Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
A TIỂU DẪN
I.
Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường
-
Được mệnh danh là “Một trong mấy nhà văn viết ký hay nhất nước ta hiện nay”, Hoàng Phủ
Ngọc Tường là một cây bút tiêu biểu, chuyên về thể loại bút kí, tùy bút của nền văn xi hiện
đại Việt Nam, một trí thức u nước và là một nhà văn tài hoa, uyên bác. Ông am hiểu sâu
sắc và gắn bó sâu nặng với xứ Huế. Với văn phong hướng nội tinh tế, tài hoa và mê đắm, có
sự kết hợp giữa chất trí tuệ với chất trữ tình, nghị luận sắc bén cùng suy tư đa chiều cùng
vốn hiểu biết sâu sắc về văn hóa, phong tục, lịch sử, địa lý đã tạo nên những lời văn thật
đẹp, thật sang riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa (Nguyễn Tuân)
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất nước ta hiện nay (Ngun Ngọc)
Hoàng Phủ Ngọc Tường có mợt phong cách viết bút kí văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông
là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm
nào và ở đâu thì ơng vẫn có thể tung hoành thoải mái ngịi bút được. (Hồng Cát)
Hoàng Phủ Ngọc Tường là mợt trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng ở nước ta vài chục năm
nay. Bút ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường hấp dẫn người đọc ở tấm lòng nhân văn sâu sắc, trí tuệ
uyên bác và chất Huế thơ huyền hoặc, quyến rũ. Đó là những trang viết tài hoa, tài tử, tài tình...
Thực ra, bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là những áng thơ văn xi cuốn hút người đọc... Thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường là vẻ đẹp của nỗi buồn hoài niệm, những day dứt triết học, từ sâu thẳm thời
gian, sâu thẳm đất đai vọng lên trong tâm khảm người đọc. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng
thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường thấm đẫm "triết học về cái chết... thơ anh buồn mỗi nỗi buồn đứt ruột...
Đấy là thơ của cõi âm"... Đó là mợt nhận xét xác đáng. - (Nhà thơ Ngô Minh)
II.
Tùy bút “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”
Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con Sông Hương mê hoặc. Nhiều tác phẩm văn học
đã đưa con sông này đến với người đọc để từ đó đem lịng u H́, dù chưa một lần đặt chân đến
nơi này. Nhưng với Hoàng Phủ Ngọc Tường, người mợt đời gắn bó với H́, bằng tình cảm tha thiết,
bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của Hương Giang một cách toàn diện, đưa Sông
Hương trở thành biểu tượng của đất cố đơ… - (Bùi Thị Hải Hạnh)
A.
Hồn cảnh sáng tác
Bài kí "Ai đã đặt tên cho dịng sơng?" viết tại Huế vào năm 1981 in trong tập bút kí cùng tên.
Tập sách gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, đang bừng bừng cảm
hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường lòng yêu nước, tinh
thần dân tộc thường gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn hóa sâu sắc.
Bài kí lấy cảm hứng mãnh liệt từ dịng sơng Hương thơ mộng của xứ Huế. Qua cái nhìn của
một người con u Huế đến tha thiết, sơng Hương đã được soi chiếu dưới nhiều góc độ như lịch sự,
1 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
văn hóa, địa lí, … Qua những suy tư và liên tưởng ấy, dòng sông không chỉ trở thành một biểu
tượng đẹp đẽ của vùng đất cố đơ, mà tác giả cịn khẳng định chắc chắn hơn với người đọc vị trí
quan trọng mà trang nghiêm của nơi này trong những trang sử vẻ vang. Với cảnh sắc thiên nhiên
thơ mộng, sông Hương của Huế và sơng Hương của trang văn Hồng Phủ vẫn ln là một hình ảnh
khơng thể nào qn đối với bạn đọc.
B.
Nội dung chính
Tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp sông Hương như một biểu tượng của Huế - mảnh đất đế đơ cùng với
cảm hứng anh hùng ca hài hịa với cảm hứng thiên nhiên, văn hóa, lịch sử. Khám phá vẻ đẹp của
làn Hương dưới góc độ địa lý, lịch sử đến văn hóa và rồi tơn vinh vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế.
Sức hấp dẫn của bút kí tốt ra từ hình tượng sơng Hương và cái tơi mê đắm, tài hoa của Hồng Phủ
Ngọc Tường.
Như đã nói ở trên, tùy bút nghiêng hẳn về trữ tình với điểm tựa là cái tơi của tác giả. Chính vì
thế, giá trị của tùy bút Ai đã đặt tên cho dịng sơng chính là ở những phát hiện phong phú của tác
giả về vẻ đẹp nhiều mặt của dịng sơng. Những vẻ đẹp ấy khơng chỉ phong phú, độc đáo, tinh tế,
hấp dẫn người đọc mà đồng thời cịn thể hiện được cái tơi tài hoa, un bác, dào dạt tình cảm với
đối tượng viết của mình.
Cũng chính bởi đặc điểm giàu chất trữ tình, mà tùy bút sẽ rất phù hợp với những tác giả
muốn đặt cả trái tim say đắm và vốn liếng ngôn từ tinh luyện, kho tri thức phong phú vào tác phẩm
như Hoàng Phủ. Với thể loại này, ông thật sự đã tạo nên những trang văn vừa đẹp, vừa sang, vừa
lấp lánh trí tuệ và chan chứa ân tình.
C.
Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã dẫn dắt người đọc đến với cội nguồn tên gọi của
dòng Hương thơ mộng. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” đã lý giải tên dịng sơng bằng một
huyền thoại mỹ lệ của người dân làng Thành Chung. Lấy tên nhan đề cho bài bút ký dưới hình thức
của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sơng, nói
lên những khát vọng, niềm tự hào của con người khi muốn mang cái đẹp, tiếng thơm để gây dựng,
vun đắp cho văn hóa, lịch sử của xứ Huế. Cùng với đó, nhan đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” cũng
thể hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào
về vẻ đẹp của đất nước.
D.
Tóm tắt tác phẩm
Bài bút kí đã ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương gắn liền với xứ hú mơ mộng đã đi vào lòng
người và với truyền thống lịch sử xứ Huế.
Lúc ở thượng nguồn, sơng Hương có vẻ đẹp mãnh liệt và hoang dại, có nhiều ghềnh thác đáy
vực bí ẩn. Có thể xem sơng Hương như bản trường ca của rừng già.
Lúc về đồng bằng, sông Hương thơ mộng làm say đắm lịng người. Hai bên bờ sơng Hương
chói lọi màu đỏ của hoa đỗ qun. Dịng sơng mềm như tấm lùa uốn cong, cảnh đẹp như bức tranh
có đường nét, hình khối trơi đi giũa hai dãy đồi sừng sửng như thành quách, cao đột ngột như Vọng
Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo. Sơng Hương có vẻ đẹp đa màu biến ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.
Lúc qua thành phố Huế, sông Hương trôi đi thực chậm chảy lặng lờ như điệu slow. Sông Hương
đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trên sông vọng lại tiếng hát trong một
khoang thuyền nào đó. Sơng Hương mang vẻ đẹp vừa trữ tình, vừa trầm mặc gắn liền với lịch sử bi
2 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
tráng của dân tộc mà trên thế giới khơng có dịng sơng nào như thế. Và trước về với biển sơng
hương lưu luyến tình cảm với thành phố Huế ví như nỗi vấn vươn của nàng Kiều với Kim Trọng.
B P HÂN TÍCH
I
Dưới góc nhìn khơng gian địa lý
Mỗi tác giả có những cảm nhận khác nhau về dịng sơng này. Nếu như qua thơ Hàn, dòng Hương
giang mang những nét buồn man mác của một kẻ si tình, u đơn phương trong ngóng về chốn cũ:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dịng nước buồn thiu hoa bắp lay
(Hàn Mặc Tử)
thì Hồng Phủ Ngọc Tường – con người gắn bó cả cuộc đời với mảnh đất cố đơ lại dường như có
được cái nhìn êm đềm hơn, những bớt bơ vơ, buồn tủi hơn so với Hàn Mặc Tử. Chính vì thế, dù ở
thủy trình nào, tác giả cũng mang đến cho dịng sơng những sức sống, nhưng ân tình khơng thể
kiếm tìm thấy ở bất kì một tác phẩm nào khác.
A
Khi chảy ở thượng nguồn
“Trong những dịng sơng đẹp ở các nước mà tơi thường nghe nói đến,… và ném chìa
khía trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”
1.
“Trong những dịng sơng đẹp .... thuộc về thành phố duy nhất.”
a)
Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói
đến
-
Thoạt nhiên nhận xét mang tính chủ quan, cảm nhận riêng của tác giả
Những cảm nhận đó thể hiện hiểu biết sâu rộng của tác giả về các con sông trên thế giới.
-
Đặt vẻ đẹp của dịng sơng Hương lên bàn cân so sánh với những dịng sơng đẹp, nổi tiếng
khác trên thế giới như một lẽ hiển nhiên, dĩ nhiên, ngang hàng, sánh bằng.
Điều này còn được thể hiện qua lời miêu tả của tác giả về sông Hương qua việc phóng
chiếu thủy trình của nó qua chặng chảy về thành phố Huế: “giống như sông Xen của Pari,
sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, …”
Niềm trân trọng, ngợi ca cùng cảm tình sâu sắc với Hương giang trữ tình, thơ mộng:
khơng cảm thấy dịng sơng có điểm gì cách biệt, kém cỏi hơn với danh lam thắng cảnh
khác trên thế giới, thậm chí cịn coi như là một niềm tự hào của Việt Nam khi sánh với các
cường quốc năm châu.
Đã là người con của đất mẹ Việt Nam có lẽ chúng ta ai cũng từng mợt lần trên môi ngân
nga khúc hát ngọt ngào “quê hương ai cũng có mợt dịng sơng bên nhà. Đi xa ai cũng
nhớ, mợt dịng sơng tuổi thơ…” Nếu nhà thơ Hoàng Cầm u con sơng Đuống hiền hịa
bên làng tranh Đơng Hồ cổ kính, Quang Dũng là con của mảnh đất Hà Thành, nơi có dịng
sơng Hồng thắm đỏ phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại gửi lịng mình theo dịng sơng
Hương với mái chèo man mác và điệu hị Nam ai, Nam bình, mái nhì, mái đẩy.
b)
-
Chỉ sơng Hương là tḥc về mợt thành phớ duy nhất
Sơng Hương khơng hồn tồn giống những dịng sơng khác
mang một nét đẹp riêng biệt, khơng thể nhầm lẫn: nó chỉ thuộc về một thành phố duy
nhất
Bài ký nhất quán trong việc khắc họa con sông như đã đi cùng Huế bằng cả một mối tình
trọn vẹn, nhìn sơng Hương và Huế như một cặp tình nhân lý tưởng, gắn bó nhau - một
tình u mn thuở:
“Nếu như chẳng có dịng Hương,
3 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
Câu thơ xứ H́ nửa đường đánh rơi”
(Nếu như chẳng có sơng Hương - Huy
Tập)
Thái độ chí tình, thuỷ chung của dịng sơng: chỉ hướng về cố đô Huế.
-
Nét đẹp của người xứ Huế, người Việt Nam đã trở thành một truyền thống
Chính vì lẽ đó, màu tím (điều lục) – màu của chí tình, son sắt được gọi là sắc màu đặc
trưng, bản sắc xứ Huế.
2.
-
Trước khi về đến vùng ... hoa đỗ quyên rừng.
Trường từ vựng về thiên nhiên: châu thổ, ghềnh thác, cơn lốc, đáy vực, hoa đỗ quyên rừng.
Cảm giác ban sơ, mộc mạc, hoang dại mà thiên nhiên, cảnh vật nơi thượng nguồn Hương
giang mang lại.
Những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm” của dịng sơng
trước khi nó về tới Huế.
“ Trường ca”
Áng văn chương có dung lượng lớn mang đậm cảm hướng ngợi ca
“ rừng già”
Cánh rừng địa ngàn hoang sơ, bí ẩn, mênh mơng
c)
Tính cách, trạng thái khác nhau của Hương giang ở thượng
nguồn:
-
-
Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội với sắc thái biến ảo không ngừng qua từng chặng đường: “rầm rợ giữa
bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, c̣n xốy như cơn lớc vào những đáy
vực bí ẩn”
sử dụng những đợng từ mạnh kết hợp với tính từ mạnh, mơ tả sự dữ dội, sức mạnh man
dại, vẻ hùng vĩ.
Nhà văn đã ví Sơng Hương như một “bản trường ca của rừng già” gợi ra một con sông với
chiều dài hùng vĩ và có dịng chảy mãnh liệt. Rừng già là hình ảnh hoang sơ, bí ẩn và
mênh mơng trong đó mang các sắc thái với nhiều tiết tấu trầm bổng: “rầm rộ giữa bóng
cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực
bí ẩn”. Những đặc điểm về địa hình đã tạo nên một dòng chảy ào ạt, mãnh liệt như vậy
của sông Hương.
Các câu văn dài nối liền nhau như dịng chảy khơng ngừng của dịng sơng. Cách ngắt nhịp
liên tục, tạo tiết tấu nhanh và gấp gáp, như khắc hoạ sự dữ dội, mạnh mẽ, hùng tráng của
bản trường ca mà ở đó, sơng Hương là nhân vật chính.
Vẻ đẹp dịu dàng, say đắm, thơ mộng, trữ tình trên nền thiên nhiên rực rỡ với “dặm dài chói
lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”: khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên, nhưng vẫn
nổi bật và ấn tượng.
Biện pháp tương phản đã giúp dòng hương hiện lên như một sinh thể với hai tính cách trái
ngược nhau mà dung hòa: hùng vĩ, hoang dại và bí ẩn mà rất đỗi thơ mộng, dịu dàng với
sức sống mãnh liệt, như những âm điệu lúc trầm lúc bổng, lúc nhanh lúc chậm của bản
nhạc, góp phần tạo nên vẻ đẹp đa dạng, phong phú cho dịng sơng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành người họa sĩ phối màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng với
màu xanh mênh mang của rừng già, sông nước. Bằng cảm quan thẩm Mỹ tinh tế, tác giả
đã có những liên tưởng bất ngờ và thú vị khi biến sông Hương trở thành một sinh thể có
hồn, có cá tính, có cuộc sống riêng với dòng chảy hoang dại thu hút mọi ánh nhìn.
Chính sơng Hương với vẻ đẹp bản thể của nó đã trở thành bản trường ca của núi rừng Trường
Sơn hùng vĩ.
4 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
. Sơng Đà trong tác phẩm “Người lái đị Sơng Đà” - có những tính cách dữ dợi, hùng vĩ lẫn
trữ tình, dịu dàng như dịng sơng Hương dưới góc nhìn của Nguyễn Tn. Dù mang nhiều
nét tương đồng trong hai tính cách trái ngược, thế nhưng mỗi con sông lại mang sắc thái
riêng biệt, nổi bật theo cách riêng.
. Đặt dịng sơng trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn xa xôi, nhà văn đã thể hiện những
cảm hứng khám phá, cắt nghĩa và lý giải trong cái nhìn sâu sắc về cợi nguồn – và đó cũng
là mợt cảm hứng quen tḥc của tình yêu. Nếu như Xuân Quỳnh đã từng khao khát:
Trước mn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng khơng biết nữa
Khi nào ta u nhau
thì Hoàng Phủ cũng mang mợt khao khát lí giải tương tự như thế. Chỉ có điều, nhà văn
khơng chỉ đặt cảm xúc, mà cịn đặt cái cái nhìn đa chiều và cả vốn kiến thức phong phú
của mình vào hành trình kiếm tìm và khám phá ấy.
3.
Giữa lịng Trường Sơn, sơng Hương đã sống mợt nửa c̣c đời mình như
mợt cơ gái Di-gan phóng khống và man dại.
d)
-
Dành quá nửa quãng thời thanh xuân của mình trong rừng đại ngàn u tịch
Để từ đó sau khi ra khỏi rừng già, tơi luyện lên hình ảnh một người mẹ phù sa dịu dàng, tuệ
mẫn
Rừng già là nơi thượng nguồn sông Hương, cũng là nơi nuôi nấng, sinh thành sông Hương
e)
-
“ sống nửa đời mình”
“ như một cô gái Di-gan man dại và phòng khoáng”
Di-gan là tộc người du mục phóng khống, những cơ gái Di-gan nổi tiếng với vẻ đẹp và sức
quyến rũ mãnh liệt, ưa tự do, ca hát, nhảy múa.
Cá tính mạnh mẽ, phóng khống của một bộ tộc yêu thích cuộc sống du mục, nay đây mai
đó được gắn cho dịng chảy hoang dã khiến sông Hương nơi thượng nguồn càng trở nên
quyến rũ, đắm say giống như người con gái đến tuổi xuân thì.
Vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn song song: bên ngồi hoang dại, phóng khống, sức
sống trẻ trung với dòng chảy lắt léo và tâm hồn trong sáng, ưa khám phá, thích tự do được
rừng già Trường Sơn hun đúc.
Dịng sơng khơng là thứ vơ tri, vơ giác mà là một sinh thể với nét cá tính đặc biệt.
Vẻ đẹp phá vỡ mọi khn thước đó khiến sơng Hương có dáng rất riêng, khác hoàn toàn
với dáng vẻ “như kẻ số một” của con sông Đà hung bạo.
Nhà báo Lê Un Văn “Sơng Hương trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ
mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người.”
5 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
E.
Sơng Hương ở ngoại vi thành phố
1
Vùng châu thở
f)
Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải
được ... trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
(1)
“Nhưng chính rừng già nơi đây ,với cấu trúc có thể lý giải được về
mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình”
-
Tác giả dùng kiến thức địa lý của mình vào tác phẩm
Vốn dĩ rừng già làm cho lưu tốc của con sơng giảm, khiến dịng sơng chảy chậm lại
HPNT lãng mạn, thơ mợng hóa rừng già khiến nó cùng với con sơng thành thực thể có hờn
Chỉ bảo, dạy dỗ, chế ngự sức mạnh man dại như cô gái Di- gan của con sông.
Trước khi đến Huế, bằng một cách kì diệu, rừng già nơi đây đã có thể thuần hóa được cơ gái Di-gan
phóng khống và man dại với sự lí giải mà chỉ mình khu rừng nơi mảnh đất cố đơ này có thể làm
được, khiến cho con sơng Hương tự chế ngự mình, trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất
đế đơ. Một người mẹ từng trải, trí tuệ, dịu dàng. Bản năng hoang dã của sông Hương được chế ngự,
trở nên trưởng thành chín chắn hơn. Sơng Hương dường như muốn được hồn thiện bản thân nó
thật hồn hảo, với sự hội tụ của vẻ đẹp của mọi người con gái trước khi được gặp lại, được trở về
bên Huế để có thể trở nên “sánh đôi, vừa lứa” với người yêu của mình.
(2)
-
“ trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”
“ phù sa”
Êm đềm bồi đắp phù sa, đem lại sự sống cho hai bên bờ;
dịng chảy của văn hóa: khơi mở, bồi đắp văn hóa xứ sở.
-
Phép nhân hóa đã lột tả được vẻ đẹp, chiều sâu tâm hồn và nhân cách của sông Hương. Sông
Hương lặng lẽ, vị tha, vĩ đại, giàu đức hi sinh như một người mẹ. Rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ,
hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn
đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm
thân thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” như để nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh
to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời.
Nhấn mạnh, làm nổi bật mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dịng sơng với mảnh
đất Huế.
Huế có một vẻ đẹp độc đáo và đậm đà văn hóa .
-
“người mẹ”:
tơn vinh vị thế dịng sơng với hình ảnh người mẹ đã mang nặng đẻ đau để sản sinh ra nét
đẹp xứ sở.
Sông Hương giờ đây đã mang vẻ đẹp kinh thành mà người ta vẫn thường thấy để phù hợp
với xứ Huế. Từ cô gái Digan man dại, phóng khống nhà văn đã nâng tầm cho sơng
Hương trở thành người mẹ của vùng văn hóa xứ sở đất đế đơ. Một người mẹ từng trải, trí
tuệ, dịu dàng. Cái dịu dàng mà người ta thường mong sau những thác ghềnh, trí tuệ ở
những con người từng trải, bản lĩnh.
Sơng Hương là cội nguồn của nét đẹp văn hố nơi cố đô Huế, bồi đắp phù sa - hay nói
cách khác là gìn giữ và mang đến những giá trị cho nền văn hoá đậm đà bản sắc của nơi
đây.
6 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
g)
“Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khn mặt kinh thành của nó,… đã
đóng kín lại ở bìa rừng và ném chìa khía trong những hang đá dưới
chân núi Kim Phụng.
(3)
“ Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khn mặt kinh thành của nó”
-
“ khn mặt kinh thành”
Người ta nghĩ đến sông Hương như 1 dịng sơng êm, phẳng lặng trong cảnh thanh bình –
-
Tác giả khơng dừng lại mà trở lại ngược dịng cảm xúc của mình về thượng lưu sơng và khám
phá vẻ đẹp bí ấn
(4)
“đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá
dưới chân núi Kim Phụng.”
-
“ đóng kín lại”
Khóa chặt trái tim mình lại
-
Vẻ đẹp huyền bí, kín đáo, sâu thẳm
Người con gái sơng Hương đã dứt khốt tự chia tay với chính mình, tự thay đổi mình để bắt
đầu hành trình đến với tình u. Có gì giống như sự hy sinh, hiến dâng trọn vẹn, tồn tâm
tồn ý cho tình u vị tha đến quên mình- một vẻ đẹp thuộc về bản chất tình u của người
con gái.
Sơng Hương ngắm nhìn kinh thành Huế như nàng Kiều ngắm nhìn Kim Trọng để từ đó mở
ra c̣c hành trình có ý thức tìm kiếm về người tình trăm năm.
h)
“Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức
người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa
dại”
(5)
-
Trải qua quãng thời gian dài đẵng đẵng tính bằng thế kỷ, con sơng Hương mới được người
tình mong đợi đánh thức sau giấc ngủ chờ đợi tình u đích thực, kết thúc thời gian chờ đợi
cho tình yêu của mình
Trước đó, sơng Hương đã trầm cả nửa đời mình trong rừng Trường Sơn đại ngàn, nay lại dành
ra biết bao thế kỉ giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại như để trút đi hết những nét hoang
dại, man dại, phóng khống của một cơ gái Di-gan nóng bỏng để thành một người gái đẹp
dịu dàng, mơ màng; để xứng với người tình trăm năm, với kinh thành Huế mà nó hằng nhung
nhớ
(6)
-
“ phải nhiều thế kỉ”
“ người gái đẹp nằm ngủ mơ màng ”
Biện pháp nhân hóa, liên tưởng thú vị: giữa dịng sơng với nàng cơng chúa ngủ trong rừng
con sơng mang vẻ đẹp thanh bình, nhẹ nhàng, dịu dàng.
Sông Hương lột xác với một diện mạo hết sức mới mẻ, nền nã
Tính từ “mơ màng”
Sự hồn nhiên, trong sáng
Khơng vướng bụi trần, khơng dính tạp niệm
Vẻ đẹp trong trẻo, thuần khiết của dòng sơng.
(7)
-
“ giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”
Thơ mộng trữ tình như một bức tranh cổ tích mà khơng cần điều gì quá cao sang
Bức tranh trữ tình này được tái hiện qua hình ảnh mộc mạc “ cánh đồng” phủ lên trên đó
là từng bơng hoa dại nhỏ bé, nhiều màu sắc mà lại mộc mạc, giản dị.
7 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
-
Đó là một khung cảnh nên thơ trữ tình điểm tơ điểm thêm một vài bông hoa dại. Khung cảnh
lãng mạn ấy càng làm sông Hương trở nên nổi bật với vẻ đẹp, hoang sơ, thuần khiết, hồn
tồn chưa có dấu vết của con người, chưa hề có bất kỳ dấu hiệu nào của sự chế ngự hay
chinh phục.
i)
-
“Nhưng ngay từ đầu, vừa ra khỏi… tương lai của nó”
Con sơng chuyển dịng đột ngột liên tục như trong một cuộc tìm kiếm có ý thức để tìm về
người tình, thành phố Huế thân yêu. Ta kinh ngạc vì dù được gắn với hình tượng người con
gái mơ màng, nền nã; sông Hương lại chủ động kiếm tìm tình yêu của mình.
Câu văn gấp gáp, hơi văn nhanh cùng với những tính từ miêu tả trạng thái như “ liên tục”,
“đột ngột”
Tâm trạng bâng khuâng, mong đợi, vội vàng của sông Hương
Ta như đang hóa thân vào trải nghiệm cuộc tìm về người tình trăm năm của sơng Hương
Con sơng Hương giờ đây với cả những người chưa bao giờ nhìn thấy cũng khơng cịn xa lạ
nữa bởi nó mang trong mình nét tính cách, suy nghĩ như con người; mang một nét đẹp
điển hình của người con gái Việt; chỉ cần thật tâm đặt mình vào trong cảm xúc của con
sơng, ta thấy sơng Huơng như ở trước mắt, khơng cịn mơ hồ, xa lạ nữa mà thân thuộc
đến lạ thường.
(8)
-
đổi dịng liên tục
vịng giữa khúc quanh đột ngột
uốn mình theo những đường cong thật mềm
(9)
-
“ uốn mình theo những đường cong thật mềm”
vẻ đẹp non sông đất nước đáng trân trọng.
liên hệ đến nét “ngoằn ngoèo”, hay “áng tóc trữ tình” tn dài của sơng Đà dưới ngịi bút
tài hoa của Nguyễn Tuân.
Ở đây, ta lại lần nữa thấy nét trữ tình dịu dàng của con sơng, nó mang phong thái của những
người gái đẹp trên hành trình tìm kiếm về với người trình trăm năm – dù hồi hộp, lo lâu, chờ
đợi, vội vã vẫn không quên làm duyên làm dáng
Vẻ nền nã, dịu dàng ngấm vào tận trong cốt tủy
(10)
-
Tác giả miêu tả con sông với những dáng vẻ, trạng thái khác nhau:
“như một cuộc tìm kiếm có ý thức”
Dịng sơng kiếm tìm người tình mong đợi một cách chủ động
biện pháp so sánh
vẻ đẹp của sông Hương mang đậm tư tưởng hiện đại của người con gái trong tình yêu:
chủ động, làm chủ cuộc sống mình
dù đã trầm mình bao năm nơi đây, đi cùng với chặng đường phát triển của kinh thành
Huế; con sơng Hương khơng bo bo giữ mình với những nếp sống, phong tục xưa cũ về môt
người con gái dịu dàng, e lệ mà lại nhiệt thành, chủ động đến với hạnh phúc.
So sánh với người con gái chủ động kiếm tìm tình u trong Sóng – Xn Quỳnh
“Sơng khơng hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
j)
-
Từ ngã ba Tuần…. xi dần về H́.
Trên đường tìm về thành phố Huế thân yêu, sông Hương giống như nàng tiên được đánh thức
từ giấc ngủ đại ngàn và bỗng bừng lên sức trẻ, niềm khát khao tuổi thanh xuân qua các địa
danh: ngã ba Tuần => điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản => bãi Nguyệt Biều, Lương Qu án =>
đồi Thiên Mụ rồi xuôi dần về Huế.
8 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
(11)
Phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán,
Thiên Mụ
-
-
những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của xứ Huế
vốn kiến thức sâu rộng, phong phú và sự am hiểu của nhà thơ
Viết thành cơng về thể loại ký thì khơng chỉ địi hỏi người tác giả ấy có kiến thức un bác
mà cịn phải là người gắn bó máu thịt với nơi này. HPNT đã dành hơn nửa đời mình gắn bó
với Huế như Hương giang gắn với rừng đại ngàn để từ đó thành mợt người mẹ phù sa
thơng ṭ, dịu dàng. Đã từng có mợt nhà thơ cũng đặt mình vào trong thiên nhiên cảnh
sắc để chân trọng, thấu hiểu sâu đậm mợt dịng sơng như thế, Vũ Quần Phương từng
nhắc đến trong vài thơ “Với sông Đà”
“Tôi đi với sông Đà
Bao lần rồi vẫn lạ
Tôi thuộc ngầm tḥc đá
Tơi tḥc lũ, tḥc dịng”
nhấn mạnh qng đường dài đằng đẵng khó khăn mà con sơng Hương phải trải qua trước khi
đến được với người thương
tinh thần chủ động, khơng quản ngại khó khăn, thách thức để được hạnh phúc bên người
yêu
“ Yêu nhau ba bốn núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội
Thất bát đèo cũng qua”
(12)
-
nhiều động từ chỉ đường nét và tính từ chỉ phương hướng
Con đường đầy gian truân,vất vả như thế nhưng con sông lại như rất quen thuộc, nhwó làu
làu
Chỉ có thật sự để tâm đến thì mới được như thế
Tình nghĩa thủy chung sâu nặng của sông Hương với Huế; của tác giả với dịng sơng; của
-
người dân với cảnh sắc thiên nhiên đất nước
Nhiều động từ chỉ đường nét: “vấp, chuyển hướng, vịng qua, vẽ một hình cung, ơm lấy, xi
dần” cùng hướng chảy đa dạng của dịng sơng: nam bắc, tây bắc rồi lại đông bắc gợi đến sự
rượt đuổi tình tứ của những con người yêu nhau.
Sông Hương sinh động, như được thổi hồn vào, trở nên chân thực, giàu sức sống.
Con sông vừa đang bỡ ngỡ, phân vân khi chưa kịp nhận ra phương hướng rõ ràng vừa tha
thiết, đau đáu, háo hức tìm về với thành phố Huế thân u.
Thủy trình của sơng Hương gợi liên tưởng về con đường nhiều gian nan, trắc trở để đến
được với tình u như “con sóng” trong thơ Xuân Quỳnh:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.”
k)
Từ Tuần về đây… vừa bằng con thoi
(13)
-
“Đi trong dư vang”:
đi trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn Trường Sơn
mang trong mình âm hưởng hùng vĩ của núi rừng đại ngàn; của những gì xưa cũ, cổ kính
dù đã ra khỏi rừng Trường Sơn đại ngàn, sông Hương vẫn nhớ về nó, nơi đã trầm cả nửa đời
mình vào trong
đây chính là biểu hiện cho nghĩa tình thủy chung của thiên nhiên, con người xứ Huế – điều
đã bước vào bao trang thơ.
9 | Page
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
(14)
-
lột tả chuyến đi nhọc nhằn, gian truânvà sắc nước “xanh thẳm” là phần thưởng xứng đáng có
được sau hành trình ấy
Về đến Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dịng sơng đã phần nào được kiềm chế sức mạnh, từ
đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hòa cùng sự mềm mại như tấm lụa.
Sắc xanh thẳm của nước, những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi hịa cùng
bóng dáng hùng vĩ của hai dãy đồi sừng sững, của những điểm cao đột ngột đã vẽ nên bức
họa đồ tuyệt đẹp:
“Đường vô xứ Huế loanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
(15)
-
“vượt qua”
“ để sắc nước trở nên xanh thẳm”
Ở đây, ta lại lần nữa thấy nét trữ tình dịu dàng của con sơng, nó mang phong thái của những
người gái đẹp trên hành trình tìm kiếm về với người trình trăm năm – dù hồi hộp, lo lâu, chờ
đợi, vội vã vẫn không quên làm duyên làm dáng
Vẻ nền nã, dịu dàng ngấm vào tận trong cốt tủy
l)
Những ngọn đồi này tạo nên… như người Huế thường miêu tả
(16)
“Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu
sắc trên nền trời tây nam thành phố, “ sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
-
Khơng chỉ có vậy, những ngọn đồi kết hợp lại tạo ra hiệu ứng ánh sáng vô cùng kỳ ảo, mê
hoặc: Những mảng phản quang với nhiều màu sắc
(17)
-
-
“Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
Sớm xanh: xanh ở đây là màu của bầu trời, cũng có thể là sắc xanh của thiên nhiên, của cây
cỏ hòa vào với làn Hương, tạo nên vẻ đẹp tuyệt tác, sự kết hợp hài hịa tuyệt đỉnh của khung
cảnh dịng sơng
Trưa vàng: những ánh nắng giòn tan, chiếu xuống dòng nước trong của sông Hương, dường
như mặt trời cũng muốn được góp phần nào kiến tạo nên vẻ đẹp của con sông Hương.
Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sơng Đà như mợt “cố nhân”, có ánh sáng “loang
lống như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi” – ấy là với sơng
Đà. Với dịng Hương, ánh nắng cũng đẹp và thuần khiết không kém cạnh. Tưởng chừng
như “kẻ tám lạng, người nửa cân”
Chiều tím: khi ấy, vẻ đẹp hồng hơn hiện lên cùng với sơng Hương, một vẻ đẹp trữ tình, đầy
huyền bí, bí ẩn nhưng vẫn thơ mộng.
“Bốn bề vắng vẻ cô liêu
Một nàng áo tím đăm chiêu đứng nhìn”
Chiều sơng Hương – Liên Bùi
2.
Chảy qua thành trì lăng tẩm
m)
“Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những
vua chúa… bóng tùng Vạn Niên”. “
Nói đến Huế, khơng thể không nhắc đến những lăng tẩm - dường như đây là điều không thể tách
rời. Nét trầm mặc của lăng tẩm, đề đài nơi đây đã mang đến cho con sơng một sắc điệu hồn tồn
khác. Tác giả nói đến một đoạn sông Hương trôi chảy giữa quần sơn lô xơ, nơi đây chỉ có những
rừng thơng u tịch, như cảm nhận được niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm, bao nhiêu lăng
10 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
của vua chúa khiến cho một đoạn sơng Hương như chìm trong núi phủ mây phong cùng với bóng
tùng - – như một dịng sông bước ra từ cổ thi:
“Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên.”
Con sơng hiền hịa ở ngoại vi thành phố Huế như nép mình bên giấc ngủ nghìn thu của
vua chúa.
n)
Đó là vẻ đẹp trầm mặc… bát ngát tiếng gà
(1)
Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sơng Hương, như triết lí, như cổ
thi
-
Khi chảy qua lăng tẩm của các vua chúa trong lòng những rừng thông u tịch, sông Hương lại
mang vẻ đẹp trầm mặc nhất như triết lí, cổ thi
Biện pháp so sánh được sử dụng “như triết lý, như cổ thi” cho thấy vẻ đẹp trầm mặc, cổ
kính của con sơng, khơng những thế đó là vẻ đẹp đã có từ lâu, xa xưa như những triết lý
ngàn năm, như những bài thơ cổ
dịng sơng giống như một dịng chảy của lịch sử, thời gian.
-
Dù mang một tâm hồn của người thiếu nữ trẻ tuổi nhưng khi chảy bên những di sản văn hóa
ấy, con sơng như bỗng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khốc lên mình tấm áo “trầm mặc”
(trân trọng, hoài niệm quá khứ) mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân.
Con sơng như muốn thể hiện sự kính trọng của mình đối với cơng lao của những vua chúa
đời trước đã có cơng lập nước, giữ nước bằng tình yêu nước nồng nàn
Vẻ đẹp dịu dàng, khi thì kiêu hãnh, bừng sáng, tươi tắn, trẻ trung; khi thì trầm mặc như
triết lí, như cổ thi.
Không hề vô tri vô giác mang tâm hồn như một người với bao cảm xúc, nghĩa tình.
Dịng sơng hay chính là dịng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang
vọng về trong ngày hơm nay.
Vẻ trầm mặc của dịng sơng dường như đã khơi nguồn cảm xúc để những giai điệu da
diết ngân lên trong nhạc phẩm “Huế tình yêu của tơi”:
“Vẻ đẹp H́ chẳng nơi nào có được
Nét dịu dàng pha lẫn nét trầm tư”
(2)
-
-
Kéo dài mãi đến lúc mặt nước … bát ngát tiếng gà
Vẻ đẹp ấy còn kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa
Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…:
vẻ trầm mặc của dịng sơng phẳng lặng tạo cảm giác về một không gian bao la, rộng lớn,
kéo dài đến tận chùa Thiên Mụ ở tận bờ bên kia và những xóm làng trung du.
Dịng chảy êm đềm, chậm rãi của sông Hương và tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng gà bát
ngát đã khắc họa nên bức tranh ngoại ơ thành phố Huế thật n bình, êm ả.
Khung cảnh đẹp tựa một bức tranh họa thủy nhuốm màu cổ tích, trong đó song Hương
vừa mang vẻ đẹp dịu dàng, vừa có nét hiện đại của người con gái mà lại nghĩa tình, trầm
mặc, mang đầy triết lý cổ thi.
“Núi Ngự Bình mặc áo tím lúc hoàng hơn.
Chng chùa Thiên Mụ ngân nga láy vào nỗi nhớ…”
(Tặng người hát dân ca – Lê Nhật
Ký)
11 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
-
Cố đơ Huế lúc này lại mang một nét đẹp thân thuộc, thân quen, êm ả, dịu dàng đến khơng
ngị
Hình ảnh “ tiếng gà” gọi khung cảnh gia đình vui vẻ, hịa thuận, nó phẳng phất gì đó một
ngày xưa cũ của một vùng đồng quê yên ả
Ta chợt nhớ đến hình ảnh tiếng gà trong bài thơ “ Tiếng gà trưa” mà ở đó, tiếng gà trong kí
ức nhân vật trữ tình cũng mang phong phạm như thế.
F.
Khi chảy ở vùng ngoại ô Kim Long và trong lòng thành phố Huế
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về… cơ hồ chỉ cịn là mợt mặt hồ n tĩnh”
1.
“Từ đây, như đã tìm đúng đường về, … nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng
của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”
o)
-
Khác hẳn với tâm trạng phân vân, băn khoăn, do dự trước đó
bút pháp nhân hóa: vui tươi hẳn lên, mừng rỡ, lại trở về thành người con gái độ xuân thì khi
sắp được gặp lại người tình bấy lâu nay ln tìm kiếm của mình.
Sơng Hương lúc này như trở về tuổi thanh xuân vui tươi, rạng rỡ; rỏ bở hết đi vẻ đẹp trí tuệ,
bao dung của người mẹ phù sa hay hình ảnh người con gái đẹp làm duyên làm dáng mơ
màng giữa cánh đờng Châu Hóa và cả nết đẹp tựa triết lí, tựa cổ thi.
p)
-
“Sông Hương kéo một nét thẳng thực yên tâm”
khơng do dự, phân vân mà dứt khốt.
Điều này như càng nhấn mạnh thêm việc nó khơng thể chờ đợi được nữa, gấp gáp, mau
chóng muốn nhìn thấy người thương của mình
Hình ảnh Hương Giang lúc này chẳng khác nào nàng Kiều trong đêm thề ngun khơng bị
bó ḅc bởi phong tục, lề lối mà sẵn sàng phá tan xiềng xích tục lệ, lao qua bóng tới bao
trùm để tìm đến người thương Kim Trong “Xăm xăm băng lối vườn khuya mợt mình”
(Trụn Kiều-Nguyễn Du)
Một thực thể sống động, có niềm tin, có cảm xúc, tâm trạng.
r)
-
“ biền bãi xanh biếc”
không gian mang màu “ xanh” = vẻ đẹp của sông Hương như cổ vũ, chúc mừng con sông
trên hành trình tìm về với người thương yêu.
Tâm trạng của con sơng lan ra cả phong cảnh.
Mợt hình ảnh rất quen thuộc mà ta đã bao lần gặp trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tưởng
chừng sơng Hương chính là mợt người con gái đẹp khơng kém Kiều và vì lẽ đó, tâm trạng
của con sông xinh đẹp cũng như vẻ đẹp của nàng Kiều, cảm xúc của nàng đã tác động
lên mọi vẻ đẹp xung quanh.
q)
-
“ như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên”
“ theo hướng tây nam – đông bắc”
Dường như con sơng Hương đã thuộc nằm lịng đường về, như đã đi qua cả trăm lần, nhớ
được hướng về chính xác của nó
12 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
s)
“ nơi ći con đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành
phố in ngần trên nền trời”
-
-
Đáp lại cho cơng sức, tình yêu nồng nàn và khát vọng cháy bỏng khao khát gặp lại người
tình, sơng Hương, đã nhìn thấy chiếc cầu trắng – cầu Tràng Tiền, biểu tượng của thành phố
thân yêu nơi cuối con đường cũng như tín hiệu cho việc nó sắp được hội tụ với Huế.
Thành ngữ tục ngữ của người dân Việt Nam ta: “ Có cơng mài sắt có ngày nên kim” – mọi
nỡ lực, khở cực của dịng sơng đều được đền đáp xứng đáng.
In ngần: hiện hữu, rõ ràng, ngay trước mắt
Hình ảnh chiếc cầu trắng in xuống làn nước, sông Hương tưởng chừng như nó là in lên nền
trời xanh kia.
t)
-
“ nhỏ nhắn như những vầng trăng non”
Hình ảnh so sánh
Vành trăng non nhỏ nhắn, thanh thoát, thuần khiết. Tuy nhỏ nhưng lại hiện rõ nét lên giữa
nền trời, không bị lu mờ, vùi lấp mà vẫn tỏa sáng với nét riêng của nó.
Ngay lúc này đây, ta cảm thấy vẻ đẹp của Huế cũng đã tạo nên vẻ đẹp trong sáng của làn
Hương:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga bng hờ”
(Vài nét H́-Nguyễn Bính)
2.
“Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, … tiếng “vâng” không nói ra của
tình u”
u)
-
Bãi đất nỗi trên sơng Hương trước kinh thành. Vua nhà Nguyễn đã từng coi hai bãi đất nổi
này tạo cho kinh thành Huế cái thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”.
Tưởng chừng như hai thần thú canh gác mảnh đất đế đơ của mình, nhưng lại cũng phần nào
trữ tình chào đón làn Hương quay trở về.
v)
-
Các địa danh: “Cồn Giã Viên”, “Cồn Hến”
“Giáp mặt” và “uốn một cánh cung rất nhẹ”
Sông Hương lần này lại nhân hóa như một người con gái e lệ, nhún mình xin phép “hai thần
thú canh giữ” kia để được dung nhập vào thành phố thân thương.
Thành phố Huế dường như cũng đưa hai thần thú Cồn Giã Viên, Cồn Hến này để mở lịng,
chào đón người tình của mình đến.
w)
“ như tiếng vâng không nói của tình yêu”
-
Phép so sánh đấy đợc đáo – ví von cái thực thể, hữu hình với cái vơ hình; giữa cái cụ thể với
cái từu tượng
Gây ấn tượng mạnh về cảm giác hơn thị giác
-
Người con gái hóa mềm hẳn đi, rũ bỏ mọi bộn bề phía sau, nhẹ nhàng “vâng” như tiếng lịng
khơng nói ra của tình u.
Tiếng “vâng” ẩn chứa đầy sự e ấp, ngập ngừng, ý vị thiêng liêng của người con gái khi yêu –
vừa kín đáo, e thẹn, chấp nhận tình yêu của thành phố.
Giọng “vâng” hiện lên thể hiện nét dịu dàng trong giọng nói người dân Huế, vẻ đẹp nết na,
thùy mị của người con gái Huế như thoắt ẩn thoắt hiện trong hình ảnh dịng sông Hương.
Giọng điệu ngọt ngào, cách diễn đạt gợi cảm và tinh tế
-
Tình cảm của HPNT với Huế qua hình tượng dịng sơng.
Nhà báo Lê Un Văn “Sơng Hương trong cách nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường khơng chỉ
mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của con người.”
13 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
3.
“Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, …nguyên dạng một đô thị
cổ, trải dọc hai bờ sông.”
Với vốn kiến thức phong phú về địa lí, tác giả đã mang đến cho tác phẩm một sự so sánh diệu kì.
Sơng Hương giữa lịng thành phố Huế có gì đó gợi nhắc đến sơng Xen của Pa-ri, sơng Đa-np của
Bu-đa-pét, ... nhưng những dịng sông ấy vừa giống lại vừa khác với Hương giang. Ch úng đều giống
nhau khi chảy giữa kinh thành của một đất nước, thế nhưng riêng dòng Hương lại đem đến những
sắc thái riêng biệt.
Sơng Hương khơng chỉ là dịng sơng chỉ thuộc về một thành phố, mà cịn là dịng sơng nối liền q
khứ với hiện tại. Sự cần kề của những xóm thuyền, những ánh lửa thuyền chài với phố thị đông vui
bên bờ đã tạo nên một nét đan cài giữa hiện đại và truyền thống. Thêm nữa, nét êm đềm, lặng lờ
của dịng sơng chính là điều khiến cho diện mạo của thành phố như thơ mộng hơn, in một dấu đậm
nét hơn trong lòng người đọc:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lịng H́ nên rất thơ
(Thu Bồn)
Hay:
Hương Giang ơi, dịng sơng êm
Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Tố Hữu)
x)
-
-
Đặt vẻ đẹp của dịng sơng Hương lên bàn cân so sánh với những dịng sơng đẹp, nổi tiếng
khác trên thế giới như một lẽ hiển nhiên, dĩ nhiên, ngang hàng, sánh bằng. Điều này còn
được thể hiện qua lời miêu tả của tác giả về sơng Hương qua việc phóng chiếu thủy trình của
nó qua chặng chảy về thành phớ H́
Thể hiện niềm trân trọng, ngợi ca cùng cảm tình sâu sắc với Hương giang trữ tình, thơ mộng:
ơng u nét đẹp của thiên nhiên cảnh vật quê hương mình và khơng cảm thấy dịng sơng có
điểm gì cách biệt, kém cỏi hơn với danh lam thắng cảnh khác trên thế giới, thậm chí cịn coi
như là một niềm tự hào của Việt Nam khi sánh với các cường quốc năm châu.
y)
-
-
“ nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”
Giờ đây, Huế và sơng Hương đã hịa vào làm một, sơng Hương làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ
tình của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư, sâu lắng của sơng Hương.
tình u vẹn tồn, son sắt, trịn vẹn từ cả hai phía – u khơng chỉ là được yêu mà còn
phải yêu thương, bao dung, bao bọc chở che người thương
Có câu châm ngơn rằng: “Trong tình u đích thực, người ta vừa được dâng tặng, vừa
được khám phá và hồn thiện chính mình”
Ý nghĩa nhân văn, quy luật của một tình yêu chân thực.
z)
-
“giống như sông Xen của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, …”
“ nguyên dạng một đô thị cổ”
Cho dù đã dung nhập với nhau, Huế vẫn giữ nguyên nét đẹp cổ kính vốn có của nó, vẻ đẹp
khơng bị mai một đi chất riêng cũng như tình cảm thủy chung đáp lại tình u của sơng
Hương dành cho Huế.
Cuộc hội ngộ tình u, khơng có chút nào q rực rỡ, lộng lẫy mà chỉ có sự ngầm hiểu,
thấu hiểu đối phương, một cuộc hội ngộ mà chỉ trong lòng họ hiểu.
Huế đồng thời vừa che chở, gắn bó, giúp sơng Hương rũ bỏ được vẻ trưởng thành mà được là
chính nó, một người con gái dịu dàng trong tình u.
14 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
4.
“Đầu và cuối ngõ thành phố …cịn nhìn thấy được”
aa)
“ những nhánh sơng đào mang nước sơng Hương tỏa đi khắp phớ
thị”
-
Sơng Hương hịa vào với thành phố, người tình của nó bằng cách thông qua những nháng
sông đào mà tỏa đi khắp phố thị, tình cảm của làn Hương giờ đây lan ra khắp con ngõ, con
phố
Tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Ở đây, thiên nhiên và con người kết
hợp thành một sinh thể, kiến tạo nên vẻ đẹp tuyệt trần của xứ sở văn hóa – Huế.
ab)
“ với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm x́ng
những xóm thùn xúm xít”
-
“ u sầm”
Dù không ở trong rừng Trường Sơn đại ngàn ta vẫn bắt gặp vẻ đẹp hùng vĩ, tràn sức sống
của thiên nhiên cây cỏ lâu đời như “ rừng đại ngàn” giữa phố thị xưa cũ
Những cây đa, cầy cừa cổ thụ cũng như muốn cống hiến nó cho khung cảnh nơi đây mà rủ
bóng xuống những xóm thuyền xúm xít, ơm lấy, bủa vây bằng những cành lá rậm rạp với
bóng râm mát, tạo nên vẻ đẹp xưa cũ của xóm nhà.
Những làng chài, xóm thuyền ngay sát kề nhau, cùng nhau vẽ lên bức ảnh về đời sống nơi
đây, đầy ấm áp và nồng đượm tình người.
ac)
“ vẫn lập lòe trong đêm sương, giữa những ánh lửa thuyền chài
một linh hồn mô tê xưa cũ mà không nơi nào ở thành phố hiện địa còn
nhìn thấy được”
-
Một sự riêng biệt khác của Huế, nhờ có sơng Hương mà nét riêng ấy vẫn được lưu truyền,
giúp Việt Nam ta đẹp thêm với những vẻ đẹp đặc sắc hơn.
Nét đẹp văn hóa của người dân hàng chài, người dân xứ Huế vẫn âm ỉ bừng cháy bất kể đêm
đen u tối, mịt mờ mà đã lâu đời, cở kính đến nỡi hóa thành mợt thực thể, mợt sự vật có tri
giác, có thần thức, hay có thể hiểu là nền văn hóa trên sơng Hương như “ một linh hồn mơ
tê” xưa cũ chẳng nơi đâu có được.
5.
“Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ …cơ hồ chỉ cịn là mợt mặt
hồ n tĩnh”
Những chi lưu, hai hịn đảo nhỏ trên sơng dường như muốn níu kéo, dừng lại dịng chảy của sơng
Hương, giảm tốc độ của làn Hương như thành phố Huế quấn qt, bên sơng Hương và cũng như
sông Hương muốn mãi mãi cạnh bên Huế, ngắm nhìn những vẻ đẹp của Huế để khắc ghi vào trong
tâm nó – một thành phố thân thương, người tình của nó.
Chan chứa biết bao tình cảm ẩn sâu bên trong, sơng Hương tự hóa thành một điệu slow tình cảm
chung tình, chỉ muốn dành riêng cho Huế, bồi đắp cho Huế những phù sa, những sự tinh khiết nhất
mà nó hiến dâng để Huế và nó có thể được mãi cạnh bên nhau. Trôi đi chậm, thực chậm đến nỗi cơ
hồi chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh, không thể di chuyển đi đâu mà bao quanh thành phố Huế, ơm
ấp người u nó, khơng muốn rời xa.
“Sông Hương chảy một đời không tới biển.”
(Tặng người hát dân ca – Lê Nhật Ký)
“ Văn chương nếu khơng có gì riêng thì sẽ khơng là gì cả” thế mạnh trong cách viết của
HPNT là so sánh. Ông có cách ví von rất mới mẻ: lấy cái cụ thể so sánh cái trừu tượng. Ơng ví
đường con của sơng Hương như một tiếng “vâng” khơng nói của tình u; ví von thủy trình
của con sơng là cuộc hội ngộ tình u; hay coi vẻ đẹp của sơng Hương như triết lí, như cổ thi.
Những điều này gây ấn tượng mạnh về mặt cảm giác hơn là mặt thị giác.
15 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
Nhờ sự kết hợp của động từ mạnh và tính từ gợi tả, ta thấy sông Hương hiện lên thật sống
động. Sự đan xen giữa bút phảp kể và tả thực cùng biện pháp nhân hóa khiến con sơng
Hương trở thành người con gái trong hành trình mang tính cách, đời sống tâm hồm riêng.
Ngồi ra, ta cịn được đến với nhiều vẻ đẹp khác nhau củ Hương giang qua liên tưởng độc
đáo, thú vị của HPNT với kiến thức về khám phá, trải nghiệm.
6.
Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sơng … như vấn vương
mợt nỗi lịng.
Nếu như hình ảnh sông Hương ở ngoại vi thành phố Huế mang vẻ đẹp kì diệu của quần thể thiên
nhiên thơ mộng nơi cố đơ thì khi chảy trong lịng thành phố, nó lại mang đến cho người đọc những
cảm giác thật khác biệt.
Dưới cái nhìn của hội họa, dịng sơng hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng. Tác giả sử dụng hàng loạt
những so sánh, liên tưởng mang đậm chất trữ tình kiến con sơng Hương hiện lên đầy thủy chung và
tình tứ. Giữa thành phố, nó hệt như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường nét uốn lượn mềm
mại và duyên dáng.
Con sông khi nằm trong Huế, vận tốc của dòng nước như giảm hẳn, “cơ hồ chỉ là một mặt hồ yên
tĩnh”. Tác giả gọi đó là “một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Chất trữ tình được đặt rất rõ
nét ở chi tiết này, làm nổi bật với người đọc sự tha thiết, đắm say như một bản nhạc êm đềm của
dòng nước. Trên trang văn của Hoàng Phủ, Hương giang đã đẹp, đã mộng mơ nay lại càng say đắm
đến thế.
Càng yêu quý điệu nhảy lặng lờ của dịng sơng, tác giả càng muốn so sánh nó với những dịng sơng
lớn nổi tiếng trên Thế giới như Sông Xen của Paris, Sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Lenin-grat… chảy băng băng như một chuyến tàu tốc hành. Không phải là ngẫu nhiên mà nhà văn lại
so sánh con sông Hương với những dịng sơng ấy. “Sơng nê-va cuốn trơi những đám băng lơ xơ”, nó
“chảy nhanh q”, “khơng kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ
trơng theo”.
Cịn Hương giang thì sao? “Sơng Hương nằm ngay giữa lịng thành phố u q của mình, Huế
trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông”. Những nhánh sông đào
mang nước sông Hương tỏa đi khắp nơi. “Những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống
những xóm thuyền xúm xít”. Và đặc biệt, điều khiến tác giả mê đắm nhất, có lẽ là dịng chảy
“chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Có lẽ trước những tĩnh lặng si tình đó,
con người ta mới muốn nán lại bên con sông một chút, ngắm nhìn một chút, yêu thương thêm một
chút. Và bản thân tác giả, con người gắn bó cả cuộc đời với Huế và những dịng sơng, thì dáng điệu
này của sông Hương là một trong những điều ông yêu mến nhất.
“ Dịng nước sơng Hương chảy lặng lờ
Ngàn thơng núi Ngự đứng như mơ”
Khi miêu tả dòng chảy của con sơng, nhà văn cịn đưa vào đó chi tiết phong tục, lễ hội và biến
chúng thành hình tượng nghệ thuật. Để miêu tả dịng sơng, ơng mượn lại tư tưởng của nhà triết gia
16 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
người Hy Lạp Hê-ra-clit: “khơng ai tắm hai lần trên một dịng sơng” để tơ đậm vẻ đẹp lặng lờ của nó
mà có lần ta bắt gặp trong dịng sơng của nhà thơ Thu Bồn:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lịng nên H́ rất sâu”
Sơng Hương đã đến lúc phải rời xa Huế để đổ ra biển nhưng nó bỗng “ngập ngừng như muốn đi
muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.
G.
Khi rời khỏi kinh thành Huế
“Rời khỏi kinh thành, …xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”
1.
Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy
đảo Cồn Hến … vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
- Biện pháp nhân hóa, con sơng ơm lấy đảo Cồn Hến bằng dòng chảy nhẹ nhàng, âu yếm.
- Vẻ đẹp của vùng ngoại ơ thành phố Huế nên thơ, trữ tình, bình n, giàu sức sống.
- Biện pháp nhân hóa (mơ màng, lưu luyến) kết hợp liệt kê khắc họa rõ nét điều đó.
2.
Và rồi, như sực nhớ lại mợt điều gì chưa kịp nói … khúc quanh này thực
bất ngờ biết bao.
- Vẫn với biện pháp nhân hóa, nhà văn khắc họa tinh tế tâm trạng của con sông. Lúc trước, cịn mơ
màng trơi đi giữa cảnh đẹp đơi bờ nên nó qn mất mình đang ra khỏi Huế. Giờ sông Hương chợt
tỉnh giấc để nhận ra một điều quan trọng chưa kịp làm, đó là nói một lời chia tay với người tình.
- Nơi con sơng gặp lại Huế là thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Một địa danh nổi tiếng của Huế. Mang nét cổ
kính, mang giá trị truyền thống văn hóa của nơi này. - Đặc biệt, với người Huế, đây là chỗ chia tay
dõi xa ngoài mười dặm trường đình, gợi sự lưu luyến với quê hương, cho thấy phẩm chất con người
Huế: nghĩa tình sâu nặng.
. - Hành động quay lại của sông Hương rất lạ với tự nhiên vì sơng Hương đang xi chảy giữa cánh
đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao.
3.
Có mợt cái gì đó rất lạ …. Của tình yêu
- Nhưng ngược lại, hành động đổi dịng đó rất giống con người với tâm trạng vấn vương, lưu luyến.
Thậm chí, có thể gọi đây là chút lẳng lơ kín đáo. Vì con sơng đã phá cách so với truyền thống mà
chủ động bộc lộ tình yêu của mình với Huế, theo cách của riêng mình
4.
và giống như nàng Kiều …. Cịn nhớ…”
- Hành động này được so sánh với nàng chí tình Kiều trong đêm tình tự, quay lại gặp Kim Trọng để
nói một lời thề thủy chung, son sắt. - Dựa vào nội dung của đoạn trích, ta có thể hồn thiện câu thơ
như sau “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, cịn nhớ đến người hơm nay”.
5.
lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương … quê hương xứ sở.
- Tình u thủy chung với q hương theo dịng chảy của con sông để vang vọng, lan tỏa. - Cũng là
tấm lịng người dân nơi Châu Hố xưa mãi mãi chung tình với quê hương, đất nước.
17 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
III.
Vẻ đẹp của sơng Hương dưới góc nhìn lịch sử
A.
“ Hiển nhiên là sơng Hương đã sông những thế kỉ quang vinh… và người
nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của mợt lời thề.”
Dưới lăng kính sử thi, Hồng Phủ Ngọc Tường đã không quên tô đậm niềm vinh quang mà sơng
Hương có được trong lịch sử lâu dài của dân tộc. Đó là dịng sơng của những chiến cơng hiển hách,
của sử thi được viết dưới màu cỏ lá xanh biếc. Nó là bản trường ca ghi dấu những kỉ niệm quang
vinh, là chứng nhân lịch sử phải chịu nhiều những mất mát, hy sinh cùng với các thế hệ nhân dân
Huế. Từ hồi vua Hùng dựng nước cho đến khi Nguyễn Trãi viết “Dư địa chí”, dịng sơng mang tên
Linh Giang - Viễn Châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Đại Việt.
Đi qua thế kỉ trung đại, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân gắn với tên tuổi của người anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ. Nó bầm da tím máu, sống hết lịch sử đau thương, bi tráng của thế kỉ 19
với máu của những cuộc khởi nghĩa. Sông Hương đi vào thời đại Cách Mạng tháng 8 với chiến công
rung chuyển như tiếng trống của cuộc khởi nghĩa Mậu Thân 1968. Nó oằn mình lên để hứng chịu
những trận bom dội của khơng quân Hoa Kì tàn phá những di sản của cố đơ. Suy cho cùng, sơng
Hương là dịng sơng của thời gian ngân vang, là biểu tượng của bề dày văn hóa Huế, là tình u bất
tận của Hồng Phủ Ngọc Tường- Một nhà văn đã có hơn 40 năm gắn bó với nơi đây.
“Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải
hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn,
Pa-ri và Béc-lin, … Một trong số những di sản đó đã bị phá hủy lúc Nội thành Huế bị ném bom.
Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ”.
Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh
châu Âu khi một số cơng trình của nền văn minh Hy Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhờ thờ bị
phá hoại”.
Với những dịng ấy, Hồng Phủ không chỉ mang đến cho chúng ta sự ngậm ngùi tiếc nuối trước
những giá trị văn hóa đã bị phá hủy, khi Huế oằn mình chống lại những tàn phá của chiến tranh, mà
kèm theo đó, cũng khơng thiếu những dư âm của sự tự hào. So sánh Huế với Pa-ri hay Ln Đơn,
hẳn rằng trong lịng tác giả đang trào dâng một nỗi vui mãnh liệt và tha thiết khẳng định vị thế,
tầm quan trọng của thành phố cố đơ này.
B.
“ Sơng Hương là vậy, là dịng sơng … làm người con gái dịu dàng của đất
nước”
1.
“Sông Hương là vậy, là dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi
viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”
ad)
-
Sông Hương là vậy
Câu cảm thán, thừa nhận vẻ đẹp vừa bi tráng vừa bình dị của dịng sơng với những cớng hiến
hết mình cho quê hương xứ sở.
18 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
ae)
Là dòng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu
cỏ lá xanh biếc
-
Nhà văn có cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị.
Hiện tại những chiến cơng đó chỉ cịn trong sử sách, những thiên sử thi về một thời đã qua
hào hùng mà rất đỗi trữ tình.
Trong q khứ, con sơng đã từng song hành với những thăng trầm lịch sử; với những chiến
công lừng lẫy, mợt thời vang bóng kiêu hùng của dân tợc ta.
Dịng sơng chứng kiến biết bao máu sương, gian khở, nhọc nhằn, đau thương, mất
mát của người lính anh hùng mà như trong bài thơ “Việt Nam máu và hoa”, nhà
thơ Tố Hữu đã từng viết:
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc, và cho Tất cả
Lá cờ này là máu là da
Của ta, của con người, vô giá.”
Sơng
Hương là dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá
xanh biếc, là biểu tượng của bề dày lịch sử của Huế. Nó đã sống những thế kỉ vinh
quang với nhiệm vụ lịch sử.
af)
“Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình làm một chiến công,
để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu
dàng của đất nước”
-
Nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường khơng coi con sơng là mợt thứ gì vơ tri vơ giác mà nhân hóa
nó bằng cách sử dụng các từ ngữ như “tự hiến mình” hay “người con gái”.
(1)
-
Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến mình thành mợt chiến cơng
Con sơng cùng nhân dân đờng lịng tham gia chiến đấu, kháng chiến giành đợc lập bằng
cách “tự hiến mình”.
“Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”
“Đất trời ta cả chiến khu mợt lịng”
-
Con sơng Hương là mợt chứng nhân lịch sử gắn bó với những thăng trầm của thành phớ H́,
nó sẵn sàng hy sinh thân mình cho “Tổ q́c bay lên bát ngát mùa xuân”.
Đúng như đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng cúi đầu ngấn lệ khi khẳng định: “Lịch sử Đảng
ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng
đáng cho Tở quốc”. Trong sự cớng hiến đó, sơng Hương đóng vai trị khơng thể thiếu.
(2)
Để rời nó trở về với c̣c sớng bình thường, làm mợt người con gái
dịu dàng của đất nước
-
Nhà văn thổi hồn vào con sơng, gắn nó với con người H́ để rời sơng Hương mang mợt nét
đặc trưng, cá tính, đợc đáo như người con gái Huế dịu dàng, nết na, trữ tình.
Sơng Hương biết thích nghi, thay đởi, làm mới mình qua từng ngày.
Ta nhìn thấy dáng dấp, vẻ đẹp người con gái, người phụ nữ trong hình ảnh con
sơng Hương: “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang” trong cả thời chiến
và thời bình.
Vẻ đẹp đất nước, thiên nhiên, con người Việt Nam
“Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.”
(Nguyễn Đình Thi)
19 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
Tóm lại, dưới góc nhìn lịch sử, sơng Hương mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa bình dị: như
sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Thế nên, khi nghe lời gọi của Tở q́c, nó tự hiến đời
mình làm mợt chiến cơng; khi về c̣c sớng bình thường, sơng Hương lại làm mợt người
con gái dịu dàng của đất nước.
IV.
Là dịng sông văn hóa
A.
Sông Hương gắn liền với nền âm nhạc cở điển xứ Huế
Trong cái nhìn đa diện và nhiều chiều của Hồng Phủ Ngọc Tường, sơng Hương hiện lên với vẻ
đẹp có sức hấp dẫn mê hồn bởi nó gắn liền với phong tục tập quán ở xứ Huế. Nhà văn dường như
thấm thía rằng, tất cả mọi thứ rồi cũng sẽ bị lãng quên, chỉ có văn hóa là tồn tại mãi mãi. Nhà văn
đã từng tâm sự “Sơng Hương là nỗi hồi vọng về một cái đẹp nào đó chưa đạt tới” ý chính bởi điều
đó ơng khao khát khám phá vẻ đẹp tiềm ẩn của sông Hương bằng cả tâm hồn mình.
Từ góc nhìn văn hóa, nhà văn đã gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế. Từ trong khoảnh
khắc trùng lại của sông nước, nhà văn liên tưởng đến hình ảnh người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya để thấy được đây là nơi sinh thành ra nền âm nhạc kinh thành Huế, là cái nôi của nền âm
nhạc truyền thống. Đây là so sánh rất lạ và độc đáo nhưng vơ cùng chính xác, nó thể hiện cái nhìn
đồng nhất hóa, nâng sơng Hương lên trở thành cái đích thực của tâm hồn. Lắng nghe âm thanh của
dịng sơng mà thấy được những thổn thức của cha ơng, đó là đại thi hào Nguyễn Du: “Bao năm lênh
đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu và từ đó là những bản đàn đi suốt cuộc đời
Kiều”.
Không phải ngẫu nhiên trong bài kí mà tác giả nhiều lần nhắc đến Truyện Kiều khi nói đến sơng
Hương. Đối với người Việt Nam, Truyện kiều là một kiệt tác đại thành của dân tộc, và trong truyện
Kiều ln soi bóng hình ảnh của dịng sơng Hương. Nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường đã cảm nhận
dịng sơng âm nhạc ở nhiều khơng gian, thời gian và địa điểm bằng sự quan sát và vốn kiến thức
uyên bác. Ông đã làm sống dậy mảnh đất của nhã nhạc cung đình Huế từ giai điệu âm vang của
Hương giang, tới những bản nhạc nổi tiếng như “Tứ đại cảnh”:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
Nét buồn, nét mộng của sông Hương là nguồn cảm hứng bất tận cho những bản tnhf ca êm đềm.
Để viết được những câu văn đắm say về sơng Hương, có lẽ HPNT đã nghe những điệu hò của người
Huế:
“ Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trơng
Thuyền ai thấp thống trên sơng
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.”
20 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
B.
Sơng Hương gắn liền với màu sắc truyền thống của xứ Huế
1.
“Thỉnh thoảng, tôi vẫn cịn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi,
mợt sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân
thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành mợt màu
tím ẩn hiện, thấp thống theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc
sau tiết sương giáng.”
- Màu điều lục là sự kết hợp giữa màu xanh chàm lồng vào chút sắc đỏ bên trong tạo thành màu tím
ẩn hiện – gam màu đặc trưng của phục trang xứ Huế.
- Ánh nắng không làm phai nhạt đi sắc màu vớn có của áo cưới mà càng làm sống động hơn màu áo
điều lục này, “tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thống theo bóng người” khiến cho người phụ
nữ xứ Huế dù đã lấy chồng nhưng vẫn mang trong mình vẻ đẹp nền nã, trang nhã, u kiều, nhẹ
nhàng, tình tứ như xưa “các cơ dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng.”.
Màu điều lục khơng những là màu sắc trang phục H́ mà cịn là màu riêng đặc
trung cho người Huế – tình nghĩa thủy chung, chí tình, son sắt.
Sắc tím cùng sơng Hương, xứ Huế đã biết bao lần đi vào thi ca:
“Núi Ngự Bình mặc áo tím lúc hoàng hơn.
Chng chùa Thiên Mụ ngân nga láy vào nỗi nhớ.
Sông Hương chảy một đời không tới biển.
Huế trong tôi là một chiếc áo dài...”
(Tặng người hát dân ca – Lê Nhật Ký)
- Điệp từ “xưa” (ngày xưa rất xưa) tạo âm hưởng thi ca cho câu văn; nhấn mạnh sự lâu đời của sắc
áo điều lục.
Bề dày văn hóa của xứ H́ mợng mơ.
ag)
“Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sơng Hương, giống
như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khn mặt thực
của dòng sơng.”
-
-
Màu tím cũng là màu của sương khói hùn ảo trên sơng Hương
. màu ánh hồng hơn hắt lên sương khói.
.màu của con sông, thiên nhiên, cảnh vật xung quanh được ánh nắng hắt lên.
. màu tự nhiên của sương khói trên sơng.
Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo hóa ban tặng cho xứ H́.
Hình ảnh sương khói trên sơng cũng đã từng một lần xuất hiện trong thơ của Hàn
Mặc Tử:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Tuy nhiên, nếu trong thơ của Hàn Mặc Tử gợi cho ta một nỗi hoài nghi về cuộc đời,
nhân sinh thì sương khói qua lời kể của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại cảm giác mơ
màng, thơ mộng, trữ tình, rất đỡi bình n.
Con sơng Hương “ẩn giấu khn mặt thực” của mình sau tấm voan tím hùn ảo của tự
nhiên như ngại ngùng, e thẹn điều gì.
Tính cách nền nã, dịu dàng; vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế.
21 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
V.
Sơng Hương cịn khơi ng̀n cho thi ca nghệ tḥt
A.
“Có mợt dịng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét mợt cách
cơng bằng về nó khi nói rằng dịng sơng ấy khơng bao giờ tự lặp lại mình trong
cảm hứng của nghệ sĩ."
- Sông Hương đi vào thi ca, văn chương một cách tinh tế, đa dạng; là nguồn cảm hứng bất tận của
các nhà thơ, nhà văn.
- Dịng sơng ấy khơng bao giờ lặp lại mình, cũng khơng bao giờ lặp lại trong mỡi góc nhìn của người
nghệ sĩ. Mỡi người lại có mợt cảm nhận, khám phá riêng về sơng Hương.
- Chính trong những câu văn của Hồng Phủ Ngọc Tường, ta cũng đã nhận thấy dịng sơng với vẻ
đẹp đầy biến ảo: con sông lúc là cô gái Di-gan “phóng khống”, lúc lại như “người tài nữ đánh đàn
lúc đêm khuya” hay “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đờng Châu Hóa đầy hoa dại”
B.
“Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó … tình người của tác giả Từ
ấy”
1.
Với Tản Đà
- Trong cái nhìn tinh tế của mình, Tản Đà – một nhà nho tài tử thích thú với màu sắc đặc biệt của
Hương giang: Sông Hương là "sông trắng - lá cây xanh" trẻ trung, lai láng và tình tứ:
“Dịng sơng trắng lá cây xanh
Xuân Giang xuân thụ cho mình nhớ ai”
2.
Với Cao Bá Quát
- Cao Bá Quát – kẻ sỹ tài hoa, ơm mộng lớn khi xưa đã có sự ví von dịng sơng một cách độc đáo và
giàu sức liên tưởng đầy hào khí trước non sơng gấm vóc khiến Hương giang chợt nhiên mang vẻ
đẹp hùng tráng, khí phách:
“Muôn dãy non xanh ngát cánh đồng
Sông dài như kiếm dựng trời xanh.”
3.
Với Bà Huyện Thanh Quan
- Sông Hương bảng lảng với “nỡi quan hồi vọng cở” với bóng chiều trong hồn thơ đa sầu đa cảm
của Bà Huyện Thanh Quan, đem lại cho ta nỗi buồn man mác trong lịng.
4.
Với Tớ Hữu
- Sơng Hương có những lúc mang trong mình “sức mạnh phục sinh tâm hờn” Những lúc ấy, trong
cái nhìn mê đắm của tác giả “Từ ấy”, sơng Hương rất Kiều, đến đợ say đắm lịng người:
“Cơ bờ sơng phẳng con đị mợng
Lả lướt đi về trong gió mai…”
- Tác giả điệp từ “Kiều” đến hai lần “quả thực Kiều, rất Kiều” khiến ta nhận ra vẻ đẹp của sơng
Hương đầy thơ, đầy trữ tình làm ngây ngất, mê đắm lịng người “Sơng Hương hóa rượu ta đến
́ng”
C C ÁI TÔI NGHỆ SĨ TÀI HOA CỦA HPNT
Đặc điểm của thể loại tùy bút là cho phép nhà văn phóng bút viết tùy theo cảm hứng, tùy
cảnh, tùy việc mà suy tưởng, nhận xét, đánh giá, trình bày. Thế nhưng, không phải tác giả nào cùng
22 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
thành cơng được ở thể loại này. Với Hồng Phủ Ngọc Tường, có lẽ lí do để ơng khẳng định được tên
tuổi của mình với tùy bút, có lẽ chính là nhờ cái tơi nghệ sĩ tài hoa của chính ơng.
Để thể hiện được vẻ đẹp của sơng Hương, Hồng Phủ đã quan sát dịng sơng từ rất nhiều
điểm nhìn khác nhau: khi thì theo thủy trình, khi thì bằng cái nhìn của văn hóa hay là lịch sử, có lúc
lại là cái nhìn đầy cảm xúc của người con đã gắn bố và nhiều mến thương với mảnh đất cố đơ. Qua
đó, người đọc thấy được con mắt của một người nghệ sĩ tài hoa, tạo nên những nét vè liên hoàn,
tươi tắn và đầy thân thương về con sông cũng như cả thành phố.
I
Mợt cái tơi mê đắm và tài hoa
Khơng có một cái tơi mê đắm và tài hoa, có lẽ rằng hoàng Phủ đã chẳng thể nào viết nên
được “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” Ấn tượng đầu tiên về cái tơi trữ tình của tác giả có lẽ là ở sự
mê đắm và tài hoa khi viết về con sơng Hương của xứ Huế.
Với cách quan sát dịng sơng từ nhiều điểm nhìn khác nhau: khi thì theo hành trình mà nó di
duyển (điểm nhìn từ ngọn nguồn xi ra biển”, khi thì đứng từ trên cao, từ đồi Tam Thai, Vọng Cảnh,
ngắm nhìn dịng sơng phản quang ánh sáng bầu trời “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; khi lại đặt
mình vào lịng sơng, tự làm một tấm gương soi chiếu những cảnh vật mà nó đi qua: những lăng tẩm
đồ sộ, uy nghiêm ẩn mình trong những rừng thông u tịch:
Bốn bề núi phủ mây phong
Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên
Và cịn cả đồi Thiên Mụ nổi tiếng với chuông chùa trầm mặc dường như lan tỏa ra xa mãi, xa
mãi, đánh động mặt nước và xao xuyến cả những thơn xóm n bình.
Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dịng sơng? nhà văn đã dành nhiều tâm trí, tình cảm, tài năng
của mình để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang.
“Tiếng hát ai mà nghe nhớ thương
Mái nhì man mác nước sông Hương
Hà ơi…tiếng mẹ ru nhè nhẹ
Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường”.
(Tố Hữu)
Thầy Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định rằng:
“Trong nền văn học Việt Nam, nói đến những người viết bút kí, tùy bút thực có tài, người ta
thường nghĩ đến Nguyễn Tuân trước hết, sau đó đến Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu bắc cân lên so
sánh thì Nguyễn Tuân phong phú hơn, đa dạng hơn, sự nghiệp đồ sộ hơn. Cả hai đều say mê cái
đẹp, suốt đời đi tìm và diễn tả cái đẹp. Nhưng nếu với Nguyễn Tuân, cái đẹp phải là những hiện
tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ, gây ấn tượng khác thường, thậm chí dữ dợi – người đẹp thì
phải là đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước, cịn thiên nhiên thì phải là đèo cao
thác dũ, là gió cuồng bão táp; thì với Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải là thơ mộng, dịu dàng, là
23 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
dịng sơng Hương trơi trong sương mờ, là cơ gái H́ tình tứ mà kín đáo, e lệ, và nếu là sử thi thì “sử
thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
Điều ấy đã thực sự khẳng định với người đọc, một cái tôi của Hồng Phủ khi viết kí. Ơng tài
hoa, mê đắm, nhưng cái tôi mê đắm ấy được thể hiện một cách rất khác. Qua bài tùy bút Ai đã đặt
tên cho dịng sơng?, cái tơi mê đắm và tài hoa của ông đã được thể hiện khi ông quan sát dịng
sơng ở nhiều điểm nhìn khác nhau, mang đến cho người đọc một cái nhìn khách quan, mới mẻ và
đày tính khám phá về dịng sơng này.
Trước tiên, cái tơi mê đắm và tài hoa của Hoảng Phủ được thể hiện qua sự cảm nhận con
sơng Hương từ góc nhìn địa lí. Thật vậy, trên mỗi chặng hành trình của dịng sơng từ thượng nguồn
đổ về xi rồi đi ra biển, con sông đều hiện lên với một vẻ đẹp khác nhau. Dù ở thượng nguồn, ở
ngoại vi thành phố hay khi đã chảy giữa lòng thành phố rồi, con sông vẫn mang những nét đẹp
phong phú mà thống nhất, làm say lịng người.
Ở thượng nguồn, sơng Hương khơng chỉ được hình dung như “bản trường ca của rừng già” –
một khúc ca dài hùng tráng và lãng mạn của đại ngàn thiên nhiên hùng vĩ mà còn mang dáng dấp
của một “cơ gái Di-gan phóng khống và man dại”. Đến khi rời vùng núi để về đồng bằng, ném
chiếc chìa khóa vào tận trong rừng sâu, sự hoang dại lại nhường chỗ cho một nét mềm mại khác.
Con sông khi về xuôi giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy
hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”.
Đến khi chảy giữa lịng thành phố u thương, sơng Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya”. Và trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương
cứ như thể là nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa… Dưới góc nhìn địa
lí, một bức tranh màu sắc tươi tắn nhưng thanh thoát nhẹ nhàng đã được hiện lên thật đẹp trên
trang văn của Hoàng Phủ.
Trong niềm say mê của nhà văn, con sông không chỉ hiện lên ở góc nhìn địa lí, mà cịn trở
thành một “thiên sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Đó là con sơng “biết cách tự hiến đời mình
làm một chiến cơng” trong chiến tranh. Nhưng khi trở về với cuộc sống đời thường, nó lại lặng lẽ,
khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”.
Với cái nhìn của một con người coi Huế là tất cả máu thịt của tâm hồn mình như Hồng Phủ
Ngọc Tường, từ lâu sơng Hương đã khơng cịn là một dịng chảy địa lý thuần túy, mà nó giống như
một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Nó
mang trong mình những vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc của văn hóa Việt:
Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Huy Cận)
24 | P a g e
Ai dã dạt tên cho dịng sơng?
Cái tơi tài hoa mà mê đắm của Hoàng Phủ Ngọc Tường được thể hiện qua Ai đã đặt tên cho
dịng sơng, cịn ở nhiều phương diện khác nữa. Tuy nhiên, bởi đã nhắc đến và phân tích nội dung
này ở những nội dung trước, thầy sẽ không nhắc lại những ý này nữa. Chỉ mong rằng, dưới cái nhìn
tổng thể, các bạn có thể cảm nhận được một cách sâu sắc cái tôi tài hoa ấy của tác giả.
Có thể nói, bằng tình u và tài năng của mình, Hồng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát
hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sơng Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sơng
xứ Huế khơng chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những
vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của
tác giả.
Thế nhưng, công minh mà nói, thì cái tơi tài hoa của Hồng Phủ khơng chỉ được thể hiện qua
việc nhìn con sơng ở nhiều góc độ. Điều quan trọng là, sau ngần ấy sự quan sát tỉ mỉ, ngắm nhìn và
u thương, ơng đã thể hiện lên trang văn của mình một “vùng thẩm mĩ” đẹp đẽ. Vùng thẩm mĩ ấy
chính là Huế, là sông Hương – nhưng là cố đô và sông Hương chỉ có trên trang văn của ơng mà thơi.
Người ta có thể cũng nói về Hương giang và Huế, nhưng cái tình mà người ta gửi và đó, chẳng thể
nào giống với Hồng Phủ. Đặc biệt hơn, ơng viết về đối tượng này bằng một trái tim say đắm, một
vốn liếng ngôn từ tinh luyện và một kho tri thức phong phú, để tạo nên những trang văn đẹp, giàu
chất trữ tình mà vẫn lấp lánh chất trí tuệ.
VI.
Cái tơi uyên bác, giàu tri thức về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế
“Ai đã đặt tên cho dịng sơng? là một bài bút kí. Tuy nó nghiêng nhiều hơn về phía tùy bút,
tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khống nhưng cái hồn cốt của thể loại khơng vì thế mà
mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết kí chính là thư kí trung thành nhất của thời đại.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” như thế, thậm chí cịn là một “thư kí” xuất sắc vì ơng có vốn
hiểu biết sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa của sơng Hương. Ơng tỏ ra am hiểu tường tận những gì
mình viết. Với sông Hương, nhà văn không chỉ nắm bắt từng chỗ “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn
xoáy”, những chỗ “dịu dàng”, “say đắm”…; không chỉ thông thuộc từng “khúc quanh”, chỗ “chuyển
dịng” của con sơng trong từng khơng gian địa lý mà còn tường tận cả chiều dài lịch sử của sơng
Hương từ thuở nó cịn là một dịng sơng biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng…
Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện của nhà văn về đặc điểm văn hóa của
sơng Hương. Dấu tích văn hóa in đậm ở cả trên và hai bên bờ sơng. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết
lí, như cổ thi của con sơng khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn;
là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dịng sơng này. Đó cịn là dịng sơng
thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ, nhất là các nhà thơ, như Cao Bá Qt
đã từng nhìn sơng Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”; như Hàn Mặc
Tử thấy dịng “sơng trăng” lung linh, thơ mộng: “Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó. Có chở trăng về
kịp tối nay”; như Thu Bồn nhìn dịng nước lững lờ của sơng Hương mà bâng khng: “Con sông
dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”…
25 | P a g e