Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

QUAN điểm về LUÂN hồi của bà LA môn và PHẬT GIÁO TIỂU LUẬN môn TRIẾT học tôn GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.91 KB, 22 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN TRIẾT HỌC TƠN GIÁO

Đề tài:
QUAN ĐIỂM VỀ LUÂN HỒI CỦA BÀ LA MÔN VÀ
PHẬT GIÁO

TP. Hồ Chí Minh,Tháng 02, Năm 2022

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM


HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH


MƠN TRIẾT HỌC TÔN GIÁO

Đề tài:
QUAN ĐIỂM VỀ LUÂN HỒI CỦA BÀ LA MƠN VÀ
PHẬT GIÁO

Giảng Viên Phụ Trách:TT.TS.Thích Giác Dun
Sinh viên thực hiện:
Pháp danh:
Mã sinh viên: TX
Lớp: ĐTTX Khóa VI
Chuyên ngành: Triết Học Phật Giáo


TP. Hồ Chí Minh,Tháng 02 năm 2022

MỤC LỤC


A.NỘI DUNG

CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT LÝ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC TÔN GIÁO
1.1.Thuyết vạn vật hữu linh.....................................................................
1.2.Thuyết sùng bái thiên nhiên...............................................................
1.3.Thuyết tôn giáo là sự phóng chiếu những nhu cầu của con người
CHƯƠNG 2:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO
2.1. Bà-la-môn...............................................................
2.2. Phật giáo...............................................................
CHƯƠNG 3:QUAN NIỆM LUÂN HỒI CỦA BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO
3.1. Luân hồi và những hiểu lầm về luân hồi...............................................................
3.1.1. Luân hồi là gì? ...............................................................
3.1.2. Những hiểu lầm về luân hồi...............................................................
3.2. Luân hồi trong Bà la môn và Đạo Phật...............................................................
3.2.1. Luân hồi trong Bà la môn...............................................................
3.2.2. Luân hồi trong đạo Phật...............................................................

C.KẾT LUẬN...............................................................................................................................12
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................15


A.MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong cõi mông lung, vô cùng vô tận của trời đất, con người thật bé nhỏ, như một hòn
sỏi, như một hạt cát; trong cái vĩnh viễn không đầu không cuối của thời gian, con người

xuất hiện và mất đi nhanh như ánh sáng chợt đỏ, chợt tắt của con đom đóm, như ánh sáng
của một làn chớp. Nhưng khổ thay, con người bé nhỏ và chóng tan biên ấy lại mang trong
đầu óc những câu hỏi quá to lớn: "Ta từ đâu đến đây? Ta đến đây để làm gì? Đến đây rồi
ta sẽ chấm dứt cuộc hành trình sau hơi thở cuối cùng ở đây, hay còn tiếp tục đi nữa? Đi
đâu? Đi hay về? Đi theo một con đường thẳng hay đường cong? Đi xuống hay đi lên?".
Quá khứ đã không hay; tương lai cũng sẽ khơng biết, cịn hiện tại thì quá ngắn ngủi phù
du!Và than ôi! ngay trong cái hiện tại ngắn ngủi ấy, cũng đã chứa đựng không biết bao
nhiêu sự bất công, vô lý:Tại sao người ấy đẹp mà ta xấu? người kia giàu mà ta nghèo?
người ấy sướng mà ta khổ? Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu? có người thơng
minh có người ngu muội? có người hiền lương, có kẻ ác độc?Tại sao và tại sao!Bao nhiêu
câu hỏi xoay tít trong đầu, như những cái chong chóng, gầm thét kêu gào, địi hỏi, làm
cho người ta điên đầu, lộn não. Để chấm dứt sự hồnh hành của những câu hỏi ấy, có
người đã tìm cách chấm dứt đời mình với thuộc độc; có người lẫn tránh trong thuốc
phiện, trong rượu nồng dê béo, trong sóng mắt làn mơi...Đề cho khỏe não, có người tự
bảo mọi sự mọi vật đều do ý Trời sắp đặt; có người bảo là do một mãnh lực tiền định, có
người bảo là sự may rủi trớ trêu, khơng có ngun do, luật lệ gì cả.Nhưng những câu giải
đáp gượng gạo trên, không làm thỏa mãn được những tâm hồn thiết tha muốn tìm hiểu sự
thật:Bảo rằng do ý một vị Thần sắp đặt thì ý vị thần ấy thật mâu thuẫn, phi lý, độc tài.
Xưa, đức Phật đã nói như sau đây, khi đề cập đến thần Brahma:"Người đã chứng kiến bao
sự đau khổ ở trước mắt, tại sao không làm cho chúng sanh được an vui? Nếu người ấy có
nhiều thần lực, tại sao khơng dùng thần lực để cứu độ chúng sanh? Tại sao những con
sanh của người ấy lại phải chịu lắm điều khổ sở? Tại sao người ấy không ban phước lành
đến cho con họ? Tại sao những xảo quyệt giả dối, mê lầm vẫn tồn tại mãi mãi? Tại sao
gian xảo càng ngày càng tăng tiến, cịn chân lý và cơng bằng lại phải lu mờ? Ta xem thần
Brahma như một người vô cùng bất công đối với kẻ bị sanh ra trong thế giới đầy dẫy nhơ
bẩn, xấu xa này". (Kinh Bhùcidatta Jataka).Nếu bảo rằng mọi sự vật ở đời đều do một sức
mạnh tiền định, chi phối tất cả, thì thử hỏi sức mạnh ấy là sức mạnh gì? Của ai? Có sáng
suốt hay mù qng? Nếu khơng giải đáp được những câu hỏi phụ thuộc ấy, mà cử quyết
đoán như thế, thì thật là q nơng nổi.Cịn nếu bảo rằng sự hiện hữu của cõi đời này,
không do một nguyên nhân gì cả, thì thật là vơ cùng phi lý! vì chúng ta hãy nhìn chung

quanh ta, có một cái gì sanh ra mà khơng có ngun nhân khơng?Riêng nói về sanh mạng
con người, có hai quan niệm thơng thường, trái ngược nhau:Quan niệm chấp đoạn, cho
rằng con người chỉ có một đời trong hiện tại, trong khoảng một trăm năm; đến khi nhắm
mắt xuôi tay, thân thể tan ra tro bụi và kiến văn, tri giác cũng khơng cịn gì hết. Chết là
hết, là hồn tồn mất hẳn.Quan niệm chấp thường, cho rằng linh hồn bất tử: sau khi chết,
thân thể tan rã, nhưng linh hồn thường còn mãi mãi, sẽ lên cõi Thiên đường để thọ hưởng
vĩnh viễn những sự an vui khoái lạc (nếu trong đời hiện tại ăn ở hiền lương) hay sẽ bị đoạ
xuống địa ngục chịu khổ mãi mãi (nếu trong đời hiện tại làm nhiều điều tội lỗi).Hai quan


niệm trên này đều không đúng.Chềt là mất hẳn! Sao lại mất hẳn được? Hãy nhìn chung
quanh ta có cái gì mất hẳn đâu? Một hạt cát, một mảy lơng cịn khơng thề mất hẳn được,
huống chi con người là một sinh vật có khả năng tri giác nhất trong chúng sanh.Nhưng
bảo rằng linh hồn là thường còn, ở mãi trên thiên đường hay dưới địa ngục cũng không
đúng. Sự nhận xét thông thường cho chúng ta thấy rằng, trong vũ trụ, khơng có một cái gì
có thể vĩnh viễn và ở yên một chỗ, mọi sự vật đểu biến đời và xê dịch. Vả lại, có gì bất
cơng hơn là chỉ vì những cái nhân đã gieo trong một đời hiện tại ngắn ngủi, mà phải chịu
cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai.Cho nên những loại giải đáp nói trên, đều
khơng thể đứng vững được trước ánh sáng chân lý.Những vần đề trên này, giáo lý nhà
Phật đã giải đáp một cách rõ ràng, khúc chiết, mạch lạc. Những lời giải đáp này không
dựa vào oai lực của thần quyền, khơng dựa vào những tín điều độc đốn, cũng khơng dựa
vào trí tưởng tượng mơ hồ, mà bằng cứ vào những nhận xét xác đáng trong hiện cảnh,
những cái tai nghe mắt thấy, những điều có thể chứng nghiệm được. Đức Phật bao giờ
cũng dựa trên thực tế để lập luận, vì thế, mặc dù những lời dạy của Ngài đã nói ra trên hai
ngàn năm trăm năm rồi, mà bây giờ vẫn còn đúng đắn và vơ cùng giá trị; có đủ năng lực
làm thỏa mãn sự khát khao hiểu biết của những ai băn khoăn đi tìm chân lý và ý nghĩa
của cuộc đời.Đó là lý do học viên chọn đề tài: Quan niệm về Luân hồi theo Bà-la-môn
giáo và Phật giáo” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2.Phương pháp nghiên cứu:
Học viên dùng phương pháp: phân tích - tổng hợp, đối chiếu - so sánh, hệ thống hoá,

diễn dịch, quy nạp… để nghiên cứu, phân tích và trình bày tiểu luận,từ đó đi đến kết luận
để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.
3.Nội dung nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Trong bài tiểu luận ngắn này, học viên khơng có tham vọng giải đáp tất cả những vấn đề
trọng đại, hàm chứa trong những chữ "siêu hình", "vũ trụ quan", "nhân sinh quan" v.v...
mà chỉ xin trình bày cái kiếp sống của con người, qua thời gian và không gian, những
nguyên nhân và kết quả đã tạo cho mỗi người một hoàn cảnh giống nhau hay khác nhau;
đồng thời chúng tôi sẽ giải đáp một số những thắc mắc có liên quan mật thiết đến kiếp
người. Trong khi trình bày, học viên sẽ giữ một thái độ hoàn toàn khách quan và nêu lên
những bằng chứng cụ thể, có thể nhận xét được rõ ràng, chứ khơng dựa vào những tín
điều độc đốn hay mượn uy lực của thần quyền đề bắt độc giả phải cúi đầu tin theo.
4.Bố cục tiểu luận:
Gồm 4 phần :
Mở đầu & Nội dung.
Phần kết luận & Danh mục tài liệu tham khảo.


A. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT LÝ THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC TÔN GIÁO
1.1.Thuyết vạn vật hữu linh
Người đại diện xuất chúng của một thuyết vạn vật có hồn về nguồn gốc tôn giáo là nhà
nhân chủng học người Anh Edward Burnett Tylor (1832-1917). Mặc dù khơng có bằng
cấp chính thức nào cả, Tylor là nhân vật hàng đầu về nhân chủng học trong nhiều năm.
Gần lúc kết thúc sự nghiệp của mình, ơng được phong là đệ nhất giáo sư nhân chủng học
Anh quốc (1896-1909). Đóng góp lớn nhất của Tylor cho việc nghiên cứu nguồn gốc tôn
giáo là tác phẩm có tựa đề Primitive Culture (Văn hóa nguyên thủy, 2 tập, 1871). Trong
thập kỷ 1850, Herbert Spencer đã đưa ra lý thuyết cho rằng các vị thần của người
“nguyên thủy” đã được căn cứ vào những giấc mơ về người mới chết. Theo Spencer, khi
người “nguyên thủy” nằm mơ thấy người chết, họ đi đến chỗ tin rằng những thủ lãnh và

anh hùng quá cố thực ra đang sống trong một thế giới khác hay một hình dạng khác.
Tylor biết lý thuyết của Spencer, được gọi là thuyết “Manison”, nhưng ông không hoàn
toàn chấp nhận thuyết ấy. 4 Tylor chủ trương rằng người nguyên thủy đã triển khai ý thức
về cái khác hay linh hồn từ những kinh nghiệm với cái chết và những giấc mơ. Theo
Tylor, người “nguyên thủy” cũng tin rằng những hồn này (tiếng Latin anima) chẳng
những có trong người ta mà cịn có trong tất cả thiên nhiên. Có hồn trong hịn đá, cái cây,
con vật, sơng, suối, núi lửa và núi non. Tồn thể thế giới, ngay cả chính khơng khí cũng
được coi là sống động với những tinh linh đủ mọi loại. Những linh ấy có thể giúp ích hay
làm hại con người, và có những nhân cách có thể bị xúc phạm hay ve vãn. Do đó, cầu xin
những tinh linh này, cúng tế cho họ, tìm cách làm ngi lịng họ và tránh xúc phạm đến
họ là một phần của sinh hoạt trong các xã hội “nguyên thủy”.Từ quan niệm vật hồn giáo
về thế giới phát sinh lối thực hành sùng bái hay thờ kính tổ tiên, trong đó người ta chăm
sóc đến các vong hồn người chết. Nhận thức về sự tồn tại của các tinh linh trong thiên
nhiên đưa đến sự sùng bái nhiều khía cạnh khác nhau của thiên nhiên, chẳng hạn như
nước, cây cối, đá v.v… Rốt cuộc, quan điểm vật hồn giáo này về thế giới đã tạo ra những
tôn giáo đa thần, thờ những vị thần như trời, đất và nước. Sau cùng, những tôn giáo độc
thần ra đời. Những học thuyết của Tylor được chấp nhận rộng rãi và được coi là kinh điển
trong nhiều năm. Từ vật hồn giáo vẫn cịn phổ thơng.Giám mục R. H Codrington (18301922),đã triển khai và đề xuất một thuyết khác có thể được định nghĩa một cách khơng
chặt chẽ lắm như là vật hồn giáo. Trong khi công tác như là một giáo sĩ thừa sai Kitô giáo
ở Melanesia, Codrington đã nghiên cứu các ngôn ngữ và văn hóa của dân
Melanesia.Codrington xuất bản cuốn Người Melanesia. Mặc dù ông chấp nhận phần lớn
học thuyết của Tylor,Codrington quan tâm đến những gì người dân bản địa đã nói về kinh
nghiệm tơn giáo của chính họ nhiều hơn là những cơ sở lý thuyết mà Tylor và nhiều
người khác đã xây dựng.Ông coi từ Melanesia mana như là nền tảng của tôn giáo. Mana
được định nghĩa như là một quyền năng siêu nhiên thuộc về thế giới vơ hình. Người ta có
thể kinh qua mana bằng cảm xúc hơn là bằng lý trí. Codrington đã đưa ra lý thuyết cho


rằng tất cả các dân tộc nguyên thủy đã khởi đầu tôn giáo của họ bằng một nhận thức về
một sức mạnh như thế.

1.2.Thuyết sùng bái thiên nhiên
Một giáo sư khác của trường Oxford, Max Muller (1823-1900) đã triển khai một lý
thuyết khác về nguồn gốc tôn giáo. Muller quan tâm đến thần thoại học và các tôn giáo
của Ấn Độ, nhưng ông đã đi vào cuộc tranh luận về các nguồn gốc tôn giáo với Tylor và
những người khác. Từ những cuộc nghiên cứu của mình, ơng đã xác tín rằng con người
đầu tiên đã triển khai các tơn giáo của họ từ những sự quan sát các sức mạnh thiên nhiên.
Theo thuyết này, những người “nguyên thủy” đã ý thức được sự tuần hoàn đều đặn của
các mùa, thủy triều, và các tuần trăng. Họ đã đáp ứng những sức mạnh thiên nhiên này
bằng cách nhân cách hóa chúng. Do đó, họ bắt đầu miêu tả những hoạt động của các sức
mạnh ấy bằng những chuyện kể, những chuyện kể này cuối cùng trở thành thần thoại. Ta
tìm thấy một thí dụ của q trình này trong thần thoại Hy Lạp về Apollo và Daphne.
Apollo phải lòng Daphne, nhưng nàng đã trốn khỏi Apollo và biến thành cây nguyệt quế.
Bằng cách tìm ngữ nguyên của những cái tên này, Muller đã thấy rằng Apollo là cái tên
đặt cho mặt trời và Daphne là cái tên đặt cho bình minh. Như thế, thần thoại ban đầu chỉ
đơn giản mô tả mặt trời đuổi theo bình minh như thế nào. Hơn nữa, Muller còn tin rằng,
tất cả những câu chuyện về các thần linh và anh hùng trong các nền văn hóa Ấn – Âu ban
đầu là những thần thoại về mặt trời. Muller trở nên xác tín rằng, ơng đã tìm ra được chìa
khóa về nguồn gốc tất cả các tôn giáo. Người “nguyên thủy” đã nhận diện được các sức
mạnh trong thiên nhiên, nhân cách hóa chúng, tạo ra những thần thoại để miêu tả những
hoạt động của các sức mạnh ấy, và cuối cùng đã triển khai chư thần và những tôn giáo
xoay quanh những sức mạnh ấy.
1.3.Thuyết tơn giáo là sự phóng chiếu những nhu cầu của con người
Một trong số những nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XIX là triết gia người
Đức Ludwig Feuerbach (1804-1872). Trong những tác phẩm có ảnh hưởng lớn của ông,
Bản chất Kitô giáo và Bản chất tơn giáo, Feuerbach đã nói rằng, tơn giáo cốt yếu là sự
phóng chiếu những nguyện vọng và nhu cầu của nhân loại. Ơng coi tơn giáo như là một
giấc mơ hay khả năng tưởng tượng, biểu thị hoàn cảnh của nhân loại. Theo Feuerbach,
con người có khuynh hướng tự coi mình là bất lực và lệ thuộc, khi phải đối mặt với
những thách thức của cuộc sống. Do đó, họ tìm cách khắc phục những vấn đề của mình
bằng tưởng tượng; họ tưởng tượng ra, hay phóng chiếu, một hữu thể lý tưởng hóa, giàu

lịng nhân hậu hay đầy quyền lực, có thể giúp đỡ mình. Nhân loại khơng phải đã được tạo
ra theo hình ảnh của Thượng Đế, nhưng Thượng Đế đã được tạo ra theo hình ảnh của
nhân loại lý tưởng hóa. Feuerbach tin rằng con người tìm trong Thiên đường những gì mà
họ khơng thể tìm thấy trên trái đất. Như thế, ở trình độ căn bản nhất của nó, tơn giáo là
một hình thức ước nguyện. Feuerbach nghĩ rằng, khi con người trở nên hiểu biết hơn, hay
mạnh mẽ hơn, tơn giáo sẽ có khuynh hướng tan rã và được thay thế bằng kỹ thuật học và
chính trị.Một nhà tư tưởng chịu ảnh hưởng sâu xa các lý thuyết của Feuerbach là người
đương thời với ông nhưng trẻ hơn: Karl Marx (1818-1883). Marx đã thêm những nét
chấm phá rõ rệt của mình vào lập trường của Feuerbach về nguồn gốc tơn giáo. Marx đã
nhìn nguồn gốc và sự phát triển tôn giáo theo quan điểm riêng mình về lịch sử và cuộc
đấu tranh kinh tế - xã hội giữa các giai cấp. Bằng những lời lẽ có vẻ rất giống như của


Feuerbach, Marx đã nói: “Con người tạo ra tơn giáo chứ tôn giáo không tạo ra con
người. Tôn giáo là sự tự ý thức và tự tôn của con người, con người hoặc chưa tìm thấy
mình, hoặc đã đánh mất chính mình… Tơn giáo là tiếng thở dài của tạo vật, tâm hồn của
một thế giới nhẫn tâm, như thể nó là linh hồn của những thân phận vơ hồn. Tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân.”6Marx cũng tin rằng, tôn giáo được các giai cấp thống trị
dùng để thủ tiêu những giai cấp bên dưới.Các nguyên tắc xã hội Kitơ giáo rao giảng sự
cần thiết phải có giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, và đối với giai cấp bị trị, tất cả
những gì các nguyên tắc ấy có thể đề xuất là sự mong mỏi mộ đạo rằng giai cấp thống trị
rũ lòng từ thiện, bác ái… Các nguyên tắc xã hội Kitô giáo tuyên bố rằng, tất cả những
hành vi xấu xa của những kẻ đàn áp đối với những người bị đàn áp đều, hoặc là sự trừng
trị thích đáng cho tội tổ tơng và những tội khác, hoặc là những sự thử thách mà Chúa,
trong sự khôn ngoan vô hạn của Ngài, đã sắp đặt cho những người được cứu
chuộc.7Sigmund Freud (1856-1939) nhà sáng lập tâm phân học, đã cho những ý tưởng
của Feuerbach một chiều kích tâm lý. Freud coi tơn giáo bắt nguồn từ tội ghét cha mà con
người được giả định là cảm thấy.Freud nhìn thấy trong thần thoại Hy Lạp cổ về Oedipus
một kiểu thức về kinh nghiệm con người. Oedipus là một người đàn ông, qua một chuỗi
những biến cố bi thảm, đã giết cha mình để lấy mẹ mình. Freud cho rằng, trong mọi

người nam đều có một khuynh hướng ham muốn mẹ mình như thế và do đó ghét cha
mình.8Freud cịn nói đến những tập tục của người nguyên thủy mà ông tin là tiêu biểu cho
toàn bộ kinh nghiệm của con người. Người nam thống trị/người cha giữ tất cả phụ nữ
trong tập thể cho riêng mình và đuổi những người nam trẻ hơn ra khỏi lãnh thổ của mình.
Sau cùng những người thanh niên ấy liên kết với nhau để giết và ăn thịt cha mình. Freud
đề xuất rằng tội lỗi do ham muốn mẹ mình và tội đại ác giết cha nằm trong trung tâm mỗi
tơn giáo. Ơng tin rằng vật tổ giáo đã xuất hiện để làm giảm bớt mặc cảm tội lỗi của người
con và làm ngi lịng người cha, qua sự kính cẩn vâng lời cha, và rằng những tơn giáo
sau này là những mưu đồ giải quyết cùng một vấn đề. 9Do bởi tội căm thù cha trong tiềm
thức, Freud đã tin rằng nhân loại phóng chiếu lên trời hình ảnh một người cha cả gọi là
Thượng Đế. Ơng cũng nghĩ rằng những tư tưởng tôn giáo là “những ảo tưởng, lấp đầy
những ước vọng lâu đời nhất, mãnh liệt nhất và cấp thiết nhất của nhân loại”. 10 Người
đích thực lành mạnh và trưởng thành, theo Freud, là người mãn ý với việc đứng độc lập
và đương đầu với các vấn đề của cuộc sống mà không cần đến thần thánh hay tôn giáo
nào cả.


CHƯƠNG 2
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO
2.1. Bà-la-mơn
Nói đến Bà-la-mơn giáo là nói đến cả một hệ thống tôn giáo bao gồm cả hai mặt: Tôn
giáo tính và triết lý tính vơ cùng đa dạng và phức tạp. Nếu căn cứ vào sự tịnh tiến theo
chiều ngang của thời gian, Bà-la-môn giáo được xem là sự tích hợp của một q trình
đi lên và trưởng thành của dân tộc Ấn, mà trong đó, các thế hệ đi qua luôn là tiền đề
để cho người sau kế tục. Có lẽ chính vì vậy mà nhà nghiên cứu văn hóa Ấn Macdonell
đã nhận xét: “Ngồi Trung Quốc ra, khơng cịn nước nào trên thế giới có thể tìm được
nguồn gốc ngơn ngữ, văn học, tín ngưỡng và lễ nghi tôn giáo cùng những tập tục tập
quán xã hội của mình qua một sự phát triển khơng ngừng trong hơn 3000 năm như ở
Ấn Độ”. Từ căn bản này, Upanisads đã phát triển lên biểu tượng Đấng sáng tạoBrahman. Tuy nhiên, sự hình thành đấng tối cao của Veda giáo không được hiểu theo
nghĩa tập quyền về tay của Đấng tạo hóa mà phải được xác định ở sự biểu hiện thơng

qua hình ảnh các vị thần khác của Ấn giáo. Nói như Mark Muller thì thay vì đi tìm
khái niệm cho một đấng tối cao, Veda đã tơn kính đấng sáng tạo dựa trên sự tơn kính
các vị thần khác. Cho nên Chandradhar Sharma kết luận rằng không có sự phát triển
từ Đa thần sang Đơn thần rồi đến Nhất nguyên luận của Upanisads mà nó là sự thống
nhất tư tưởng từ các Mantra đầu tiên sang Upanisads, nghĩa là nó là sự tiến bộ từ quan
niệm hình tượng sang tư tưởng triết học. Điều này thật rõ ràng khi ta biết rằng giữa
những hệ thống lễ nghi phức tạp của tập Bràhmana là sự hiện hữu của vô vàn các triết
lý mà các tập Upanisads đã hệ thống một cách đáng khâm phục. Mối quan hệ giữa
Mantra và Upanisads ln là một biến số mà trong đó kết quả lại đưa về nhất nguyên
luận với các tập Upanisads là đỉnh cao chứa đựng những tư tưởng này. Như nhà hiền
triết Narada đã hỏi Sanatkumàra: Thưa ngài, tôi biết Rig-Veda, Yajuh,... Với tất cả
điều này giúp tôi hiểu các Mantra và những cuốn sách thánh, nhưng tôi không biết về
cái Tôi bản ngã.. Tôi nghe nhiều người như Ngài nói rằng, chỉ những ai biết được cái
Tơi này mới thốt khỏi ưu phiền. Hay như Munkada đã nói: “Có hai loại tri thức mà
con người phải thấu hiểu... Loại tri thức thấp là những gì mà Rig-veda, Yajur,... mang
đến, còn tri thức cao chỉ Brahman bất tử mới biết”.Như vậy, đi tìm bản chất của bản
ngã cùng các quy luật của nó chính là nội dung mà bao thế hệ Veda đã và đang nỗ lực
xây dựng nhằm hoàn thiện thiên chức thiêng liêng mà Đấng tối cao Brahman đã giáo
phó. Và cũng từ những quan kiến về Bản ngã này mà toàn bộ hệ thống triết lý Bà-lamơn giáo được hồn thiện. Nói khác hơn, triết học Bà-la-môn lấy tư duy hướng ngã
làm cơ sở.
2.2. Phật giáo
Phật giáo là một tơn giáo vĩ đại có độ phủ rộng vô cùng lớn trên thế giới. Khởi nguồn
từ Ấn Độ, Phật giáo lan toả hầu như khắp các nước ở bốn bề Đông, Bắc, Tây, Nam.
Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên 100 nước trên
thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng ln với trạng thái ơn hồ, chưa bao giờ đi
liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008,
đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng
và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử
Tất Đạt Đa sinh năm 624 trước cơng ngun thuộc dịng họ Thích Ca. Dù sống trong
cuộc đời vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường

1


của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên của đau
khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Cuối cùng,
Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và sau 49 ngày đêm thiền định, Thái
tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích
Ca Mâu Ni.Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức
để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật khơng cơng nhận có
một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay giáng hoạ cho
ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân – Quả, làm việc thiện
thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Ngoài ra, đạo Phật cũng thể
hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điểm
của đạo Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều
cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành tựu như Đức Phật. Cùng với
Hindu giáo, Phật giáo đã góp phần quan trọng trong việc thiết lập những cách thức tư
duy, phong cách sống cơ bản của Ấn Độ.
CHƯƠNG 3
QUAN NIỆM LUÂN HỒI CỦA BÀ LA MÔN VÀ PHẬT GIÁO
3.1. Luân hồi và những hiểu lầm về luân hồi
3.1.1. Luân hồi là gì?
Luân hồi (trong Phật giáo còn gọi là Vòng luân hồi hay Bánh xe luân hồi) (chữ Hán: 
, sa., pi. saṃsāra, bo. `khor ba 
), nguyên nghĩa Phạn ngữ là "lang thang, trơi
nổi" theo ngữ căn sam-√sṛ, có khi được gọi là Hữu luân (zh. ), vòng sinh tử, hoặc
giản đơn là Sinh tử (zh. ). Thuật ngữ này chỉ những lần đầu thai tiếp nối nhau, trạng
thái bị luân chuyển của một lồi Hữu tình khi chưa đạt giải thốt, chứng ngộ Niết-bàn.
Quá trình này thể hiện trên hình ảnh bánh xe ln hồi, bánh xe khơng có điểm đầu và
cuối, nó sẽ xoay mãi và ngừng lại đến khi nào chúng sinh giải thoát khỏi Tam
giới.Theo Phật giáo, nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là tam độc, gồm có tham ái

(sa. tṛṣṇā), sân (sa. dveśa) và si (sa. moha, hoặc vô minh, sa. avidyā). Tùy vào nghiệp
của chúng sinh đã tạo trong quá khứ mà chúng sinh đó sẽ tái sinh vào một trong sáu
cõi: trời, thần (a-tu-la), người, súc sinh, quỷ đói (ngạ quỷ), địa ngục. Trong Đại thừa,
luân hồi được xem là thế giới của hiện tượng và thể tính của nó chính là thể tính của
Niết-bàn.Sau khi tái sinh, phần lớn các chúng sinh sẽ khơng cịn nhớ gì về kiếp trước
đó. Các chúng sinh sẽ có một cuộc đời mới. Việc chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi nào
sau khi chết có thể dự đoán được nếu quan sát cận tử nghiệp của chúng sinh đó.Cội
nguồn của ln hồi từ đâu, lồi hữu tình có từ bao giờ…, những câu hỏi này đã được
nhiều người nêu lên nhưng Phật tuyệt đối không trả lời những sự thắc mắc vơ bổ này
vì theo Phật, chúng chẳng giúp ích gì trên con đường tu tập, và sẽ tự thấu tỏ khi giác
ngộ thành Phật. Niết-bàn, sự giải thốt khỏi ln hồi chỉ có thể thực hiện trong kiếp
làm người, trong tất cả con đường tái sinh khác chúng sinh khơng thể đạt Bồ-đề vì
khơng có đủ khả năng nhận thức được yếu tố chính của luân hồi, đó là tham và vơ
minh. Muốn thốt khỏi sinh tử luân hồi thì cần phải dứt được nghiệp chướng do ái dục
mang lại; muốn thốt khỏi nó, theo Phật, chỉ có con đường bát chính đạo mới dẫn con
người đến cõi niết bàn.Trong hầu hết các tôn giáo Ấn Độ, đời sống không được xem
2


như bắt đầu với việc sinh và chấm dứt với sự chết, nhưng như là một sự hiện hữu
tương tục trong đời sống hiện tại của cơ thể và mở rộng vượt xa hơn nữa với quá khứ
và tương lai. Bản chất của những hành động xảy ra trong phạm vi một kiếp sống (tốt
hay xấu) quyết định số phận tương lai của mỗi chúng sinh. Luân hồi được liên kết gần
gũi với ý tưởng tái sinh, nhưng chủ yếu liên hệ đến điều kiện của đời sống, và kinh
nghiệm của sự sống.Trong đạo Phật, vào thời điểm sắp chết, tâm thức (thức của những
giác quan khác nhau, chẳng hạn như nhãn thức, nhĩ thức,...) hoạt động như hạt giống
cho sự sản sinh một tâm thức mới trong một cấu trúc sinh học mới, dẫn đến ý chí thúc
đẩy tại thời điểm của cái chết (là điều tự chúng tiêm nhiễm bởi những sự thúc đẩy của
ý chí kiếp trước).
3.1.2. Những hiểu lầm về luân hồi

Trong kinh phạm võng thuộc trường bộb kinh Đức Phật đề cập đến 62 tà kiến trong
thời đại của ngài. Sáu mươi hai loại kiến-chấp bị bao-trùm cả trong màn lưới PhạmVõng, gồm có:
– 18 kiến-chấp về quá-khứ,
– 44 kiến-chấp về tương-lai.
Mười tám kiến-chấp về quá-khứ có:
– 4 luận-chấp về Thường-trú-luận;
– 4 luận-chấp về Thường, Vô-thường-luận;
– 4 luận-chấp về Hữu-biên, Vô-biên-luận
– 4 luận-chấp về Ngụy-biện-luận;
– 2 luận-chấp về Vơ-nhân-luận.
Bốn mươi bốn kiến-chấp về tương-lai có:
– 16 luận-chấp về Hữu-tưởng-luận;
– 8 luận-chấp về Vô-tưởng-luận;
– 8 luận-chấp về Phi-hữu tưởng phi-vô tưởng;
– 7 luận-chấp về Đoạn-diệt-luận;
– 5 luận-chấp về Hiện-tại Niết-bàn-luận
a.MƯỜI TÁM KIẾN-CHẤP VỀ QUÁ-KHỨ.
Các kiến-chấp liên-quan đến quá-khứ: gồm có 18 luận-chấp về quá-khứ do chủ-trương
của các Sa-môn, Bà-la-môn, nhờ nhập định mà nhớ lại được đời, kiếp trước (một kiếp
có nhiềuđời):
* 4 luận-chấp về Thường-trú-luận: cho rằng thế-giới và bản-ngã chúng-sanh đều
thường-còn mãi mãi:
– trường-hợp 1: vì nhớ được nhiều đời trước;
– trường-hợp 2: vì nhớ được nhiều kiếp trước;
– trường-hợp 3: vì nhớ được nhiều thành-kiếp, và hoại-kiếp trước (thành, hoại-kiếp có
nhiềukiếp);
– trường-hợp 4: vì dựa theo óc suy-luận.
* 4 luận-chấp về Thường-trú-luận và Vô-thường-luận: cho rằng thế-giới và bản-ngã
vừathường-trú với một hạng chúng-sanh, vừa vô-thường với các hạng chúng-sanh
khác:

– trường-hợp 1: từ cõi Quang-âm thiên có vị hữu-tình sanh sang cung Phạm-thiên
trước nhứt, tự cho mình là chúa-tể, coi các chúng-sanh khác, sanh sau, là con cháu của
mình. Vị Đại-Phạm-Thiên đó có mạng sống lâu dài, sắc-tướng đẹp-đẽ, uy-quyền rộng

3


lớn, nên được xem là thường-hằng; còn các chúng-sanh khác thì vơ-thường, phải chịu
sự biến-dịch.
– trường-hợp 2: từ cõi Trời Phạm, có hạng chư Thiên vì mê-say dục-lạc, nên bị ônhiễm, thác-sanh xuống cõi nhơn-gian. Nhờ biết tu-hành, nhập-định, nhớ lại đời trước,
nên chủ trương rằng, chư Thiên nào không say-mê dục-lạc, khơng bị thác-sanh thì
thường-hằng; cịn kẻ bị ơ-nhiễm thì vơ-thường.
– trường-hợp 3: cũng từ cõi Trời Phạm, có hạng chư Thiên tâm-trí bị ơ-nhiễm vì đốkỵ, nên thác-sanh xuống cõi nhơn-gian. Nhờ biết tu-hành, nhập-định, nhớ lại đời
trước, nên chủ trương rằng, chư Thiên nào tâm-trí chẳng bị đố-kỵ ơ-nhiễm, chẳng
thác-sanh, nên thường-hằng; cịn ai bị ơ-nhiễm tâm-trí thì vơ-thường.
– trường-hợp 4: các nhà suy-luận nhờ sự thẩm-sát, cho rằng cái gì thuộc về sắc-thân
thì chẳng kiên-cố, nên vơ-thường; cịn những gì thuộc về tâm-thức , về bản-ngã thì
thường-hằng.
* 4 luận-chấp về Thế-giới hữu-biên, hay vơ-biên: (hữu-biên = có giới-hạn; vơ-biên =
chẳng có giới-hạn)
– trường-hợp 1: cho rằng khi nhập-định thì thấy thế-giới nầy có con đường chạy vịng
quanh, cho nên đó là hữu-biên;
– trường-hợp 2: cho rằng khi nhập-định lại thấy thế-giới nầy chẳng có giới-hạn, cho
nên vơ-biên;
– trường-hợp 3: cho rằng khi nhập-định thì thấy thế-giới nầy vơ-biên theo chiều
ngang, và có giới-hạn ở bên trên và bên dưới, vì vậy cho nên vừa hữu-biên, vừa vơbiên.
– trường-hợp 4: dùng lý-luận, có vị cho rằng thế-giới nầy chẳng phải hữu-biên, chẳng
phải vô-biên,
chẳng phải vừa hữu-biên, vừa vô-biên. Thế-giới nầy, thật ra, chẳng phải hữu-biên,
cũng chẳng phải vô-biên.

* 4 luận-chấp về Ngụy-biện (”trườn uốn như con lươn”): do chẳng biết như-thật, nên
dùng lờingụy-biện lẫn tránh câu trả lời dứt-khốt, như:”Tơi khơng nói là như vậy. Tơi
khơng nói là khác như thế. Tơi khơng nói là khơng phải như thế. Tơi khơng nói là
khơng khơng phải như thế.” Bốn trường-hợp ngụy-biện là:
– trường-hợp 1: vì sợ sai-lầm;
– trường-hợp 2: vì sợ bị chấp-thủ;
– trường-hợp 3: vì sợ bị thử-thách;
– trường-hợp 4: vì ngu-si
* 2 luận-chấp về Vơ-nhân-luận: cho rằng thế-giới nầy và bản-ngã chẳng phải do nhânduyênmà sanh ra (vơ-nhân = chẳng vì nhân-dun gì, tự-nhiên sanh ra):
– trường-hợp 1: có vị lấy lý-do là vì trước kia tơi chẳng có; nay tơi lại đang có; từ
trạng-thái khơng có, nay tơi trở thành một lồi hữu-tình, nên vơ-nhân.
– trường-hợp 2: các nhà biện-luận do sự biện-bác, tuyên-bố, Bản ngã và Thế-giới do
vô-nhân sanh.
b.BỐN MƯƠI BỐN KIẾN-CHẤP VỀ TƯƠNG-LAI.
Các kiến-chấp liên quan đến tương-lai gồm có 44 luận-chấp sai-lầm về tương-lai,
được phân ra:
– 16 luận-chấp Hữu-tưởng-luận;
– 8 luận-chấp về Vô-tưởng-luận;
– 8 luận-chấp về Phi-hữu-tưởng, phi-vô-tưởng luận
4


– 7 luận-chấp về Đoạn-diệt-luận;
– 5 luận-chấp về Hiện-tại Niết-bàn-luận;
Các kiến-chấp nầy là chủ-trương sai-lạc về tương-lai do các Sa-môn, Bà-la-môn dựa
vào các cảm-thọ được kinh-nghiệm qua sáu căn khi tiếp-xúc với sáu trần, rồi vì thamái mà sanh ra chấp-thủ.
c. MƯỜI SÁU LUẬN-CHẤP VỀ HỮU-TƯỞNG.
16 luận-chấp về Hữu-tưởng-luận chủ-trương, sau khi chết, bản-ngã con người cịn có
tưởng:
– bản-ngã có sắc, chẳng bịnh, sau khi chết cịn có tưởng;

– bản-ngã chẳng có sắc, …;
– bản-ngã có sắc, cũng chẳng có sắc, …;
– bản-ngã cũng chẳng có sắc, cũng chẳng chẳng có sắc, …;
– bản-ngã là hữu-biên, …;
– bản-ngã là vơ-biên, …;
– bản-ngã là hữu-biên và vô-biên, …;
– bản-ngã cũng chẳng hữu-biên, cũng chẳng vô-biên, …;
– bản-ngã là nhứt-tưởng, …;
– bản-ngã là dị-tưởng, …;
– bản-ngã là thiểu-tưởng, …;
– bản-ngã là vô-lượng-tưởng, …;
– bản-ngã là thuần-lạc, …;
– bản-ngã là thuần-khổ, …;
– bản-ngã là khổ-lạc, …;
– bản-ngã chẳng khổ, chẳng lạc, chẳng bịnh, sau khi chết có tưởng.
d. TÁM LUẬN-CHẤP VỀ VƠ-TƯỞNG.
8 luận-chấp về Vơ-tưởng-luận chủ-trương bản-ngã chẳng có tưởng sau khi chết:
– bản-ngã có sắc, chẳng bịnh, sau khi chết chẳng có tưởng;
– bản-ngã chẳng có sắc, …;
– bản-ngã có sắc, cũng chẳng có sắc, …;
– bản-ngã chẳng có sắc, cũng chẳng chẳng có sắc, …;
– bản-ngã là hữu-biên, ….;
– bản-ngã là vô-biên, …;
– bản-ngã là hữu-biên và vô-biên, ….;
– bản-ngã là phi-hữu-biên và phi-vơ-biên, chẳng bịnh, sau khi chết chẳng có tưởng.
e.TÁM LUẬN-CHẤP VỀ PHI-HỮU, PHI-VƠ TƯỞNG.
8 luận-chấp về Phi-hữu-tưởng, phi-vơ-tưởng luận chủ-trương sau khi chết, bản-ngã
chẳng phải có tưởng, cũng chẳng phải chẳng có tưởng:
– bản-ngã có sắc, chẳng bịnh, sau khi chết thì phi-hữu tưởng, phi-vơ tưởng;
– bản-ngã chẳng có sắc, …;

– bản-ngã có sắc và cũng chẳng có sắc, …;
– bản-ngã phi-hữu sắc và cũng phi-vô sắc, …;
– bản-ngã là hữu-biên, …;
– bản-ngã là vô-biên, …;
– bản-ngã là hữu-biên và vô-biên, …;
– bản là phi-hữu biên và phi-vô biên, chẳng bịnh, sau khi chết thì phi-hữu tưởng, phivơ tưởng.
5


f. BẢY LUẬN-CHẤP VỀ ĐOẠN-DIỆT.
7 luận-chấp về Đoạn-diệt-luận do các Sa-mơn, Bà-la-mơn chủ trương rằng, bản-ngã
của lồi hữu-tình bị tiêu-hủy hồn-tồn, chẳng cịn gì, sau khi chết.
– vì bản-ngã có sắc, do bốn đại hợp thành, nên sau khi chết, thân hoại, chẳng cịn gì
nữa;
– vì cịn có một bản-ngã khác, có sắc, có thiên-tánh, thuộc Dục-giới, nhưng sau khi
chết, thân hoại, bản-ngã nầy cũng bị tiêu-diệt hết.
– vì cịn có bản ngã khác nữa, có sắc, có thiên-tánh, thuộc Sắc-giới, nhưng sau khi
chết, …;
– vì cịn có bản-ngã khác nữa, chẳng có sắc, thuộc Khơng vơ-biên-xứ, nhưng sau khi
chết, …;
– vì cịn có bản-ngã khác nữa, … , thuộc Thức vơ-biên-xứ, nhưng sau khi chết, …;
– vì cịn có bản-ngã khác nữa, … . thuộc Vô-sở-hữu-xứ, nhưng sau khi chết, …;
– vì cịn có bản-ngã khác nữa, …, thuộc Phi-tưởng, phi phi-tưởng-xứ, nhưng sau khi
chết, thân hoại, bản-ngã cũng bị tiêu-diệt hết.
g. NĂM LUẬN-CHẤP VỀ HIỆN-TẠI NIẾT-BÀN.
5 luận-chấp về Hiện-tại Niết-bàn-luận do các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương rằng,
trong hiện-tại bản-ngã của chúng-sanh có thể đạt tới cõi Niết-bàn tối-thượng:
– khi bản-ngã tận hưởng năm món dục-lạc (thú vui vật-chất) do các giác-quan mang
đến;
– khi bản-ngã ấy biết lià xa các dục-lạc, đạt đến cõi Sơ-thiền;

– khi bản-ngã ấy … đạt đến cõi Nhị-thiền;
– khi bản-ngã ấy … đạt đến cõi Tam-thiền;
– khi bản-ngã ấy … đạt đến cõi Tứ-thiền.
Nói một cách ngắn gọn, đạo Phật chủ trương khơng có nguyên nhân đầu tiên, một vật
sinh ra do trùng trùng duyên khởi, có nhân, có quả, có những biến chuyển không
ngừng trong từng hơi thở, những biến chuyển ấy là luân hồi. Người đời thường cố
chấp vào bốn loại sau đây:
1) Chấp đoạn: Cho rằng cịn người chỉ có trong khoảng sinh ra và cho đến chết, chết là
hết. Có phải vậy không? Chẳng hạng như một cái cây, thân mục biến thành đất, đất ấy
lại nuôi lên cây khác...
2) Chấp thường: Cho rằng con người sau chết, thể xác tan rã nhưng linh hồn còn mãi.
3) Chấp thân trước khơng can hệ gì với thân sau: Có người cho rằng thân nầy chết
sanh ra thân sau, nhưng thân trước và thân sau khơng can hệ gì tới nhau.
4) Chấp ln hồi theo luật tiến hóa: Người ta cơng nhận rằng có Ln hồi, nhưng theo
luật tiến hóa, từ lồi hạ đẳng chết rồi biến dần thành thượng đẳng.
3.2. Luân hồi trong Bà la môn và Đạo Phật
3.2.1. Luân hồi trong Bà la môn
Ấn Độ giáo quan niệm rằng linh hồn (của bất kì thể sống nào – bao gồm mn thú,
con người và cây cỏ) đầu thai có liên hệ một cách phức tạp với nghiệp (karma).
Nghiệp (nghĩa đen là hành động) là tổng của các hành động của một người, và là lực
sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người đó, vịng xoay của việc chết và tái sinh,
được điều khiển bởi nghiệp. Theo tư tưởng nghiệp báo và luân hồi, kinh Upanishad
cho rằng: “Người ta sẽ trở nên tốt vì hành động tốt và trở nên xấu với hành động
xấu”và “Những người có hành vi tốt đẹp sẽ đầu thai vào kiếp tốt đẹp, hoặc thành
Balamon, hoặc thành người quý tộc hoặc thành thương nhân. Những kẻ có hành vi
6


xấu xa sẽ phải đầu thai vào những kiếp xấu xa như kiếp chó, kiếp lợn, hay những kẻ
nơ lệ, tơi tớ”. Bên cạnh đó,quan điểm ln hồi cịn được thể hiện trong các thuyết

Ashrama về 4 giai đoạn mà con người phải trải qua, để cho đời sống trần thế nhập vào
việc hành sự tôn giáo và để đạt được sự giải thoát của linh hồn, tức là tránh khỏi luân
hồi: (1) brahmacharga (học tập); (2) grhastha (lập gia đình, tạo sự nghiệp); (3)
vanaprastha (hướng về tâm linh); (4) sanrgasu (thoát ly xã hội để tu hành). Và thể hiện
qua tư tưởng Brahman (Đại Ngã) – Atman (Tiểu Ngã), Brahman là nguồn gốc tối cao
của vũ trụ, tức là Đại Ngã, là Đại Vũ trụ, là Đại hồn, nay thường gọi là Thượng Đế;
Atman là bản ngã của con người, là Tiểu Ngã, là Tiểu hồn, Tiểu Vũ trụ. Nó chỉ là một
phần rất nhỏ của Đại Ngã tách ra. Do đó, Brahman và Atman đồng bản chất, nên
thơng đồng được với nhau. Tu luyện là để đạt được sự giải thoát của linh hồn khỏi các
khổ não ràng buộc nơi cõi trần để đem Atman trở về hợp nhất với Brahman. Nhận
thức được Chân lý này, không phải do trí tuệ, mà do sự giác ngộ của tồn bộ bản thể.
Nếu khơng giải thốt được thì khơng dứt khỏi Nghiệp (Karma), tức là không dứt khỏi
Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp nọ tới kiếp kia. Luật nhân quả chính là
một phương thức để cho các thầy tu Bà-la-mơn giải thích cho các tín đồ Hindu giáo về
việc phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ ngày nay. Đi từ trong bản thể luận đến
hiện tượng luận, cả Phật giáo lẫn Hindu giáo đều thống nhất rằng, cuộc đời này là sự
giả tạm, là đau khổ. Bởi thế cho nên, sự giải thoát khỏi lĩnh vực đó chính là u cầu
cấp thiết nhất mà tất cả các thế hệ tư tưởng Ấn Độ đều nỗ lực tìm kiếm. Tuy nhiên, đi
vào trong triết lý, tư tưởng thì hai tơn giáo này đều có những chí hướng khác nhau.Đối
với bà la mơn giáo, sự giải thốt chính là sự trở về với bản thể Phạm Thiên. Nhưng tại
sao phải trở về? Bởi vì tiểu ngã Atman đã ngày càng đi ra khỏi những quy luật của
Đấng sáng tạo. Nguyên nhân là do linh hồn đã bị vô minh, dục vọng làm ô nhiễm để
rồi bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi không bao giờ trở về được nữa. Muốn diệt được
dục vọng, vô minh thì khơng gì khác hơn là dùng Yoga để đạt được những trạng thái
thiền định. Chính trạng thái thiền định này giúp cho người Bà-la-môn hạn chế tới mức
thấp nhất những ảnh hưởng của Ý thức, cái mà họ cho rằng chính nó là ngun nhân
của sự phân biệt đối đãi, vô minh, ham muốn. Bởi thế, Hindu giáo chủ trương dùng trí
tuệ đạt được bằng cách thể nhập các loại định Yoga để loại bỏ sự kiềm tỏa của Ý thức,
lúc đó sự giải thốt mới có thể được xảy ra và bản ngã hoàn toàn được thể nhập vào
đại ngã Brahman. Một ví dụ thường được các tín đồ Hindu giáo dùng để ám chỉ điều

này là sự không mộng mị của một giấc ngủ. Câu chuyện giữa Indra và Prajàpati trong
Upanisads kể lại trong một lần đối đáp, Prajàpati đã trả lời câu hỏi của Indra rằng,
người được hưởng giấc ngủ say không mộng mị là bản ngã.Cịn đối với Phật giáo,
phạm trù giải thốt bao gồm: đối tượng để giải thoát, phương pháp và kết quả:Về đối
tượng giải thoát, Phật giáo đồng ý với Hindu giáo khi cho rằng cuộc đời của con
người là đau khổ. Và nỗi khổ này khơng có ngun nhân nào khác ngồi vơ minh, ái
dục. Muốn hết khổ thì phải loại bỏ những nguyên nhân ấy. Tuy nhiên, quan điểm về
vô minh của Phật giáo khác với Ấn Độ giáo ở chỗ, nếu Ấn Độ giáo cho rằng vô minh
là do mối quan hệ giữa Ý thức và cảm giác hiện tượng quá sâu đậm dẫn đến sự mê
đắm mà đánh mất tính chất thanh cao của Bản ngã nên bị luân hồi sanh tử, thì Phật
giáo lại cho rằng “Bất tri Đệ nhất nghĩa đế vị chi vô minh” (không liễu tri được Đệ
nhất nghĩa đế là vô minh). Theo Phật giáo Nam truyền giải thích, vơ minh là khơng
liễu tri được Tứ Đế, cịn Bắc truyền Phật giáo thì cho rằng khơng giác ngộ được bản
chất như thật của các pháp gọi là vô minh. Bản chất như thật ở đây tức là bản chất
7


khơng thật tính của các pháp và Phật tính viên dung của chúng sinh. Và Phật giáo cho
rằng muốn giải thốt thì trước hết phải liễu tri được Đệ nhất nghĩa đế ấy. Cho nên, đối
tượng giải thoát tất nhiên là con người, nhưng đi sâu vào nội dung thì Hindu giáo chú
trọng ở vấn đề đưa bản ngã con người ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ý thức, còn Phật
giáo thì lại phát triển Ý thức lên đỉnh điểm của nhận thức, tức là Diệu Quan Sát Trí để
chuyển hóa tâm thức và giác ngộ thật tính các pháp.
3.2.2. Luân hồi trong đạo Phật
Luân hồi trong đạo Phật được cho là vòng quay của Thập Nhị Nhân Duyên. Bởi mười
hai nhân duyên ấy mà chúng sanh có sinh sinh hố hố mãi, khởi điểm và kết thúc của
vịng ln hồi. Luân hồi là từ dịch của từ Pàli “Samsàra” (hay Skt, Samsàra) có nghĩa
là sự chuyển sinh, sự tái sinh, sự đi đến. Thường, từ nói đủ là bánh xe sinh tử, hay
bánh xe chuyển sinh (Samsàracakka), diễn đạt đường sinh tử khơng có đầu, khơng có
đi, quay mãi như bánh xe quay trịn khơng tìm thấy điểm khởi đầu. Đây là ý nghĩa

của từ luân hồi (luân: bánh xe, hồi: quay tròn). Sách Atthasalĩnĩ định nghĩa danh từ
Samsãra như sau: “Luân hồi là sự tiếp diễn không ngừng của Ngũ uẩn, Tứ đại và Lục
căn”. Giáo lý Thích Ca cho rằng rằng chấp ngã là nguồn gốc sinh ra vô minh, và vô
minh là đầu mối của luân hồi sanh tử và đau khổ. Nói đến Luân hồi người ta thường
quan niệm cái ta chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Nhưng Phật giáo cho quan niệm
về cái ta trường cửu là quan niệm sai lầm và hoàn tồn giả tưởng. Ln hồi là để cầu
giải thốt, nghĩa là dùng nó để diệt cái Ta (ngã) hầu thốt khỏi luân hồi sinh tử. Theo
Phật giáo, nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là tam độc, gồm có tham ái (sa. tṛṣṇā),
sân (sa. dveśa) và si (sa. moha, hoặc vô minh, sa. avidyā). Luân hồi tuân theo nguyên
tắc của luật nhân quả qua sáu cõi, tùy vào nghiệp của chúng sinh đã tạo trong quá khứ
mà chúng sinh đó sẽ tái sinh vào một trong sáu cõi: trời; thần; người; Atula; súc sinh;
quỷ đói (ngạ quỷ); địa ngục. Nghiệp (Karma), theo đúng định nghĩa của danh từ là
hành động hay việc làm.Theo Phật giáo, nghiệp được gây nên bởi hành, cụ thể là do
thân, miệng, ý tạo ra. Chúng ta sinh ra trong trạng thái mà chính hành động của ta
trong quá khứ đã tạo nên. Nếu trong kiếp hiện tại mặc dầu sống đời sống trong sạch
mà ta gặp phải những điều bất hạnh thì ta nên biết rằng đó là do nghiệp xấu của ta
trong quá khứ. Trái lại, nếu sống đời nhơ bẩn tôi lỗi mà ta vẫn được an vui hạnh phúc,
giàu sang, may mắn, thì đó cũng do nghiệp tốt của ta đã tạo trong quá khứ : Ở đây, này
Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả
báo ác nghiệp". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Vị ấy nói như sau: "Tơi đã thấy ở
đây có người sát sanh, lấy của khơng cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung,
tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Như vậy, Ta cũng chấp
nhận cho vị ấy. Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy
của không cho... ; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục", như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau:
"Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác
như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta khơng chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự
mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố:
"Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng khơng chấp
nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân

biệt về nghiệp.Ở đây, này Ananda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc
chắn khơng có ác nghiệp, khơng có quả báo ác hạnh". Như vậy, Ta không chấp nhận
cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: "Tơi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của khơng
8


cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú,
Thiên giới, cõi đời này". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Cịn nếu vị ấy nói như sau:
"Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng
chung, họ đều sanh vào thiện thú Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp
nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết
một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta
khơng chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở
đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều
là hư vọng". Như vậy, Ta cũng khơng chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy,
này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.Ở đây, này Ananda, Samôn hay Bà-la-mơn nào nói như sau: "Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện
hạnh". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: "Tơi đã thấy ở đây có
người từụ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của khơng cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại
mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy,
Ta cũng chấp nhận cho vị ấy. Cịn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều
sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân
chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta cũng khơng
chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị
ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngồi ra đều là hư
vọng". Như vậy, Ta cũng khơng chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này
Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.Ở đây, này Ananda, Sa-mơn
hay Bà-la-mơn nào nói như sau: "Chắc chắn khơng có thiện nghiệp, khơng có quả báo
thiện hạnh ". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy. Và vị ấy nói như sau: "Tơi đã

thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của khơng cho... có chánh kiến; sau khi
thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục".
Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy. Cịn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn những ai từ
bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của khơng cho... có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng
chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục"; như vậy, Ta cũng khơng
chấp nhận cho vị ấy. Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy
biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như
vậy, Ta cũng khơng chấp nhận cho vị ấy. Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự
mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn
thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng khơng chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ
sao? Khác như vậy, này Ananda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.Ở đây,
này Ananda, người nào sát sanh, lấy của khơng cho... có tà kiến; sau khi thân hoại
mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Hoặc là một ác
nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay một ác nghiệp đưa
đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến
được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người
ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây sát sanh, lấy của khơng cho...
có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một
đời khác.Ở đây, này Ananda, người nào sát sanh, lấy của khơng cho... có tà kiến; sau
khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc
là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện
9


nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung,
một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy sau khi thân hoại
mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát
sanh, lấy của khơng cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên
ngay hiện tại hay trong một đời khác.Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của khơng cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh

vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc
thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người
ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận
và chấp chặt. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú,
Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của khơng cho... có chánh
kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời
khác.Ở đây, này Ananda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có
chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa
xứ, địa ngục... Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ
trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong
khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt. Do vậy, sau khi
thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây
từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của khơng cho... có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả
báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.Như vậy, này Ananda, có
nghiệp vơ hữu tợ vơ hữu, có nghiệp vơ hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp
hữu tợ vơ hữu.” Trích kinh Ðại kinh Nghiệp phân biệt số 36 thuộc trung bộ kinh tập I.
Hoài nghi về cuộc sống của con người sau cái chết vẫn là vấn đề mà tồn thể nhân loại
muốn tìm hiểu. Luân hồi chỉ ngừng khi bản thân chúng ta không cịn tạo nghiệp. Chắc
chắn con người ln tin 12 vịng nhân duyên xoay vần như bánh xe từ vô thủy cho đến
vơ chung. Có người phủ nhận cũng như có người bác bỏ nhưng dù là như thế nào đi
chăng nữa thì với vịng ln hồi ấy vẫn khun con người ta nên sống có ích có trách
nhiệm cũng như tránh làm hại người khác.Khơng ai có thể biết được có cịn gì sau cái
chết. Nhưng bởi có lịng tin về luân hồi nên biết cố gắng hết mình dùng quãng thời
gian được sống để theo đuổi đam mê hay sống với tất cả tình u thương cũng như
hồi bão trong tâm hồn mình đừng để bản thân phải hối hận vì khơng thể làm điều
mình muốn khi cịn sống:Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức,
thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ,
thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não được hiện hữu. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này...
Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các Ơng nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này

khơng có nên cái kia khơng có, cái này diệt nên cái kia diệt", như vơ minh diệt nên
hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên sáu
nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt
nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu,
bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này. (Đại kinh Đoạn
tận ái số 38 thuộc trung bộ kinh).Con người tin chết đi sẽ trải qua vòng luân hồi, kỳ
thực bản thân con người chết đi không phải giống như đèn tắt, cũng không nhất định
là được đầu thai làm người mà chắc chắn sẽ thuận theo nhân dun nghiệp báo mà
chuyển sinh. Theo đó thì người làm việc tốt sẽ được lên thiên đàng còn người làm việc
ác sẽ bị đọa xuống địa ngục chịu tội. Không thể một người luôn làm điều ác mà lại có
10


kết cục giống như người cả đời chỉ biết làm việc thiện giúp người, đó là thiên lý. Sở dĩ
con người ta cho rằng khơng có kiếp sau là bởi vì chính họ khơng tận mắt nhìn nó cho
nên khơng tin. Nhưng có thể thấy trong cuộc sống thường ngày của chúng ta chẳng
phải cũng có rất nhiều điều mà bản thân ta khơng nhìn thấy nhưng nó vẫn ln tồn tại.
Luân hồi giúp con người tự thân cố gắng tự vươn lên trong cuộc sống mà khơng ốn
trách một ai. Đời sống không được xem như bắt đầu với việc sinh hay chấm dứt với sự
chết, nhưng nó như là một sự hiện hữu tương tục trong hiện tại và mở rộng vượt xa
hơn nữa với quá khứ cũng như tương lai. Bản chất của những hành động xảy ra trong
phạm vi một kiếp sống tốt hay xấu quyết định số phận tương lai của mỗi con người.
Luân hồi chắc chắn được liên kết gần gũi với ý tưởng tái sinh, nhưng chủ yếu liên hệ
đến điều kiện của đời sống con người hay những kinh nghiệm về sự sống. Con người
khi sống làm những điều thiện, ác gì, đến khi chết rồi đầu thai lại, chắc chắn sẽ được
hưởng những việc tốt lành và phải trả những quả xấu của nhiều kiếp trước.Đây là
những cảnh giới mà chúng sanh bị hay được nhập vào tuỳ theo nghiệp đã tạo ra từ
trước:
1) Địa ngục: Tạo ra nhân sân hận, độc ác làm nhiều tội lỗi vừa hại mình hại người,
phải chịu vào địa ngục để chịu cực hình khổ sở.

2) Ngạ quỷ: Nhân do tham lam, bỏn xẻn không có lịng từ bi thương xót những người
khác để bố thí tài vật, giáo pháp, thân mạng, trái lại cịn có những mưu kế hiểm độc,
để cướp của, đoạt vật của người khác, khi chết thành lồi quỷ đói.
3) Súc sanh: Tạo nhân si mê tham đắm trong dục tình, tửu sắc không biết hay dở, tốt
xấu ở trên đời, sau khi chết sẽ sanh làm súc sanh.
4) A tu la: Gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc tàn bạo cũng không tránh, vừa cang
trực, vừa độc ác. Như thế dù có làm những việc phước thiện, nhưng tánh tình hung ác,
nóng nảy lại thêm si mê, theo tà giáo. Tạo nhân như vậy nên thành A tu la sống vui
sướng cũng có mà buồn khổ cũng nhiều.
5) Người: Tu nhân tích đức, cần nhất là phải quy y Tam bảo, giữ cho được trọn vẹn
ngũ giới: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không dối trá, không uống
rượu. Đời sau sẽ trở lại làm người.
6) Cõi trời: Bỏ mười điều ác, tu theo mười điều thiện: Khơng sát hại các lồi vật mà
phóng sanh, khơng tà hạnh mà tu hạnh trinh chánh, không trộm cắp của cải người mà
bố thí, khơng nói dối mà nói lời thành thật, khơng nói thêu dệt mà nói lời đúng đắn,
khơng nói phân rẽ mà nói lời hịa giải, khơng nói thơ ác mà nói lời dịu ngọt, khơng
tham dục mà quán bất tịnh, không giận hờn mà quán từ bi, không tà kiến mà quán
nhân duyên. Tu giữ được theo muuời điều thiện nầy, sau khi chết sẽ được sanh vào cõi
trời. Nên nhớ cõi trời cũng trong vòng phàm tục, vẫn chịu cảnh sanh tử luân hồi.Muốn
thoát khỏi vịng sanh tử ln hồi của sáu cõi trên, thì chúng ta phải có nguyện lực tu
giải thốt tiến từ Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát rồi cuối cùng chứng thành Phật quả.

11


C.KẾT LUẬN
Người Tây phương nói chung và người Mỹ nói riêng, hàng ngàn năm qua họ đã Chấp
thường, không tin có luân hồi, có lẽ muốn chứng minh có luân hồi, năm 1994 đài
truyền hình Mỹ ở Washington DC, vào buổi trưa trong nhiều tuần, chiếu những
chuyện có thật đã xảy ra về ln hồi, năm ấy tơi sang đó, đã được nhà văn Nguyễn

Hữu Hiệu dịch giả những sách Tinh Hoa và Sự Phát Triển của Đạo Phật, Chí Tôn
Ca ... do Viện Đại Học Vạn Hạnh ấn hành, anh đã chiếu cho xem một cuốn băng do
anh thu lại của TV, đại khái câu chuyện như sau:Ở bên Anh Quốc, có một người đàn
bà kia, tuổi ngồi ba mươi, bà ta cứ bị ám ảnh mãi về một hải cảng kia, vừa như trơng
đợi một cái gì, vừa hồi hộp lo âu, bà ta cũng bị ám ảnh về một ngôi giáo đường nọ. Để
giải quyết về ám ảnh đó, người ta mới vẽ ngơi giáo đường đăng lên báo, cuối cùng
qua báo chí người ta đã tìm ra được ngơi giáo đường đó, rồi bà ta cũng nhớ được tên
của bà kiếp trước.Theo đó người ta tìm thấy ở giáo đường ấy, có tên của người đàn bà
đó đã thành hơn với một người đàn ơng, rồi người ta lần dị tìm ra người đàn bà ấy đã
chết cũng vào trạc tuổi ba mươi, bà ta có mấy người con trai, vì nhà nghèo nên họ đã
đi tha phương cầu thực hoặc cho làm con nuôi những người khác, bấy giờ người ta
mới tìm những người con của người đàn bà đã chết, họ vẫn còn sống đủ, tất cả tuổi
tròn trèm trên dưới 70. Khi gặp lại họ, bà ta nhớ lại được những người con lúc còn bé,
bà ta kể từng những vết thẹo của mỗi người con đã bị lúc nào, có người ở chỗ kín đáo
bà ta cũng kể rõ, mọi người quyết chắc rằng bà ta kiếp trước là mẹ của những người
con nầy, nay bà ta trẻ mà các con già đã 70.Người con trưởng hồi nhỏ chừng 14, 15
tuổi, đã phải đi theo các thuyền đánh cá để kiếm tiền về ni gia đình, người mẹ chiều
chiều phải ra hải cảng trơng về biển khơi chờ đón con về, những hơm biển động, mưa
to, gió bão, bà mẹ hồi hộp lo âu cho tánh mạng của con, vì vậy mà người đàn bà sau
nầy, đã thường bị ám ảnh về một hải cảng kia.Nhiều sách vở ở Việt Nam cũng như
báo chí ngoại quốc lâu lâu có đăng tin về một chuyện thuộc luân hồi. Riêng Việt Nam
ta có chuyện ơng Thủ Huồng, nay vẫn cịn dấu tích ngơi chùa Thủ Huồng, ở thành phố
Biên Hòa và địa danh Nhà Bè, phát xuất từ cuộc đời của ông, chuyện như sau:Ngày
xưa, có lẽ chừng trên 200 năm trước, tại Cù Lao Phố có ơng Võ Thủ Hoằng làm chức
Nha lại, giàu có nỗi tiếng nhờ cho vay tiền lấy lời nhiều. Vợ mất sớm, chưa con cái,
cảnh quạnh hiu nên ông đi thiếp xuống Âm phủ, lúc đi thiếp, dọc đường ơng thấy có
một cái gơng thật lớn, hỏi người khác, họ cho biết gông ấy dành cho ông Thủ Huồng,
vì ơng ta ở dương trần làm nhiều điều ác đức, nghe vậy sợ quá, ông ta hỏi thêm phải
làm sao để khỏi bị đóng gơng đó, người ta dạy là phải ăn hiền ở lành, tu nhân tích đức.
Khi trở về, ông ta bèn lấy tiền của ra bố thí cho người nghèo, thuở xưa khơng có tàu

bè, đi lại trên sông, biển bằng ghe, ở cửa ba sông nơi Nhà Bè bây giờ hồi xưa khơng
có nhà cửa, đến đó mà khơng có gạo, nước ngọt, củi phải đi vào sơng Sài gịn, đến
Bến nghé (Gia định) mới mua củi, gạo xin nước ngọt được, thấy sự bất tiện đó, cực
nhọc cho những người nghèo, chèo ghe đi lại khó khăn, ơng ta mới làm một cái bè ở
12


giữa ngã ba sông, trên ấy cất một cái nhà để sẳn gạo, củi, muối, nước ngọt cho những
ai qua lại cần cứ lấy mà dùng, thứ nào hết ông cho người tiếp tế thêm, nơi có cái nhà
trên cái bè ấy, dần dần nó trở thành địa danh Nhà Bè cho đến ngày nay.Sau một thời
gian, ông ta lại đi thiếp, thấy cái gông đã nhỏ lại nhưng vẫn cịn, đã thấy kết quả như
vậy, ơng ta về dương thế lại đem hết của cải ra bố thí thêm và cất một ngơi chùa Phật,
ngày nay vẫn cịn, tên là Chùa Thủ Huồng, ở Cù Lao Phố, cách Cầu Gành chừng 2 cây
số ngàn.Một vị thái tử của Tàu mới sanh ra trong lịng hai bàn tay có chữ
"Thủ","Huồng", bên Tàu khơng hiểu nghĩa là gì? (Vì chữ Huồng là chữ Nôm, người
Tàu đọc không được). Sứ Việt Nam được hỏi đến, chỉ biết đọc chữ "Thủ Huồng"
nhưng cũng không biết ý nghĩa. Trở về Việt Nam Sứ tâu lên vua ta, vua cho dị hỏi ra
tơng tích mới trả lời, đó là tên ơng Thủ Huồng người Việt Nam đã chết, nay cịn ngơi
chùa ở đất Biên Hịa. Về sau vị thái tử ấy lên ngôi vua là vua Đạo Quang, nhà vua có
ban cho chùa Thủ Huồng 3 pho tượng Phật.Chuyện nầy liên quan đến Lý Luân hồi,
chắc vua Đạo Quang kiếp trước chính là ơng Thủ Huồng, đã tu nhân tích đức, nay đầu
thai lại làm vua để hưởng phước, cũng nói lên Lý Nhân quả vậy.Lý Luân hồi mới giải
đáp thỏa đáng vì sao người ta giàu, nghèo, sang, hèn..., khi đã hiểu Lý Luân hồi rồi,
chúng ta không nên Chấp đoạn, chấp thường, chúng ta tin giáo lý của Phật là chân lý:
Nguyên nhân chính của sự ln hồi là do mê lầm, nó tác động nghiệp lực để dẫn dắt
tái sanh. Con người sanh trong sáu đường là do nghiệp nhân mà thọ quả báo, lộn lạo
trong sáu đường, có khi là người mà kiếp khác là sanh ở cõi khác, cho nên con người
phải ln ln tu nhân, tích đức. Tự mình gieo nhân nào thì phải hưởng quả nấy,
chẳng sớm thì chầy.Chúng ta đã biết Lý Luân hồi, chúng ta phải gìn giữ về tư tưởng,
lời nói, hành động của mình ln ln được hướng thiện, khi nghiệp ác khơng cịn,

những quả lành đầy đủ, lúc bấy giờ chúng ta thoát khỏi luân hồi, sanh tử đạt đến cảnh
giới Niết Bàn của A la hán, Bồ Tát và Phật.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu sách
1.HT.Thích Minh Châu, Tồn tập Thích Minh Châu(Kinh Trung Bộ),NXB Tổng hợp
TP.HCM,2019.
2. HT.Thích Minh Châu,Kinh trường bộ,Đại tạng kinh Việt Nam.
3.TS Dỗn Chính,TS Nguyễn Văn Chung,Đại cương triết học Phương Đông ,NXB
Thanh Niên,2013.
3. Deepak Chopra 2009, Sự sống sau cái chết, Nhã Nam – Nhà xuất bản Văn Hóa Sài
Gịn.
4. Thích Nữ Giới Hương, 2008, Vịng Ln Hồi, Nhà sách Phương Đơng: Tủ Sách
Bảo Anh Lạc.
5.TT.Thích Giác Dun,Đề cương mơn triết học tơn giáo,HVPG Việt Nam tại Tp
HCM.
6.Nguyên Nhật Trần Như Mai Việt dịch,Lời phật dạy về sự hòa hợp trong cộng đồng
và Xã Hội hợp tuyển tử kinh tạng PāLi,Viện nghiên cứu phật học,NXB Hồng
Đức,2018.
Tài liệu internet
1. Tâm Diệu, Quan niệm giải thốt trong Phật Giáo và Bà La Mơn Giáo –
/>2. Martin Willson, 2006, Ebook Thuyết Luân Hồi và Phật Giáo Tây Phương (Rebirth
and the Western Buddhist), dịch giả Đại đức Thích Nguyên Tạng,
/>3. />
14




×