MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC–LÊNIN VỀ
TIỀN TỆ...............................................................................................................3
1.1. Lịch sử ra đời của tiền tệ.......................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm tiền tệ................................................................................. 3
1.1.2. Sự phát triển các hình thái giá trị......................................................3
1.2. Bản chất và chức năng của tiền tệ........................................................... 5
1.3. Quy luật lưu thông tiền tệ.........................................................................8
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................9
2.1. Khái niệm lạm phát...................................................................................9
2.2. Phân loại lạm phát.................................................................................... 9
2.3 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát..............................................................10
2.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế................................................ 12
2.4.1 Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế.............................12
2.4.2 Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế.............................14
2.5. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây........................15
2.6. Một số giải pháp kiềm chế lạm phát......................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang tiếp tục công cuộc đổi mới kết hợp với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Chúng ta đang tiến gần hơn với thị trường quốc tế, đưa
kinh tế đất nước phát triển theo hướng hội nhập, mở cửa. Khi đất nước ngày một
hội nhập với thị trường thế giới thì vấn đề tiền tệ, phương thức lưu thơng và lạm
phát xảy ra là một trong những vấn đề nhạy cảm đầu tiên được bàn tới, nó ảnh
hưởng trực tiếp đến nền kinh tế.
Nghĩa là tiền tệ và hàng hóa khơng thể tách rời nhau. Nó tồn tại và biến
động theo một quy luật khách quan của tình hình giá cả của đất nước hay giá cả
của kinh tế thế giới. Nói cách khác, quy luật lưu thơng tiền tệ phụ thuộc vào sự
phát triển hay những biến động của nền kinh tế thị trường. Đi đơi với đó là việc
lạm phát xảy ra gắn liền những những giai đoạn phát triển kinh tế của từng đất
nước, phản ánh sự suy thoái hay phát triển mạnh mẽ, sự ổn định kinh tế của từng
quốc gia.
Do việc hiểu rõ quy luật lưu thông tiền tệ, lạm phát là một trong những yếu
tố quan trọng để giúp nền kinh tế có các giải pháp tốt trong việc điều tiết chính
sách tiền tệ, ổn định kinh tế. Vấn đề này ngày càng được Chính phủ quan tâm, từ
đó có những chiến lược lâu dài đẩy mạnh phát triển kinh tế, đẩy lùi lạm phát tới
mức thấp nhất. Đó là lý do mà nhóm em đã chọn đề tài “Lý luận của kinh tế
chính trị Mác-Lênin về tiền tệ và vấn đề lạm phát ở Việt Nam hiện nay” để có
thể nghiên cứu và hiểu rõ hơn những nội dung trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và trình bày đầy đủ những nội dung chính theo những lý luận của
kinh tế chính trị Mác-Lênin về tiền tệ, lạm phát.
Giúp ta nâng cao kĩ năng phân tích, kĩ năng vận dụng lý luận. Nhằm bổ
sung nhiều hơn kiến thức lý luận hiện đại của việc lưu thơng tiền tệ và tình hình
lạm phát ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiểu luận dựa trên cơ sở lí thuyết của chủ nghĩa Mác–Lênin, kết
hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, logic và lịch sử, điều tra xã hội học. Trên cơ sở
lí thuyết về quy luật lưu thông tiền tệ giúp ta hiểu biết thêm về nguồn gốc, bản
chất, chức năng và thực trạng lạm phát của tiền tệ. Từ đó có những giải pháp
thiết thực nhất để giải quyết tình hình lạm phát của đất nước.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC–LÊNIN VỀ
TIỀN TỆ
1.1. Lịch sử ra đời của tiền tệ
1.1.1. Khái niệm tiền tệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin thì tiền tệ là hàng hoá đặc biệt,
dùng làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá, là sự thể hiện chung của
giá trị và thể hiện lao động xã hội, đồng thời tiền tệ biểu hiện quan hệ sản xuất
giữa những người sản xuất hàng hoá, do quá trình phát triển lâu dài của trao đổi
hàng hố tạo ra.
Tiền với cách hiểu chung nhất là bất cứ cái gì được chấp nhận trong thanh
tốn để lấy hàng hố hoặc trong việc hoàn trả các khoản nợ. Hiện nay có hai loại
tiền tệ chính, đó là tiền tệ có giá trị thực và tiền tệ quy ước. Tiền quy ước gồm
có: tín tệ, tiền pháp định và tiền của hệ thống ngân hàng. Trong tất cả các loại
tiền đó thì tiền mặt pháp định là một trong các loại tiền mạnh, đó là loại tiền giấy
do ngân hàng trung ương phát hành. Hiện nay, tiền có giá trị thực chủ yếu là tiền
vàng, vì tiền vàng có giá trị thực nên nó có nhiều ưu điểm hơn so với tiền giấy
như mức ổn định của đồng tiền, giá trị trao đổi, phạm vi trao đổi. Bây giờ, tiền
vàng ít được sử dụng hơn. Vàng hiện nay được sử dụng chủ yếu nhằm mục đích
thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương hoặc sử dụng như những
hàng hố trang sức, nó ít sử dụng làm vật trao đổi.
1.1.2. Sự phát triển các hình thái giá trị
Hàng hóa là sự thống nhất của hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Về
mặt giá trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hóa, ta có thể nhận biết trực
tiếp được bằng các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái xã hội của
hàng hóa, nó khơng có một ngun tử vật chất nào nên dù cho người ta có lật đi
lật lại mãi một hàng hóa thì cũng khơng thể sờ thấy, nhìn thấy giá trị của nó. Giá
trị chỉ cố một tính hiện thực thuần túy xã hội, và nó chỉ biểu hiện ra cho người ta
thấy được trong hành vi trao đổi, nghĩa là trong mối quan hệ giữa các hàng hóa
với nhau. Chính vì vậy, thơng qua sự nghiên cứu các hình thái biểu hiện của giá
trị,
chúng ta sẽ tìm ra nguồn gốc phát sinh của tiền tệ, hình thái giá trị nổi bật và tiêu
biểu nhất.
Sự phát triển của các hình thái giá trị trong nền kinh tế hàng hóa được biểu
hiện thơng qua bốn hình thái. Hình thái đầu tiên là hình thái giá trị đơn giản hay
ngẫu nhiên, đây là hình thái phơi thai của giá trị, nó xuất hiện trong giai đoạn
đầu của trao đổi hàng hóa, khi trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, người ta trao
đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Ví dụ như 1m vải = 10kg thóc, ở đây, ta thấy
giá trị của vải được biểu hiện ở thóc, cịn thóc là cái được dùng làm phương tiện
để biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành
hiện thân giá trị của vải. Trong ví dụ trên, giá trị của 1m vải, bản thân nó nếu
đứng một mình thì khơng thể phản ánh được hay biểu hiện được giá trị của bản
thân nó là bao nhiêu. Muốn biết được giá trị của 1m vải đó thì cần đem so sánh
với giá trị của 10kg thóc, do đó hình thái giá trị của 1m vải ở đây là hình thái
tương đối. Cịn 10kg thóc khơng biểu hiện giá trị của bản thân nó được, trong
mối quan hệ với vải, nó chỉ biểu hiện giá trị của vải nên nó là hình thái ngang
giá của giá trị của vải. Nếu thóc muốn biểu hiện giá trị của mình thì ohair đảo
ngược vai trị lại: 10kg thóc = 1m vải. Hình thái giá trị tương đối và hình thái giá
trị vật ngang giá là hai mặt liên quan nhau, không thể tách rời nhau, đồng thời là
hai cực đối lập của một phương trình giá trị. Trong hình thái giá trị đơn giản hay
ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định. Hình thái vật ngang giá có ba đặc
điểm: giá trị sử dụng của nó trở thành hình thức biểu hiện giá trị, lao đơng cụ thể
trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu tượng, lao động tư nhân trở thành
hình thức biểu hiện lao động xã hội.
Hình thái thứ hai là hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng. Khi lực lượng sản
xuất phát triển hơn, sau phân công lao động xã hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách
khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên thường xuyên hơn, một hàng hóa này có thể
quan hệ với nhiều hàng hóa khác. Tương ứng với giai đoạn này là hình thái giá
trị đầy đủ hay mở rộng. Ở hình thái thứ hai này có sự mở rộng hình thái giá trị
giản đơn
hay ngẫu nhiên, hình thái vật ngang giá được mở rộng ra ở nhiều hàng hóa khác
nhau để trao đổi, tuy nhiên vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao
động xã hội, hàng hóa được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn.
Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người có vải muốn đổi thóc, nhưng
người có thóc lại khơng cần vải mà cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp
khơng cịn thích hợp và gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta
phải đi con đường vịng, mang hàng hóa của mình đổi lấy thứ hàng hóa mà nó
được nhiều người ưa chuộng hơn, rồi đem hàng hóa đó đổi lấy thứ hàng hóa mà
mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở thứ hàng hóa
đuuợc nhiều người ưa chuộng thì hình thái chung của giá trị xuất hiện.
Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa,
sản xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở rộng, tình trạng có nhiều vật
ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương gặp khó khăn, do đó dẫn
đến địi hỏi khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật
ngang giá chung được cố định lại ở một vật duy nhất và phổ biến thì xuất hiện
hình thái tiền tệ của giá trị. Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trị là tiền tệ như:
vàng, bạc và cuối cùng được cố định là vàng. Do những ưu điểm như thuần nhất
về chất, dể chia nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa
đựng một lượng giá trị lớn nên vàng đã được chọn làm vật trao đổi có giá trị.
Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao
đổi hàng hóa, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hóa chai làm hai cực: một bên là
các hàng hóa thơng thường, một bên là hàng hóa (vàng) đóng vai trị tiền tệ. Đến
đây giá trị của hàng hóa đã có một phương tiện biểu hiện thống nhất, tỷ lệ trao
đổi được cố định.
1.2. Bản chất và chức năng của tiền tệ
Tiền tệ là một hình thái giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của q trình phát
triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Các nhà kinh tế trước C.Mác giải thích tiền
tệ từ hình thái phát triển cao nhất của nó, vì vậy đã khơng làm rõ được bản chất
của tiền tệ. Ngược lại, C.Mác nghiên cứu tiền tệ từ lịch sử phát triển của sản
xuất và
trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển của các hình thái giá trị hàng hóa, do đó đã
tìm thấy bản chất của tiền tệ. Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật
ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội
và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Ngồi ra, bản chất
của tiền tệ cịn được biểu hiện thơng qua các chức năng của nó.
Theo C.Mác, tiền tệ có năm chức năng. Tiền tệ được dùng làm thước đo giá
trị, nhưng muốn đo lường được giá trị của hàng hóa thì bản thân tiền tệ phải có
giá trị, vì vậy, tiền tệ làm chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng. Để đo
lường giá trị hàng hóa khơng cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh với
lượng vàng nào đó trong ý tưởng vì giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hóa
trong thực tế đã có một tỷ lệ nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động
xã hội cần thiết hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Giá trị hàng hóa được biểu
hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa, hay giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền
của giá trị hàng hóa. Để tiền làm được chức năng thước đo giá trị thì bản thân
tiền tệ cũng phải được quy định một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo
lường giá cả của hàng hóa. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại
dùng làm tiền tệ, ở mỗi nước thì đơn vị tiền tệ sẽ có tên gọi khác nhau.
Với chức năng làm phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trong q trình
trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng lưu thơng hàng hóa địi hỏi phải có tiền
mặt, trao đổi hàng hóa lấy tiền làm mơi giới gọi là lưu thơng hàng hóa. Trong
lưu thơng, lúc đầu tiền tệ xuất hiện dưới hình thức vàng thỏi, bạc nén. Dần dần
nó được thay thế bằng tiền đúc, trong quá trình lưu thơng, tiền đúc bị hao mịn
dần và mất một phần giá trị của nó nhưng vẫn được xã hội chấp nhận như tiền
đúc đủ giá trị. Khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm bớt hàm lượng kim loại của
đơn vị tiền tệ làm cho giá trị thực của tiền đúc ngày càng thấp hơn so với gái trị
danh nghĩa của nó. Thực tiễn này dẫn đến sự ra đời của tiền giấy, nhà nước có
thể in tiền giấy để đưa vào lưu thơng nhưng vì bản thân tiền giấy khơng có giá
trị mà chỉ là ký hiệu của tiền vàng nên nhà nước không thể tùy ý in bao nhiêu
tiền giấy cũng được, mà phải tuân theo quy luật lưu thơng tiền giấy. Quy luật
đó là “việc phát hành tiền giấy
phải được giới hạn trong số lượng vàng (hay bạc) do tiền giấy đó tượng trưng,
lẽ ra phải lưu thơng thực sự”1. Khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành
và lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần cho lưu thơng thì giá trị của tiền tệ sẽ
giảm xuống, tình trạng lạm phát sẽ xuất hiện.
Làm phương tiện cất giữ, tiền sẽ được rút khỏi lưu thông và đi vào cất trữ.
Tiền làm được chức năng này là do tiền là đại biểu cho của cải xã hội dưới hình
thái giá trị, nên cất trữ tiền là một hình thức cất trữ của cải. Để làm chức năng
phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền, vàng, bạc. Chức năng cất
trữ làm cho tiền trong lưu thơng thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần
thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng, lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ
được đưa vào lưu thông, ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hóa lại ít thì
một phần tiền vàng rút khỏi lưu thơng đi vào cất trữ.
Làm phương tiện thanh tốn, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trà tiền
mua hàng,.. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào đó tất
yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong hình thức giao dịch này, trước tiên tiền
làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hóa, nhưng vì là mua bán
chịu nên đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thông để làm phương tiện thanh
toán. Sự phát triển của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ
bằng cách thanh tốn khấu trừ lẫn nhau hơng dùng tiền mặt. Mặt khác, trong
việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi
hệ thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rãi, đến kỳ thanh tốn, nếu một khâu
nào đó khơng thanh tốn được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ
thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng
tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có đủ giá trị, phải trở thành hình
thái ban đầu của nó là vàng. Trong chức năng này, vàng được dùng làm phương
tiện
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.23,
tr.193
1
mua bán hàng hóa, phương tiện thanh tốn quốc tế và biểu hiện của cải nói
chung của xã hội.
1.3. Quy luật lưu thông tiền tệ
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật qui định số lượng tiền cần cho lưu
thơng hàng hóa ở mỗi thời kỳ nhất định. C.Mác cho rằng số lượng tiền tệ cần
cho lưu thông do ba nhân tố quy định: số lượng hàng hóa lưu thơng trên thị
trường, giá cả trung bình của hàng hóa và tốc độ lưu thông của những đơn vị
tiền tệ cùng loại. Sự tác động của ba nhân tố này đối với khối lượng tiền tệ cần
cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ biến là tổng số giá cả hàng hóa chia cho
số vịng lưu thơng của các đồng tiền cùng loại trong một thời gian nhất định.
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái niệm lạm phát
Lạm phát là hiện tượng kinh tế phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, đó là
hiện tượng khủng hoảng tiền tệ, nhưng nó là sự phản ánh và thể hiện trạng thái
chung của toàn bộ nền kinh tế. Có nhiều quan niệm khác nhau về lạm phát,
nhưng đều nhất trí rằng: lạm phát là tình trạng tăng mức giá chung một cách liên
tục của hàng hóa và dịch vụ trong một thời gian nhất định và sự mất giá trị của
một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua
được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự
suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ.
2.2. Phân loại lạm phát
Theo phân loại, lạm phát sẽ có ba mức độ: Lạm phát tự nhiên từ 0 đến dưới
10% hay còn gọi là lạm phát vừa phải được đặc trưng bằng giá cả tăng chậm và
có thể dự đoán được. Tỷ lệ lạm phát hàng năm là một chữ số. Trong thời kỳ này,
nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của lao động ổn định. Sự ổn định
đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xảy
ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hố với số lượng lớn. Có thể nói lạm
phát vừa phải tạo nên tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu
nhập. Khi giá cả tương đối ổn định, mọi người tin tưởng vào đồng tiền, họ sẵn
sàng giữ tiền vì nó hầu như giữ ngun giá trị trong vòng một tháng hay một
năm. Mọi người sẵn sàng làm những hợp đồng dài hạn theo giá trị tính bằng tiền
vì họ tin rằng giá trị và chi phí của họ mua và bán sẽ không chệch đi quá xa.
Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro
nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh.
Lạm phát phi mã từ 10 đến dưới 1000% hay lạm phát phi mã, tỷ lệ tăng giá
trên 10% đến dưới 100% còn được gọi là lạm phát 2 hoặc 3 con số. Đồng tiền
mất giá nhiều, lãi suất thực tế thường âm, không ai muốn giữ tiền mặt, mọi
người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cần thiết cho việc thanh toán hằng
ngày. Mọi người tích trữ hàng hóa, vàng hay ngoại tệ, bất động sản và không
bao giờ cho vay tiền
ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những
biến dạng kinh tế nghiêm trọng.
Siêu lạm phát xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa
lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng
nhanh, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ
mất giá nhanh chóng thơng tin khơng cịn chính xác, các yếu tố thị trường biến
dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm
phát rất ít khi xảy ra. Đồng tiền gần như mất giá hoàn toàn. Các giao dịch diễn ra
trên cơ sở hàng đổi hàng, tiền khơng cịn làm được chức năng trao đổi. Nền tài
chính lâm vào khủng hoảng.
2.3 Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Lạm phát do cầu kéo: khi nhu cầu thị trường về một mặt hàng nào đó tăng
lên sẽ khiến giá cả của mặt hàng đó tăng theo. Giá cả của các mặt hàng khác
cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên
thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường
tăng) được gọi là “ lạm phát do cầu kéo”. Ở Việt Nam, giá xăng tăng lên kéo
theo giá cước taxi tăng lên, giá thịt lợn tăng, giá nơng sản tăng, là một ví dụ
điển hình.
Lạm phát do chi phí đẩy: chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền
lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài
yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp cũng tăng lên, vì
thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận. Mức giá
chung của toàn thể nền kinh tế tăng lên được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
Ví dụ: Khi cơng đồn thành cơng trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh
nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện.
Lạm phát do cơ cấu: với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng
dần tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm
ngành kinh doanh khơng hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải
tăng tiền cơng cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh
doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh
nghiệp
này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát
sinh lạm phát. Tiêu biểu như việc một doanh nghiệp A mới mở rộng quy mô
kinh doanh, tuy đã rất nỗ lực nhưng việc kinh doanh có vẻ như đã khơng đi đúng
chiến lược nên khơng hiệu quả. Lúc này, nhân viên thấy tình hình doanh nghiệp
khơng khả thi và phần lớn họ muốn bỏ việc hoặc đình cơng địi tăng lương. Đi
đến nước này doanh nghiệp khơng cịn sự lựa chọn khác khi phải duy trì lượng
nhân cơng để kịp tiến độ, buộc phải tăng lương cho người lao động dẫn đến việc
đẩy giá lên bằng chi phí cận biên tăng lên cho một lao động.
Lạm phát do nhu cầu thay đổi: khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một
mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị
trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới
(chỉ có thể tăng mà khơng thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà
lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng
thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn
như thời tiết không thuận lợi làm người nông dân mất mùa, nên lượn cung gạo
ít. Trong khi đó gạo lại là thức ăn chủ yếu của người dân Việt Nam, khơng thể
thay thế hồn tồn bằng sản phẩm khác nên các nhà buôn bán gạo đẩy mạnh giá
gạo lên gấp đơi, gấp ba. Theo đó với cùng một số tiền một gia đình trước kia có
thể mua gạo ăn trong một tháng thì do tác động của lạm phát nên chỉ đủ ăn cho
nửa tháng.
Lạm phát do xuất khẩu: khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn
tổng cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm
được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước
giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi
tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát. Như khi Việt Nam
xuất khẩu vải sang thị trường Trung Quốc quá nhiều làm lượng cung cho thị
trường trong nước cạn kiệt, việc chênh lệch lượng cung-cầu gây tác động mạnh
mẽ đến giá cả các mặt hàng này làm xuất hiện lạm phát.
Lạm phát do nhập khẩu: khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập
khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước
sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm
phát. Ví dụ như để bảo hộ cho hàng hóa trong nước, chính phủ gia tăng thuế
nhập khẩu đối với một số mặt hàng, chẳng hạn tăng từ 40% lên 50%, chứng tỏ
người tiêu dùng sẽ bị tăng giá hàng hóa sản phẩm đó lên 10%. Do đó, cùng một
số tiền mà trước đây người đó mua được 10 mặt hàng, nay lại chỉ mua được 9
mặt hàng.
Lạm phát do tiền tệ: khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do
ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi
mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu
cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên
nhân gây ra lạm phát. Như khi ngân hàng trung ương muốn giữ đồng tiền trong
nước không bị mất giá so với ngoại tệ sẽ mua ngoại tệ vào. Hay việc ngân hàng
trung ương cung quá nhiều tiền ra thị trường cũng chính là nguyên nhân.
2.4. Tác động của lạm phát đến nền kinh tế
2.4.1 Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế
Lạm phát của các quốc gia trên thế giới khi xảy ra cao và triền miên có ảnh
hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc
gia. Trong đó, tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất. Ta có được
cơng thức tính lãi suất: lãi suất thực= lãi suất danh nghĩa-tỷ lệ lạm phát. Do đó
khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thật ổn định và thực dương thì
lãi suất danh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh
nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và
thất nghiệp gia tăng.
Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan
hệ với nhau qua tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng lên mà thu nhập danh nghĩa
không thay đổi thì làm cho thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thật của những tài sản khơng có lãi mà nó
cịn làm hao mịn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập
thực từ các
khoản lãi, các khoản lợi tức. Đó là do chính sách thuế của nhà nước được tính
trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi vay
tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao mặc dù thuế suất vẫn
khơng tăng. Từ đó, thu nhập rịng (thực) của của người cho vay bằng thu nhập
danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát bị giảm xuống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền
kinh tế xã hội. Như suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống của người
lao động trở nên khó khăn hơn sẽ làm giảm lịng tin của dân chúng đối với
Chính phủ.
Khi lạm phát tăng lên, giá trị của đồng tiền giảm xuống, người đi vay sẽ có
lợi trong việc vay vốn để đầu cơ kiếm lợi. Do vậy càng tăng thêm nhu cầu tiền
vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao. Lạm phát tăng cao cịn khiến những
người thừa tiền và giàu có, dùng tiền của mình vơ vét và thu gom hàng hố, tài
sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng
quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng lên cơn sốt
cao hơn. Cuối cùng, những người dân nghèo vốn đã nghèo càng trở nên khốn
khó hơn. Họ thậm chí khơng mua nổi những hàng hố tiêu dùng thiết yếu, trong
khi đó, những kẻ đầu cơ đã vơ vét sạch hàng hố và trở nên càng giàu có hơn.
Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể gây những rối loạn tong nền kinh tế và tạo
ra khoảng cách lớn về thu nhập, về mức sống giữa người giàu và người nghèo.
Khi lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu
hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân
hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của
người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi
suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện có lượng tiền mặt nhàn rỗi
trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá
đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng
khơng cịn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức
năng của tiền tệ khơng cịn ngun vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích
trữ của cải hình thức tiền mặt.
Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào
người dân, nhưng những khoản nợ nước ngồi sẽ trở nên trần trọng hơn. Chính
phủ được lợi trong nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngồi. Lý do là vì lạm
phát đã làm tỷ giá giá tăng và đồng tiền trong nước trở nên mất giá nhanh hơn so
với đồng tiền nước ngồi tính trên cá khoản nợ. Ngoài ra, lạm phát gây ra sự
biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá. Khi lạm phát xảy ra những
thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị
rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém.
Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước khơng cịn đủ
sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm… các
ngành, các lĩnh vực dự định được Chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại
hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải
thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ khơng có điều kiện thực hiện được.
Trong lĩnh vực sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất
giá của đồng tiền làm vơ hiệu hố hoạt động hạch tốn kinh doanh. Hiệu quả
kinh doanh, sản xuất ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo
động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm
phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
2.4.2 Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế
Lạm phát không phải bao giờ cũng gây nên những tác hại cho nền kinh tế.
Khi tốc độ lạm phát vừa phải đó là từ 2-5% ở các nước phát triển và dưới 10% ở
các nước đang phát triển sẽ mang lại một số lợi ích cho nền kinh tế như kích
thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư giảm bớt thất nghiệp trong xã hội, cho phép
chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các cơng cụ kích thích đầu tư vào những
lĩnh vực kém ưu tiên thơng qua mở rộng tín dụng, giúp phân phối lại thu nhập và
các nguồn lực trong xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời
gian nhất định có chọn lọc. Tuy nhiên, đây là cơng việc khó và đầy mạo hiểm
nếu khơng chủ động thì sẽ gây nên hậu quả xấu.
Lạm phát được các nước đi trước dùng như một công cụ thúc đẩy kinh tế,
theo giáo sư Paul A. Samuelson (nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel kinh
tế năm 1970) đã nói rằng: "Tơi sợ lạm phát. Và tơi sợ cái sợ lạm phát", từ đó để
cho ta thấy rằng lạm phát gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế như thế nào,
có thời gian người ta đã coi lạm phát là kẻ thù của nền kinh tế, nhưng cũng phải
thừa nhận một thực tế rằng, lạm phát trong xu thế tồn cầu hóa đã được các
nước dùng như một công cụ thúc đẩy kinh tế phát triển. Cần phải đổi mới tư duy
về lạm phát, sống chung với lạm phát.
Lạm phát ở mức vừa phải và kiểm soát được là một dấu hiệu cho thấy nền
kinh tế đang phát triển. Trong một số trường hợp, ít lạm phát (hoặc thậm chí
giảm phát) có thể xấu giống như lạm phát cao. Thiếu lạm phát có thể là dấu hiệu
cho thấy nền kinh tế đang suy yếu.
2.5. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam những năm gần đây
“Giai đoạn 2012-2017, theo các số liệu của Tổng cục Thống kê, tính trung
bình, trong năm 2017, CPI tăng 3,53% so với năm 2016. Tuy nhiên, nếu tính
lạm phát của tháng 12/2017 so với cùng kỳ năm 2016, thì con số này chỉ là
2,6%. Ở một góc nhìn khác, lạm phát cơ bản của tháng 12/2017 so với cùng kỳ
năm trước còn ở mức thấp hơn, chỉ 1,29%. Nguyên nhân khiến lạm phát tổng
thể cao hơn lạm phát cơ bản trong năm 2017 chủ yếu là do việc tăng giá dịch vụ
y tế gây nên. Với việc giá dịch vụ y tế tăng tới 37,3% trong năm 2017 và nhóm
hàng hóa này có tỷ trọng 3,87% trong rổ hàng hóa CPI, đóng góp của giá dịch
vụ y tế trong con số 2,6% nêu trên, nếu tính gần đúng khoảng 1,44%. Nói cách
khác, nếu khơng tính giá dịch vụ y tế, lạm phát của tháng 12/2017 so với cùng
kỳ năm trước chỉ khoảng 1,16% - tương đương với mức lạm phát cơ bản và là
mức rất thấp trong lịch sử.”2
Trên thực tế, tình trạng lạm phát thấp đã xuất hiện từ vài năm trở lại đây.
Nếu lấy lạm phát GDP, lạm phát cơ bản và lạm phát giá sản xuất làm thước đo,
2
Tổng cục Thống kê, “Thơng cáo báo chí tình hình kinh tế-xã hội năm 2017”
tình trạng lạm phát thấp (dưới 2%) đã xuất hiện từ năm 2015, trong đó lạm phát
giá sản xuất có 2 năm đạt giá trị âm liên tiếp (2015 và 2016). Tình trạng lạm
phát thấp trong giai đoạn này được lý giải là do tốc độ tăng chi tiêu ngân sách và
tốc độ tăng cung tiền trong giai đoạn 2012-2017 đã giảm đi nhiều so với giai
đoạn 2007-2011. “Cụ thể, tốc độ tăng chi ngân sách nhà nước (NSNN) đã giảm
từ mức trung bình 21,4% trong giai đoạn 2007-2011 xuống cịn trung bình
13,2% trong giai đoạn 2012-2016, cịn tốc độ tăng cung tiền M2 cũng giảm
tương ứng từ mức 32,5% giai đoạn 2006-2010 xuống còn 16,9% giai đoạn 20112016. Sự thắt chặt về tài khóa và tiền tệ so với giai đoạn trước đã khiến tỷ lệ đầu
tư/GDP của Việt Nam giảm mạnh trong giai đoạn 2012-2016. Trong giai đoạn
2007-2011, tỷ trọng đầu tư tồn xã hội/GDP trung bình là 35,7% (trong đó năm
2007 đạt gần 40% GDP), sau đó đã giảm mạnh và trong giai đoạn 2012-2016 chỉ
còn ở mức khoảng 27%. Với những xu hướng về tài khóa và tiền tệ nêu trên có
thể nhận định rằng, lạm phát trong thời gian tới sẽ tiếp tục được duy trì ở mức
thấp như trong những năm gần đây và chủ yếu phụ thuộc vào các cú sốc về cung
như giá dầu, giá lương thực, giá dịch vụ y tế, giáo dục…Nhì chung trong giai
đoạn từ tháng 1/2016 đến tháng 12/2017, lạm phát cơ bản có xu hướng giảm.
Nếu xu hướng này tiếp tục được duy trì thì lạm phát cơ bản sẽ tiệm cận ở mức
1% vào cuối năm 2018 và xuống dưới 1% vào năm 2019-2020. Bởi vì, lạm phát
tổng thể có xu hướng xoay quanh lạm phát cơ bản trong dài hạn, nên 2 thước đo
lạm phát này nhiều khả năng sẽ có sự hội tụ ở mức khoảng 0,5-1% trong những
năm tới.”3
“Năm 2019, CPI bình quân vừa không tăng quá cao như thời lạm phát “phi
mã” như thời kỳ 1986-1995 (tăng 94,33%/năm), như bình quân năm trong thời
kỳ 2004-2013, cũng khơng tăng thấp như bình qn năm trong thời kỳ 20142016, nhưng tăng thấp hơn năm 2017, 2918, và đã thấp hơn mục tiêu theo Nghị
quyết
3
Nguyễn Đức Độ, “ Dự báo lạm phát dựa trên sự chênh lệch giữa các chỉ số giá”,
Tạp chí Tài chính, số 4/2016 (kỳ 1), trang 40-42.
của Quốc hội.”4 Còn trong năm 2020, mục tiêu CPI bình quân tăng dưới 4%, với
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 gây ra cả cú sốc cung và cầu cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, từ góc độ CPI hạ nhiệt thì có thể thấy, tác động từ cú sốc cầu đang có
phần lấn át cú sốc cung. Vì thế, nhiều khả năng, lạm phát năm nay sẽ dưới
ngưỡng 4% đã đặt ra và đây là tiền đề quan trọng để giảm lãi suất nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. “Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, chỉ số lạm phát chung
đạt 5,6% trong quý I/2020, cao hơn mức 4,9% của cùng kỳ 2019. Lạm phát lõi
cũng ghi nhận ở mức 3,1%, mức cao nhất trong 5 năm trở lại đây. mặc dù CPI
bình qn cịn ở mức khá cao nhưng so với mức đỉnh (tăng 6,43%) vào thời
điểm cuối tháng 1/2020 thì những mức tăng trên đã hạ nhiệt đáng kể. Theo đó,
sau khi tăng mạnh trong các tháng cuối năm 2019, do ảnh hưởng của dịch
Covid-19, giá xăng dầu thế giới giảm mạnh và nguồn cung thực phẩm dồi dào
đã khiến mức tăng của chỉ số CPI dần có xu hướng hạ nhiệt trong 2 tháng cuối
quý I. Đặc biệt, mức giảm của CPI trong tháng 3 là tương đối mạnh (-0,72%).” 5
Việc giá dầu giảm và sự biến động của giá thịt lợn cũng đã hỗ trợ kiểm soát
lạm phát, “theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Đức Hùng Linh cho rằng, nếu so với
thời điểm 2009 hay 2012, Việt Nam đang có nhiều lợi thế hơn để ổn định vĩ mơ,
thậm chí cịn đủ nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng, và một trong những thuận
lợi được chuyên gia này nhấn mạnh là lạm phát thấp, ông nhận định “ thực phẩm
và nhiên liệu là 2 nhóm hàng hóa có tác động lớn đến CPI nên CPI năm 2020
chắc chắn sẽ tăng thấp. Lạm phát thấp là tiền đề quan trọng để giảm lãi suất
nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ trong 2 nhiệm kỳ
qua có thể nói là đã hiệu quả hơn nhiều so với thời gian trước đó. Năm 2008 và
2011 lạm phát
4
Minh Nhung, “Kiểm soát lạm phát – kết quả kép của năm 2019”, Tạp chí Tài
chính.
5
Chu Thái, “Lạm phát dưới 4% là yếu tố hỗ trợ tăng trưởng kinh tế”,
thoibaotaichinhvietnam.vn.
/>
phi mã có ngun nhân chính từ sai lầm của chính sách tiền tệ vì kích tín dụng
tăng q mạnh và thiếu định hướng”. Từ đầu năm 2020 đến nay, giá dầu trên thế
giới đã giảm gần 60% mang lại một số thuận lợi cho Việt Nam, giúp giảm chi
phí sản xuất cho doanh nghiệp và người tiêu dùng, qua đó kích thích đầu tư và
tiêu dùng, đồng thời tiết kiệm được lượng ngoại tệ nhập khẩu xăng dầu, hỗ trợ
kiểm sốt lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ.”6
2.6. Một số giải pháp kiềm chế lạm phát
Trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng cần xử lí các vấn đề như nhu cầu về vốn để
phát triển kinh tế cao, khả năng đáp ứng vốn và kiềm chế lạm phát ở mức hợp lí
với ổn định đồng tiền. Thực hiện chính sách tiền thắt chặt, tăng dự trữ bắt buộc,
giảm số nhân tiền tệ, tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn, giảm
cung tiền, kiểm soát dư nợ tín dụng.
Chính phủ nên thường xuyên kiểm tra, kiểm sốt chi tiêu cơng một cách
hiệu quả, cải cách thủ tục hành chính, chống tham nhũng thường xuyên và tích
cực, chính sách tiền tệ theo hướng hỗ trợ vốn cho tăng trưởng trên cơ sở kiểm
sốt tín dụng lành mạnh, điều hành tỷ giá linh hoạt theo hướng mở rộng biên độ
và theo tín hiệu thị trường, tiến tới hạn chế tối đa tình trạng đơ la hóa tại nước ta,
sử dụng có hiệu quả các cơng cụ chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường trong
nước và quốc tế (dự trữ bắt buộc, công cụ tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường
mở,..).
Cần làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước, xác
định kiềm chế lạm phát là mục tiêu hàng đầu, đem lại sự phát triển bền vững và
lâu dài cho nền kinh tế, xã hội của nước ta. Chính phủ là người cần tiết kiệm đầu
tiên, ngân sách nhà nước sẽ dành cho những khoản chi nhất định cho việc kiềm
chế lạm phát. Vì vậy cần phải chọn giải pháp ít tốn kém nhất, đừng lo ngại chính
6
Triển vọng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2018-2020, tapchitaichinh.vn
/>
sách điều hành sẽ ảnh hưởng đến bộ phận này, bộ phận khác, bám mục tiêu đã
thống nhất là kiểm soát lạm phát là ưu tiên hàng đầu.
Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục
nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực
phẩm. Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng kinh tế của nước ta còn rất lớn, nhất là
khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước
ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng. Vì vậy,
phát triển sản xuất là giáp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt, vừa tăng nguồn cung cho
thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm chế lạm phát, giảm nhập
siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây phản ứng phụ.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp
luật nhà nước về giá. Kiên quyết khơng để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến
động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và tiêu dùng như: xăng dầu, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh, lương thực,
thực phẩm,… ngăn chặn tình trạng bn lậu qua biên giới, đặc biệt là bn lậu
xăng dầu, khống sản. Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, nhất là
vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập thấp, Chính
phủ cần đưa ra nhiều hơn các chủ trương mở rộng chính sách về an sinh xã hội.
KẾT LUẬN
Tóm lại, hiểu rõ các vấn đề về tiền tệ và chức năng của nó có tầm quan
trọng rất lớn trong việc định hướng việc phát triển nền kinh tế thị trường. Riêng
ở Việt Nam, nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc hiểu rõ và áp dụng các vấn đề về tiền tệ
luôn cần thiết và địi hỏi có sự phù hợp. Tiếp tục hồn thiện mục tiêu chống và
kiềm chế lạm phát là những mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế,
ổn định xã hội, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta trong thời
gian tới. Vì vậy, để cho việc kiểm soát tốt lạm phát nhằm phát triển kinh tế,
Đảng và Nhà nước ta luôn phải thận trọng trong mỗi bước đi của mình. Ta phải
đánh giá lại những thành tựu đã đạt được trong việc áp dụng những chính sách
về tiền tệ, những khó khăn cịn gặp phải để đưa ra những chính sách, giải pháp
khắc phục, tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua, những
kế hoạch thực hiện trong thời gian sắp tới thì cần tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
chủ yếu như: nghiên cứu và đề đề xuất tổ chức thực hiện các chính sách, biện
pháp bình ổn giá cả thị trường, kiểm soát pháp luật về giá, kiềm chế và giảm tỷ
lệ lạm phát ở mức tốt nhất có thể. Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh mặt bằng giá,
quan hệ giá sao cho phù hợp với từng tình hình cụ thể, sản xuất và chi phí sản
xuất, giữ quan hệ công nông hợp lý, cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động
của giá cả thị trường thế giới. Từ đó sẽ giúp nước ta có những bước đi thuận lợi
và hợp lí để đưa nền kinh tế của đất nước luôn ổn định và phát triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin”, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2017.
2. Giáo trình “Kinh tế chính trị Mác–Lênin (dùng cho các khối ngành Kinh tếQuản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng)”, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006.
3. Tiểu luận “Lạm phát ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, Trường đại học Mở
TP.HCM, Khoa Tài chính - Ngân hàng, năm 2010-2011.
4. Nguyễn Đức Độ, “ Dự báo lạm phát dựa trên sự chênh lệch giữa các chỉ số
giá”,
Tạp chí Tài chính, số 4/2016 (kỳ 1), trang 40-42.
5. Th.s Nguyễn Thị Hạnh , “Tác động của lạm phát đến nền kinh tế”.
/>6. Linh Lan, “Có nên dùng lạm phát vừa phải để thúc đẩy phát triển kinh tế ?” ,
Cổng thông tin điện tử ngân hàng nhà nước Việt Nam.
7. Chu Thái, “Lạm phát dưới 4% là yếu tố hỗ trợ tăng trưởng kinh tế”,
thoibaotaichinhvietnam.vn
/>8. Triển vọng lạm phát tại Việt Nam giai đoạn 2018-2020
/>9. Tổng cục Thống kê, “Thơng cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội năm 2017”.
/>