53%) đã được Liên minh châu Âu công nhận đủ
điều kiện bảo đảm an toàn vệ sinh, đưa vào “danh sách I” xuất khẩu vào EU-thị
trường khó tính nhất hiện nay [24, tr.3]. Ngoài ra, có trên 300 cơ sở-doanh
nghiệp được Hàng Quốc công nhận tiêu chuẩn chất lượng…Hàng thuỷ sản Việt
Nam đã có mặt trên 140 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, có chỗ đứng vững
chắc ở các thị trường lớn như Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ. Về giá trị kim ngạch
xuất khẩu, thuỷ sản Việt Nam hiện đã vươn lên vị trí thứ 7 thế giới [24, tr.3].
* Đối với thị trường hàng hải: Vận tải biển của Việt Nam trong những
năm vừa qua không ngừng lớn mạnh về cơ sở vật chất, bên cạnh đó không
ngừng vươn ra mở rộng hợp tác quốc tế. Trong tổng số trên 1.000 tàu của đội
tàu quốc gia chỉ có hơn 300 tàu hoạt động tuyến quốc tế và làm nhiệm vụ
trung chuyển hàng hoá đến các cảng lớn trong khu vực.



22
* Đối ngành du lịch biển: Nước ta có lợi thế phát triển du lịch biển.
Hàng năm vùng biển thu hút 73% số lượt khách du lịch quốc tế, với tốc độ
tăng trưởng bình quân khoảng 12,6%/năm. Năm 1997, số lượt khách du lịch
quốc tế đến vùng biển đạt 2,1 triệu người, năm 2000 đạt 3,29 triệu người, năm
2002 đã đón khoảng 5,3 triệu lượt người ; riêng năm 2003, do ảnh hưởng của
dịch SARS, số khách đạt khoảng 4,7 triệu lượt, giảm so với năm 2002. Khách
du lịch quốc tế đến các khu vực trọng điểm du lịch tăng nhanh, riêng khu vực
Quảng Ninh - Hải Phòng và Huế - Đà Nẵng tăng 41%/năm; Bà Rịa - Vũng
Tàu tăng 22,6% [2, tr.232].
Đối với khách du lịch nội địa, biển thu hút tới trên 50% số lượt, với tốc
độ tăng trung bình thời kỳ 1994 - 2003 là 16%/năm [2, tr.232]. Năm 1997,
toàn vùng đón được 5,7 triệu lượt khách, năm 2000 đón 7,46 triệu lượt, năm
2002 đạt 10, 8 triệu lượt và năm 2003 tới 12,4 triệu lượt khách [2, tr.232].
* Đối với ngành dầu khí: Ngành dầu khí là một trong những ngành chủ

lực của kinh tế biển, có đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Việc tìm kiếm và khai thác dầu khí là việc rất khó khăn, cần nhiều vốn, kinh
nghiệm và trình độ kỹ thuật cao. Cũng giống như nhiều nước đang phát triển
khác, Việt Nam cũng có các chính sách khuyến khích đầu tư của nước ngoài
trong lĩnh vực này. Hiện nay có 25 công ty dầu khí nước ngoài từ 13 quốc gia
đang hoạt động tại Việt Nam, trong khuôn khổ 27 dự án khác nhau. Các công
ty dầu khí nước ngoài đã đầu tư hơn 7 tỷ USD vào Việt Nam. Không chỉ hoạt
động tại thị trường nội địa, Petro Vietnam đang tăng cường các hoạt động tìm
kiếm và khai thác dầu khí trên thị trường quốc tế. Trong năm 2007 Petro
Vietnam đã tiến hành thăm dò dầu khí ở Cuba và Peru và hiện tiến hành đấu
thầu để thăm dò dầu khí ở Nigeria và Kazakhstan. Đến nay Petro Vietnam đã
tiến hành thăm dò và khai thác dầu khí ở Algeria, Iraq, Madagácar,
Venezuela, Mông Cổ [81, tr.23].



23
1.1.2.5. Cơ chế chính sách
Cơ chế chính sách ảnh hưởng rất lớn đến phát triển các ngành kinh tế
nói chung, kinh tế biển nói riêng. Cơ chế chính sách có thể thúc đẩy hoặc
kiềm hảm sự phát triển kinh tế, xã hội. Trong đó, có ảnh hưởng đến sự phát
triển của kinh tế biển. Nước ta có một vùng biển đặc quyền kinh tế rộng trên
1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, có bờ biển dài 3.260 km. Do vậy,
vùng biển và ven biển nước ta có vị trí hết sức quan trọng cả về kinh tế, chính
trị và an ninh, quốc phòng. Do vậy, những năm qua Đảng và nhà nước ta có
những cơ chế chính sách thông thoáng, mở đường, hổ trợ cho kinh tế biển
phát triển. Trước hết, là trong đường lối của Đảng. Nghị quyết 03-NQ/TW,
ngày 6-5-1993 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong những năm trước mắt, trong đó khẳng định rằng, phải đẩy mạnh phát
triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích

quốc gia. Song song với nhiệm vụ đó là bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh
thái biển, phấn đấu trở thành một nước mạnh về biển vào năm 2020. Ngày 22-
9-1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 20-CT/TW về đẩy mạnh phát triển
kinh tế biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội Đảng lần thứ
IX(2001) khẳng định mục tiêu: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển
và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km
2
thềm lục địa. Tăng
cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế biển. Đẩy mạnh công tác nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản; thăm dò,
khai thác và chế biến dầu khí; phát triển đóng tàu thuyền và vận tải biển; mở
mang du lịch; bảo vệ môi trường; tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển.
Phát triển tổng hợp kinh tế biển và ven biển, khai thác lợi thế các khu vực cửa
biển, hải cảng để tạo thành vùng phát triển cao, thúc đẩy các vùng khác. Xây
dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp chặt chẽ phát
triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển” [55, tr.181-182]. Đại hội Đảng lần



24
thứ X (năm 2006) tiếp tục khẳng định: “ Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn
diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa
nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng,
an ninh và hợp tác quốc tế” [12, tr.225]. Từ các quan điểm chỉ đạo trên, Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã thông qua Nghị
quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết 09-NQ/TW
ngày 9-02-2007). Để đạt được mục tiêu tổng quát đến năm 2020 phấn đấu đưa
nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, cần thực hiện tốt
các nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Để thực hiện đường lối của Đảng, nhà
nước ban hành nhiều chính sách. Triển khai thực hiện Nghị quyết số 03-

NQ/TW của Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ trong các Chỉ thị số 339/TTg
(ngày 5-8-1993) và Chỉ thị 170-TTg (ngày 18-3-1995) đã chỉ đạo: “ Bộ Thuỷ
sản xây dựng kế hoạch phát triển ngành khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản
thành một ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn”. Chủ trương của Đảng về phát
triển thuỷ sản như là một ngành kinh tế biển đã được nhấn mạnh trong Chỉ thị
số 20 CT/TW của Trung ương (ngày 22-9-1997) “Với sự hổ trợ ban đầu của
Nhà nước, ngành thuỷ sản phải vươn lên thực hiện tự đầu tư, tự cân đối để
phát triển tập trung vào chương trình đánh bắt khơi xa và hiện đại hoá nuôi
trồng thuỷ sản theo hướng thâm canh. Khẩn trương hiện đại hoá chế biến thuỷ
sản đi liền với nâng cao năng lực quản lý và tiếp thị”.Từ năm 1997 đến năm
1999, Tổng cục Đầu tư và Phát triển đã cho vay 867.871 triệu đồng, tương
đương với 802 con tàu [24, tr.3]. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết
định số 64/2000/QĐ-TTg về việc sửa đổi quy chế quản lý và sử dụng vốn tín
dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu
đánh bắt tàu dịch vụ và đánh bắt hải sản xa bờ, tổng số vốn đã duyệt cho vay
từ năm 2000 đến năm 2005 là 1.820.372 triệu đồng để đóng mới 166 con tàu
[8, tr.8]. Việc gia tăng số lượng tàu lớn đánh bắt xa bờ không chỉ nhằm khai



25
thác các tiềm năng mới, cung cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp phần
bảo vệ an ninh quốc phòng trên các vùng biển của nước ta. Tính đến nay, rất
nhiều cảng cá quan trọng đã được xây dựng theo chương trình Biển đông hải
đảo, cụ thể là: Cô Tô (Quảng Ninh), Bạch Long Vĩ và Cát Bà (Hải Phòng),
Hòn Mê (Thanh Hoá), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Lí Sơn (Quảng Nam), Phú Quí
(Bình Thuận), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Hòn Khoai (Cà Mau), Nam Du,
Thổ Chu và Phú Quốc (Kiên Giang). Xây dựng cảng Vân Phong thành cảng
trung chuyển của khu vực và quốc tế. Cảng Vân Phong là 1 trong số 7 cảng có
ưu thế nhất thế giới, khi trở thành cảng trung chuyển quốc tế, nhất định sẽ đưa

cả vùng trở thành trung tâm kinh tế lớn. Cần có thể chế, chính sách phù hợp
với thông lệ quốc tế, có chính sách mở cửa và hội nhập sâu rộng hơn. Ngoài
ra, còn chú trọng đầu tư đồng bộ như sửa đổi các quy hoạch đầu tư về vận tải,
định hướng chiến lược. Trước mắt phải là hiện đại hoá vận tải đường biển,
cùng với hiện đại hoá đường bộ và đường sắt theo hướng Đông - Tây, nhằm
phục vụ cho các khu kinh tế, các thành phố lớn ở ven biển. Đồng thời Chính
phủ đã đưa ra nghị quyết 09 NQ/CP ngày 15/6/2000 về chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đó cũng là yếu
tố giúp cho quá trình chuyển đổi diện tích nuôi trồng thuỷ sản càng diễn ra
nhanh, mạnh và rộng khắp hơn. Quá trình chuyển đổi diện tích, chủ yếu từ lúa
kém hiệu quả, sang nuôi trồng thuỷ sản diễn ra mạnh mẽ nhất vào các năm
2000-2002: hơn 200.000 ha [8, tr.7] diện tích được chuyển đổi sang nuôi
trồng thủy sản hoặc kết hợp nuôi trồng thủy sản, tuy nhiên từ 2003 đến nay ở
nhiều vùng vẫn tiếp tục chuyển đổi mạnh, năm 2003 đạt 49.000 ha và năm
2004 đạt 65.400 ha [8, tr.7]. Có thể nói nuôi trồng thủy sản đã phát triển với
tốc độ nhanh, thu được hiệu quả kinh tế - xã hội đáng kể, từng bước góp phần
thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng ven biển, nông thôn, góp phần xoá đói
giảm nghèo và làm giàu cho nông dân. Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào

×