Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Đề tài: Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 97 trang )



Đề tài tham dự cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010












Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất
nhằm ổn định và phát triển kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay

1

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ADB
Ngân hàng phát triển châu Á
BMI
Cơ quan khảo sát thị trường quốc tế
CSLS
Chính sách lãi suất
CSTK


Chính sách tài khóa
CSTT
Chính sách tiền tệ
DNVVN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
DTBB
Dự trữ bắt buộc
EIU
Cơ quan nghiên cứu độc lập về kinh tế các quốc gia trên toàn cầu
LSCB
Lãi suất cơ bản
LSCK
Lãi suất chiết khấu
LSTCV
Lãi suất tái cấp vốn
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMQD
Ngân hàng thương mại quốc doanh
NHTW
Ngân hàng trung ương
NSNN
Ngân sách Nhà nước
NVTTM
Nghiệp vụ thị trường mở
TCTD
Tổ chức tín dụng
TPTTT

Tổng phương tiện thanh toán
TTCK
Thị trường chứng khoán
TTM
Thị trường mở
TTTC
Thị trường tài chính
TTTT
Thị trường tiền tệ


2


DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. XNK và cán cân thương mại giai đoạn 2002 - nửa đầu năm 2007 35
Bảng 2. Dự báo về chỉ số CPI của IMF trong các năm tới 59
Bảng 3. Dự báo của EIU và BMI về tỷ giá USD/VND 62

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 1. Quan hệ giữa cung cầu vốn và lãi suất 12
Biểu đồ 2: Mô hình khuôn mẫu ưa thích tiền mặt 13
Biểu đồ 3. Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc giai đoạn 2002 – nửa đầu 2007 31
Biểu đồ 4. Khối lượng giao dịch nghiệp vụ TTM từ năm 2002 đến tháng 10 – 2006 32
Biểu đồ 5. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực và tỷ lệ lạm phát CPI: 1996-2007 32
Biểu đồ 6. Tích lũy tài sản quốc gia giai đoạn 2002 – 2007 32
Biểu đồ7. LSCB và lạm phát giai đoạn 07/2007-06/2008 37
Biểu đồ 8. Diễn biến điều chỉnh lãi suất chỉ đạo và dự trữ bắt buộc từ 6/2008 đến 6/2009

43
Biểu đồ 9. CPI so với cùng kỳ năm trước từ tháng 7/2008 đến 6/2009 44
Biểu đồ 10. Các cân đối tiền tệ của Việt Nam từ 10/2007 – 10/2009 44
Biểu đồ 11. Lãi suất huy động và cho vay kỳ hạn 3 tháng từ 7/2008 – 3/2009 45
Biểu đồ 12. Tỷ lệ nợ xấu trong tổng tín dụng ngân hàng 45
Biểu đồ 13. Lãi suất của Ngân hàng nhà nước 48
Biểu đồ 14. Các cân đối tiền tệ (thay đổi so với cùng kỳ, đv: %) 50
Biểu đồ 15. Sự yếu đi của tiền đồng giai đoạn cuối 2009 – đầu 2010 50
Biểu đồ 16. Mối quan hệ giữa lạm phát, TPTTT, và tăng trưởng tín dụng 69

3

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Là tổng hòa các nhóm công cụ nhằm điều chỉnh lãi suất, chính sách lãi suất là
một trong những chính sách quan trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định và phát
triển kinh tế của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam đang từng bước chuyển mình, hội
nhập sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, chúng ta khó tránh khỏi những tác động
tiêu cực từ sự bất ổn của nền kinh tế toàn cầu. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính
trong thời gian qua cho thấy vấn đề nâng cao hiệu quả các công cụ quản lý vĩ mô mà đặc
biệt là chính sách lãi suất nhằm ổn định và phát triển kinh tế là hết sức cần thiết.
Từ những nhận định trên, nhóm nghiên cứu quyết định chọn đề tài nghiên cứu là:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn định và pháp
triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Công tác nghiên cứu tác động và giải pháp nâng cao hiệu quả của các công cụ
điều hành chính sách vĩ mô trong quản lý nền kinh tế trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng đã và đang đạt được những thành tựu nhất định, trở thành tiền đề cho việc
hoạch định chiến lược phát triển của các nhà nước, góp phần khắc phục những mặt trái

của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cùng với quá trình toàn cầu hoá, những mặt trái
của nền kinh tế thị trường ngày càng bộc lộ rõ nét, đa dạng và phức tạp hơn. Công tác
nghiên cứu cũng vì thế ngày càng được đẩy mạnh và đi sâu giải quyết các vấn đề không
chỉ mang tính toàn cầu mà còn phải có tính ứng dụng cao, phù hợp với từng quốc gia,
từng khu vực. Bằng cách tập trung vào tác động của chính sách lãi suất đến kiềm chế
lạm phát và tăng trưởng kinh tế, thông qua việc phân tích những số liệu mới nhất, bài
viết là bức tranh sát thực nhất về chính sách lãi suất đã và đang được NHNN áp dụng tại
thời điểm hiện nay. Nhờ vậy, các giải pháp mà nhóm chúng tôi đưa ra cũng mang tính
thực tiễn khá lớn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

Trong đề tài này, đối tượng nghiên cứu là hiệu quả của chính sách lãi suất đối với
việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Nhóm chúng tôi tập trung phân tích hiệu quả
chính sách lãi suất thời gian tại Việt Nam từ năm 2002 đến 6 tháng đầu năm 2009, và từ
đó đưa ra giải pháp trong 5 năm tiếp theo (từ 2010 đến 2015).
4. Mục tiêu nghiên cứu
Qua việc phân tích, đánh giá và tìm ra nguyên nhân giải thích thực trạng tác động
của chính sách lãi suất lên nền kinh tế Việt Nam, nhóm nghiên cứu sẽ tìm ra các giải
pháp để nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất đối với việc ổn định và phát triển kinh
tế nước ta trong thời gian sắp tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được tiến hành dựa trên các phương pháp thu thập thông tin, xử lý số liệu,
tổng hợp, so sánh, phân tích, và hệ thống hóa.
6. Kết quả nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu, kết hợp phân tích cơ sở lý luận, kinh nghiệm của các
quốc gia trên thế giới cũng như tình hình công tác điều hành chính sách lãi suất và
những đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam, nhóm nghiên cứu nhận thấy tuy đã đạt được
nhiều kết quả hết sức tích cực nhưng chúng ta vẫn còn không ít những mặt hạn chế. Bài

nghiên cứu này sẽ góp phần đưa ra giải pháp có tích ứng dụng và thực tiên cao giúp
nâng cao hiệu quả chính sách lãi suất nhằm mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế trong
giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của bài viết
Ngoài mở đầu và kết luận, bài viết gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về tác động của chính sách lãi suất đến nền kinh tế
Chương II: Thực trạng và tác động của chính sách lãi suất đối với nền kinh
tế Việt Nam từ 2002 đến nay
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm ổn
định và phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay


5


Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦACHÍNH SÁCH LÃI
SUẤT ĐẾN NỀN KINH TẾ
1. Cơ sở lý luận về chính sách lãi suất
1.1. Lãi suất
1.1.1. Định nghĩa và phân loại lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời
gian ( ngày, tuần, tháng hay năm.)
Đây là loại giá cả đặc biệt, được hình thành trên cơ sở giá trị sử dụng chứ không
phải trên cơ sở giá trị.Giá trị sử dụng của khoản vốn vay là khả năng mang lạilợi nhuận
cho người đi vay khi sử dụng vốn vay trong hoạt động kinh doanh hoặc mức độ thoả
mãn một hoặc một số nhu cầu nào đó của người đi vay.Khác với giá cả hàng hoá, lãi
suất không được biểu diễn dưới dạng số tuyệt đối mà dưới dạng tỷ lệ phần trăm. Lãi suất
(interest rate) cũng được xem là tỷ lệ sinh lời (rate of return) mà người chủ sở hữu thu
được từ khoản vốn cho vay.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, có thể phân loại lãi suất theo các cách như

tính chất khoản vay, giá trị thực của tiền lãi, tính linh hoạt của lãi suất, loại tiền cho vay
và nguồn tín dụng hình thành.
 Căn cứ vào tính chất của khoản vay, lãi suất được chia thành lãi suất tiền
gửi ngân hàng, lãi suất tín dụng ngân hàng, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất liên ngân hàng và lãi suất cơ bản.
Lãi suất tiền gửi ngân hàng là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào
ngân hàng.Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau, phụ thuộc vào loại tiền
gửi (nội tệ hay ngoại tệ), loại tài khoản (tiền gửi thanh toán hay tiền gửi tiết kiệm), loại
thời hạn (không kỳ hạn, ngắn hạn hay dài hạn) và qui mô tiền gửi.
Lãi suất tín dụng ngân hàng là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng là
người cho vay. Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tùy theo loại tiền, thời
hạn, phương thức, mục đích của tiền vay, và theo quan hệ giữa ngân hàng và khách
hàng.

6

Lãi suất chiết khấu là mức lãi suất áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay
dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh
toán của khách hàng. Lãi suất chiết khấu được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá
của giấy tờ có giá.
Lãi suất tái chiết khấu được áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian
vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn
chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Lãi suất tái chiếu khấu cũng được tính
bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay
trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ
cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các
ngân hàng trung gian vay của NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển
của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các ngân hàng
trung gian.

Lãi suất cơ bản là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức
lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước,
có thể do NHTW ấn định (Nhật Bản); do tự bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ
vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (Mỹ, Anh, Úc); hoặc căn cứ vào
mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu rồi cộng hoặc trừ biên độ dao động
theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia) … Mặt dù
khác nhau nhưng lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị
trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
 Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi, lãi suất bao gồm lãi suất danh nghĩa,
lãi suất thực.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói cách
khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát,
hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất thực
và lãi suất danh nghĩa được phản ảnh bằng phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát

7

 Căn cứ vào tính linh hoạt, lãi suất được chia thành lãi suất cố định và lãi
suất thả nổi.
Lãi suất cố định là lãi suất được qui định cố định trong suốt thời hạn vay. Lãi suất
cố định có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước, nhưng nhược điểm là bị
ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian dù cho lãi suất thị
trường đã thay đổi.
Lãi suất thả nổi là lãi suất được qui định là có thể lên xuống theo lãi suất thị
trường trong thời hạn tín dụng, có thể được báo trước hoặc không báo trước. Lãi suất thả
nổi vừa chứa đựng cả rủi ro lẫn lợi nhuận. Nếu lãi suất tăng lên, người đi vay bị thiệt
trong khi người cho vay được lợi, ngược lại, với trường hợp lãi suất giảm xuống.
 Căn cứ vào loại tiền cho vay, lãi suất được chia thành lãi suất nội tệ và lãi

suất ngoại tệ.
Lãi suất nội tệ là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ. Lãi suất ngoại tệ: là
lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ.
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là:
i
D
= i
F
+ ΔE
Trong đó: i
D
là lãi suất nội tệ, i
F
là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính
của đồng ngoại tệ.
 Căn cứ vào nguồn vốn tín dụng trong nước, lãi suất bao gồm lãi suất trong
nước và lãi suất quốc tế.
Lãi suất trong nước hay lãi suất nội địa là lãi suất được áp dụng cho các hợp đồng
tín dụng trong một quốc gia.
Lãi suất quốc tế là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng quốc tế.Các hợp
đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường quốc gia nào thì lãi suất của
thị trường quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế.
1.1.2. ộ t
1.1.2.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn vay
Đường cung cầu vốn vay cho các nhà kinh tế học một mô hình để xác định lãi
suất thị trường, được gọi là mô hình “Khuôn mẫu tiền vay”.

8



Biểu đồ 1. Quan hệ giữa cung cầu vốn và lãi suất
i - Lãi suất

LS - Lượng cung vốn
O
LD - Lượng cầu vốn vay

L - Vốn vay
a) Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung vốn
Cung vốn vay tăng sẽ làm đường cung vốn dịch sang phải và ngược lại.
Thứ nhất,tài sản và thu nhập của các chủ thể kinh tế tăng trong giai đoạn đang
tăng trưởng kinh tế, làm tăng cung vốn vay.
Thứ hai,lợi tức dự tính của các công cụ nợ tăng lên sẽ làm nhu cầu mua các công
cụ đó tăng lên, tức là cung vốn vay tăng.
Thứ ba,rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên thì việc cho vay trở nên kém hấp dẫn,
cung vốn vay giảm xuống.
Thứ tư,tính lỏng của các công cụ đầu tư cao làm tăng nhu cầu đầu tư vào chúng,
vì vậy cung vốn vay tăng lên.
b) Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu vốn
Cầu đi vay tăng làm đường cầu vốn dịch chuyển sang phải và ngược lại.
Thứ nhất,khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư càng nhiều thì càng làm
tăng nhu cầu đi vay, nhất là trong điều kiện kinh tế tăng trưởng. Tuy nhiên, kinh tế phát
triển, của cải tăng lên sẽ kích thích tăng cung vốn vay. Như vậy, lãi suất cân bằng tăng
hay giảm còn phụ thuộc vào mức độ dịch chuyển của các đường cung cầu vốn vay.
Thứ hai,lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống,
điều này làm tăng nhu cầu vay vốn, đồng thời lợi tức dự tính của việc cho vay giảm làm
giảm cung vốn vay. Đường cầu vốn dịch chuyển sang phải và đường cung vốn dịch sang
trái dẫn đến lãi suất tăng.

9


Thứ ba,tình hình ngân sách chính phủ, thiếu hụt ngân sách chính phủ lớn sẽ làm
tăng nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.
1.1.2.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung, cầu tiền tệ
Theo mô hình “Khuôn mẫu ưa thích tiền mặt”, lãi suất cân bằng thay đổi khi các
đường cung, cầu tiền tệ dịch chuyển.
Biểu đồ 2: Mô hình khuôn mẫu ưa thích tiền mặt
i MS1 MS2

i
1


I MD

M
1
M
2
M
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền
Thứ nhất,thu nhập tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch và làm
nơi cất giữ giá trị, do đó làm cho lượng cầu tiền tăng lên và ngược lại.
Thứ hai, mức giá tăng sẽ làm lượng cầu tiền tăng lên làm cho cầu tiên danh nghĩa
tăng lên, còn cầu tiền thực tế ứng với một mức lãi suất và thu nhập nhất định có xu
hướng không đổi.
a) Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Cung tiền tăng làm đường cung tiền dịch sang phải và ngược lại.
Trước hết, chính sách tiền tệ của các NHTƯ tác động tới cung tiền trong nền kinh
tế. Dưới đây là bốn tác dụng của CSTT mở rộng tới lãi suất:

Tác dụng tính lỏng: CSTT mở rộng làm cung tiền tăng, đường cung tiền dịch
sang phải làm lãi suất giảm xuống.
Tác dụng thu nhập: Lượng tiền cung tăng lên làm cho tăng thu nhập quốc dân và
của cải nên đường cầu tiền dịch sang phải, do đó lãi suất tăng.
Tác dụng mức giá: Lượng tiền cung ứng tăng cũng làm cho mức giá chung tăng,
dẫn đến lãi suất tăng.

1
0

Tác dụng lạm phát dự tính: Lượng tiền cung ứng tăng khiến cho mức lạm phát dự
tính cao hơn, dẫn đến lãi suất tăng cao hơn.
Như vậy, lãi suất giảm khi tác dụng tính lỏng vượt trội hơn các tác dụng khác và
ngược lại.
Ngoài ra, mức độ phụ thuộc của NHTƯ vào chính phủ và chế độ tỷ giá hối đoái
của nước đó cũng ảnh hường tới cung tiền. Nếu sự phụ thuộc của NHTƯ vào chính phủ
cao thì tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo sức ép khiến NHTƯ phải in
tiền mua các chứng khoán chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, dẫn đến tăng
cung tiền. Thêm vào đó, một chế độ tỷ giá hối đoái cố định đòi hỏi sự can thiệp của
NHTƯ vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, nên cũng ảnh
hướng đến cung tiền.
1.2. Chính sách lãi suất của NHTW
1.2.1. Khái niệm chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất là một bộ phận của CSTT mà ở đó NHTW (hay một cơ quan
tương đương) sử dụng các công cụ của mình để quản lý và điều tiết lãi suất thị trường;
kiểm soát lượng cung tiền, lạm phát và duy trì sự ổn định của một số biến số kinh tế
quan trọng khác; nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của CSTT trong từng thời kỳ
như ổn định giá trị tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, cũng như các mục tiêu xã hội hợp lý
khác.
1.2.2. Mục tiêu của chính sách lãi suất

 Kiểm soát lạm phát:Trong nền kinh tế thị trường, kiểm soát lạm phát, ổn
định sức mua của đồng tiền là yếu tố cơ bản giúp ổn định nền kinh tế, tạo đà cho sự tăng
trưởng. Trong thực tế, cứ tăng trưởng kinh tế cao thì thường kéo theo lạm phát. Hiện
tượng này gần như là một nguyên lý mà các nhà kinh tế, kế hoạch, tài chính quốc gia
phải luôn luôn quan tâm để hài hoà giữa phát triển và kiểm soát lạm phát, trong đó việc
cân đối liều lượng, thời điểm, phương thức áp dụng các biện pháp là rất quan trọng. Nếu
như lạm phát không được kiểm soát sẽ dẫn đến những hậu quả không chỉ về kinh tế mà
còn cả về xã hội cho quốc gia, triệt tiêu hiệu quả của tăng trưởng kinh tế.

1
1

Mục tiêu kiểm soát lạm phát, do vậy là một trong những mục tiêu rất quan trọng
của chính sách lãi suất của NHTW cũng như chính sách tiền tệ nói chung. Thông qua
các công cụ của chính sách lãi suất, NHTW có thể thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt
hay nới lỏng trong từng thời kỳ để điều tiết và khống chế tỷ lệ lạm phát ở một mức độ
hợp lý.
 Ổn định tỷ giá, đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền:Thông qua
chính sách lãi suất, NHTW có thể duy trì hoặc điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu
kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia, tạo sự nền
tảng ổn định cho các hoạt động kinh tế , đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu.
 Ổn định hệ thống các tổ chức tín dụng và thị trường tài chính :Chính sách
lãi suất của NHTW phải đảm bảo sự hoạt động ổn định của hệ thống các tổ chức tín
dụng, và thông qua đó là sự ổn định ,thông suốt của thị trường tài chính trong mọi điều
kiện kinh tế. Hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như thị trường tài chính
có vai trò đặc biệt với nền kinh tế trong sự phân bổ nguồn lực và thực hiện các mục tiêu
được hoạch định của chính sách tiền tệ.
 Tăng trưởng kinh tế :Chính sách tiền tệ nói chung và chính sách lãi suất
nói riêng về cơ bản và lâu dài phải đảm bảo được sự tăng lên của GDP thực tế. Một nền
kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất cứ một chính sách

kinh tế vĩ mô nào. Sự tăng trưởng kinh tế là nền tảng cho những thay đổi về chất của nền
kinh tế hay quá trình hoàn thiện về mọi mặt bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể
chế.
 Ổn định giá cả trong dài hạn :Ổn định giá cả trong dài hạn là mục tiêu
hàng đầu của chính sách tiền tệ và do đó, cũng là một mục tiêu tối quan trọng của chính
sách lãi suất. Sự cam kết của NHTW về mục tiêu này sẽ thể hiện bởi sự ổn định giá trị
tiền tệ về mặt dài hạn mà không tập trung điều chỉnh sự biến động giá cả trong ngắn
hạn.Ổn định giá cả trong dài hạn có tầm quan trọng đặc biệt cho sự phát triển kinh tế của
quốc gia vì nó tạo nên một môi trường đầu tư ổn định và sự phân bổ nguồn lực có hiệu
quả.

1
2

 Giảm tỷ lệ thất nghiệp: Chính sách lãi suất cũng hướng đến khả năng tạo
công ăn việc làm, giảm áp lực xã hội của thất nghiệp. Mục tiêu này có ý nghĩa quan
trọng bởi chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng của xã
hội cũng như khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội. Giảm tỷ lệ thất nghiệp
đồng thời cũng làm giảm tình trạng căng thẳng ngân sách Nhà Nước, tránh sự thay đổi
cơ cấu chi tiêu ngân sách do sự tăng lên của các khoản trợ cấp thất nghiệp.
1.2.3. Công cụ và cơ chế truyền dẫn
Chính sách lãi suất có thể được NHTW sử dụng nhằm tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp tới mức cung cầu tiền tệ từ đó đạt được các mục tiêu cụ thể để ra trong từng
thời kỳ.
 Tác động trực tiếp thông qua công cụ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
- Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: nếu lãi suất tiền gửi qui định cao, sẽ
thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu
lãi suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng tín dụng.Nếu lãi suất
cho vay qui định thấp, các doanh nghịêp có cơ hội vay được nhiều vốn cho sản xuất kinh
doanh và ngược lại. Nhược điểm của biện pháp điều tiết này là làm cho các NHTM mất

đi tính linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, nó dể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn
trong ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự
trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn
cho vay.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: NHTW có thể ấn định khung
lãi suất dưới nhiều hình thức như lãi suất sàn, lãi suất trần và mức chênh lệch giữa lãi
suất cho vay bình quân với mức lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần, lãi suất cơ bản
vv…và bắt buộc các NHTM phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi
suất. Biện pháp điều tiết này có ưu điểm là các NHTM được phép xây dựng mức lãi suất
linh hoạt hơn và bước đầu có quyền tự chủ qui định mức lãi suất kinh doanh. Đồng thời
giúp cho các NHTM lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kém
hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được
áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế thị trường, lãi suất rất

1
3

nhạy cảm với vốn đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị
trường.
 Tác động gián tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với các
NHTM và TCTD dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá chưa đến thời hạn
thanh toán.Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, NHTW có thể tác động đến khả năng
vay của NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng lên hay giảm xuống. Khi lãi suất
tái chiết khấu tăng lên, các NHTM sẽ bất lợi trong việc vay vốn của NHTW. Trong điều
kiện đó, các NHTM không có khả năng mở rộng tín dụng. Ngược lại, khi lãi suất tái
chiết khấu giảm, các NHTM có khả năng mở rộng cho vay đối với khách hàng. Do đó,
sự thay đổi lãi suất lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng CSTT
của NHTW. Mức độ phát huy hiệu quả các công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về

vốn của NHTM vào NHTW, vì thế nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược
điểm này, NHTW thường sử dụng nó với công cụ DTBB.
- Tỷ lệ DTBB: là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền DTBB và tổng số dư tiền gửi phải
tính DTBB các NHTM thu hút được trong một khoảng thời gian nhất định. Việc qui
định tỷ lệ DTBB tạo điều kiện để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống
NHTM và quan trọng hơn là NHTW sử dụng để tác động đến mức cung tiền tệ. Khi
NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB, làm giảm hoặc tăng khả năng cho vay
của các NHTM đối với nền kinh tế. Từ đó làm giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ để tác
động đến lãi suất thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ mua bán các chứng từ có giá của NHTW
trên TTTT. Thông qua việc sử dụng công cụ này sẽ điều tiết mức dự trữ của các NHTM
và điều tiết mức cung tiền tệ để điều tiết lãi suất trên thị trường. Khi muốn gia tăng khối
lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, NHTW thực hiện mua các
chứng từ có giá trên thị trường. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền, thu hẹp tín
dụng, NHTW bán các chứng từ có giá đang nắm giữ.

1
4

2. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến ổn định và phát triển
kinh tế
2.1. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến lạm phát
Trong nền kinh tế,thông qua việc thực hiện riêng lẻ hoặc phối hợp các công cụ
của chính sách lãi suất, NHTW có thể điều chỉnh được tỷ lệ lạm phát.
Khi lạm phát cao, NHTW sẽ nâng mức dự trữ bắt buộc, khiến hệ số nhân tiền và
cung tiền tệ giảm, dẫn tới khả năng cho vay, khả năng thanh toán của các ngân hàng
cũng như khối lượng tín dụng trong nền kinh tế bị thu hẹp. Lãi suất do đó tăng lên, đầu
tư giảm xuống. Điều này khiến tổng cầu về tiền tệ giảm, kéo theo giảm giá, hay tỷ lệ lạm
phát giảm. Ngược lại, nếu NHTW hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thì cung về tín dụng của
các NHTM, khối lượng tín dụng và thanh toán trong nền kinh tế có xu hướng tăng, đồng

thời mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền cũng sẽ
dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng).
Lãi suất chiết khấu cũng tác động không nhỏ đến chỉ số lạm phát. Khi NHTW
nâng lãi suất chiết khấu, NHTM buộc phải nâng lãi suất tín dụng của mình để không bị
lỗ vốn. Do lãi suất tín dụng tăng lên, kéo theo cầu tín dụng (nhu cầu vay vốn) và cầu về
tiền tệ (nhu cầu về giữ tiền của người dân) giảm. Trường hợp ngược lại tức là NHTW
kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát tăng).
Trong nghiệp vụ thị trường mở, với việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, NHTW
có thể điều tiết cả khối lượng tiền tệ và lãi suất tín dụng. Tiền sẽ được đưa vào hoặc rút
ra khỏi lưu thông qua các mua bán các loại trái phiếu ngân hàng quốc gia. Điều này tác
động trước hết đến khối lượng tiền dự trữ trong quĩ dự trữ của các NHTM và các tổ chức
tài chính, hạn chế tiền năng tín dụng và thanh toán của các ngân hàng này, qua đó thay
đổi khối lượng tiền trên toàn thị trường. Rõ ràng, khối lượng tiền tệ ảnh hưởng trực tiếp
tới tỷ lệ lạm phát, do đó điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu sẽ làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Khi có lạm phát, NHTW sẽ tăng lãi suất tiền gửi, nên việc đầu tư vào ngân hàng
(gửi tiết kiệm) mang lại lợi nhuận dự kiến lớn hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, các chủ thể trong nền kinh tế sẽ tự động thắt chặt hơn trong chi tiêu, phân bổ nguồn
vốn… Tỷ lệ lạm phát theo đó cũng giảm xuống.

1
5

Ngoài ra, NHTW còn sử dụng còn dùng hạn mức tín dụng để điều hành, làm cho
khối lượng tín dụng đối với NHTM không vượt quá mức cho phép, để từ đó đảm bảo
mức lạm phát đã được phê duyệt. Khi hạn mức tín dụng giảm, cung tiền giảm, dẫn tới
tổng đầu tư giảm làm cho tổng cầu giảm và cuối cùng làm giá giảm.
2.2. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến tiêu dùng, tiết kiệm
và đầu tư
Bằng cách tác động vào các công cụ của chính sách lãi suất, NHTƯ có thể làm
giảm hoặc tăng lãi suất tác động đến mức tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư.

Mối quan hệ giữa tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư là nghịch chiều. Cụ thể hơn, tỷ lệ
tiết kiệm càng cao đồng nghĩa tỷ lệ đầu tư cũng cao. Điều đó có nghĩa là nguồn vốn
được tập trung cho tiết kiệm và đầu tư nhiều dẫn đến dành cho hoạt động chi tiêu giảm
đi, nên tỷ lệ tiêu dùng thấp.
Về đầu tư, mức lãi suất cho vay thấp khiến các doanh nghiệp dễ dàng vay vốn mở
rộng sản xuất và đầu tư vào thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại. Thêm vào đó,
nguồn thu lại từ những khoản đầu tư như vậy thì có giá trị tại thời điểm khi mà lãi suất
thấp hơn khi là lãi suất cao. Điều này khiến cho các doanh nghiệp lãi nhiều hơn khi đầu
tư với mức lãi suất thấp, do đó, năng suất lao động tăng mạnh giúp kinh tế phát triển
nhanh hơn và tổng thu nhập quốc dân tăng lên. Mặt khác, lãi suất chính là chi phí cơ hội
của các dự án đầu tư, giúp lựa chọn các cơ hội đầu tư. Ví dụ như cá nhân chỉ gửi tiết
kiệm khi lãi suất tiết kiệm đem lại cao hơn món đầu tư khác hay doanh nghiệp chỉ đi vay
ngân hàng khi lợi nhuận kỳ vọng cao hơn lãi suất cho vay.
Về tiết kiệm và tiêu dùng, lãi suất thay đổi sẽ ảnh hường tới tiết kiệm và tiêu
dùng. Lãi suất cao sẽ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư nhiều hơn là tiêu dùng từ đó làm
giảm tổng cầu trong nền kinh tế, và ngược lại. Tổng cầu giảm dẫn đến tổng thu nhập
quốc dân giảm khiến cho giảm cầu tiền. Cầu tiền giảm lại làm lãi suất giảm lại khiến tiêu
dùng tăng lên.
Như vậy, mọi sự điều tiết lượng cung tiền của NHTƯ bằng các công cụ của chính
sách lãi suất, sẽ tác động lãi suất trên thị trường từ đó làm thay đổi tỷ lệ giữa tiết kiệm -
đầu tư và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế.

1
6

2.3. Tác động của lãi suất, chính sách lãi suất đến tỷ giá và hoạt động
xuất nhập khẩu
Lãi suất và tỷ giá là hai biến số nhạy cảm trong nền kinh tế, đồng thời là hai công
cụ song hành của chính sách tiền tệ và có tác động qua lại lẫn nhau. Tác động của lãi
suất lên tỷ giá hối đoái là tác động gián tiếp xuất phát từ sự chênh lệch lãi suất giữa đồng

nội tệ và đồng ngoại tệ, thông qua cung cầu tiền tệ trên thị trường ngoại hối.
Xét trong điều kiện không có yếu tố lạm phát, khi lãi suất nội tệ cao hơn lãi suất
ngoại tệ (chính sách lãi suất cao) sẽ có tác động làm chuyển hóa lượng ngoại tệ trong
nền kinh tế sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao hơn đồng thời hấp dẫn các luồng vốn
nước ngoài chảy vào trong nước. Điều này làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng
có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá,
hay đồng nội tệ sẽ tăng giá, dẫn đến tỷ giá giảm. Một chính sách lãi suất thấp, tương tự
như vậy sẽ có hiệu ứng theo hướng ngược lại lên tỷ giá.
Trong điều kiện có yếu tố lạm phát, sự chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ và
ngoại tệ phải được đánh giá trên cơ sở lãi suất thực. Sự chênh lệch về lãi suất thực mới
tạo ra sự lưu chuyển và chuyển đổi vốn trên thị trường ngoại hối, và qua đó ảnh hưởng
lên tỷ giá hối đoái.
Như đã nói ở trên, mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái là mối quan hệ
gián tiếp, lô-gic, không phải là mối quan hệ trực tiếp hay nhân quả. Tỷ giá hối đoái được
hình thành trên cơ sở cung và cầu ngoại tệ, và chủ yếu do tình trạng dư thừa hay thiếu
hụt của cán cân thanh toán quyết định. Sự thay đổi tỷ giá là quá trình chịu tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, các yếu tố này thường đan xen vào nhau và tùy
thuộc lẫn nhau, trong từng hoàn cảnh và thời điểm cụ thể có yếu tố nổi bật trở thành
nguyên nhân của sự thay đổi tỷ giá, cũng có yếu tố trở thành hệ quả của sự thay đổi tỷ
giá. Mặt khác, tác động của lãi suất lên tỷ giá thông qua cung cầu ngoại tệ nói trên chỉ
đúng với các nền kinh tế mở có đồng tiền tự do chuyển đổi và tự do lưu chuyển vốn.
Như vậy, lãi suất và chính sách lãi suất chỉ có một ảnh hưởng nhất định và có giới hạn
lên sự biến động của tỷ giá hối đoái, và trên thực tế dự đoán và điều tiết, xử lý tác động
của lãi suất đến tỷ giá là một vấn đề khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, chính sách lãi suất

1
7

hiện nay vẫn có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh sự tăng giảm của tỷ giá hối
đoái.

Bằng sự tác động lên tỷ giá hối đoái, lãi suất và chính sách lãi suất cũng tác động
đến hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia. Bởi sự biến động của tỷ giá hối đoái tác
động trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu thông qua kênh giá cả. Chẳng hạn khi
TGHĐ tăng, đồng nội tệ mất giá. Sự biến động này có lợi cho hoạt động xuất khẩu vì giá
xuất khẩu của hàng hoá và dịch vụ của nước đó sẽ giảm đi tương đối trên thị trường
nước ngoài, với điều kiện giá cả hàng hoá và dịch vụ đó giữ ở mức ổn định trên thị
trường nội địa. Đồng thời, giá cả hàng nhập khẩu sẽ đắt lên tương đối trên thị trường nội
địa với điều kiện giá nhập khẩu ổn định, dẫn đến giảm nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá
hối đoái giảm sẽ dẫn đến xu hướng giảm trong xuất khẩu và tăng trong nhập khẩu của
quốc gia.
2.4. Tác động của lãi suất đến phân bổ nguồn lực
Tất cả các nguồn lực đểu có tính khan hiếm. Vấn đề đặt ra là xã hội phải phân bổ
và sử dụng các nguồn lực này như thế nào sao cho đặt được hiệu quả cao nhất. Trong
nền kinh tế thị trường, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phân bổ các
nguồn lực giữa các ngành, các thành phần kinh tế.
Như ta đã biết, lãi suất cũng là một loại giá cả mà người đi vay vốn phải trả cho
người cho vay vốn trong một thời gian nhất định để có được quyền sư dụng vốn vay.
Như vậy, lãi suất cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc phân bổ hiệu quả các
nguồn lực khan hiếm của xã hội.
Người vay vốn phải có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi vay sau một thời gian nhất
định như đã thoả thuận. Chính vì vậy, người vay vốn phải tính toán và cân nhắc sao cho
có thể sử dụng vốn vay một cách hiệu quả nhất. Họ phải nỗ lực, tận dụng hết các khả
năng của mình, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. Đây chính là một yếu tố kiên quyết giúp cho những người vay
vốn phân bổ và sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả.
Mặt khác, người cho vay vốn cũng phải cân nhắc giữa tiền lãi mà họ nhận được
với những chi phí và rủi ro mà họ phải chấp nhận khi cho vay. Người cho vay sẽ quan

1
8


tâm đến việc khoản vay của họ có thực sự tiềm ẩn nhiều rủi ro hay không hay người đi
vay có đủ khả năng hoàn trả tiền và lãi vay khi đến hạn hay không. Người cho vay chỉ
cho vay khi họ nhận thấy con nợ của mình hoạt động thực sự hiệu quả. Chính điều nay
giúp cho các nguồn lực tài chính được phân bổ đúng đắn đến những người sử dụng
chúng một cách hiệu quả nhất. Một dự án nào càng đem lại hiệu quả cao thì càng thu hút
nhiều nguồn lực đổ vào đó.
Từ đó, ta có thể kết luận được rằng, lãi suất là một loại giá cả, nó có vai trò quan
trọng trong việc phân bổ một cách hiệu quả các nguồn lực vốn đã khan hiếm của xã hội
và là yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến bất kỳ quyết định cho vay nào.
3. Bài học kinh nghiệm: Chính sách lãi suất của Trung Quốc hậu khủng
hoảng kinh tế
3.1. Cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC)
Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC) là ngân hàng trung ương của Trung
Quốc. Mục tiêu chính của PBC là duy trì sự ổn định giá cả trong nước và tạo điều kiện
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tuy nhiên PBC cũng cần phải đảm bảo các mục tiêu khác
như: quản lý ngoại hối, ổn định tỷ giá, ổn định thị trường tài chính vv…
Hoạt động của PBC nằm dưới sự chỉ đạo của chính phủ, mô hình này được gọi là
độc lập tự chủ hạn chế, đây là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ là nơi
quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá
trình triển khai thực thi CSTT.
PBC điều hành chính sách lãi suất bằng cả hai biện pháp là kiểm soát trực tiếp và
gián tiếp lãi suất TTTT. PBC xác định các mức lãi suất cơ bản đối với tiền gửi và cho
vay của các NHTM đối với khách hàng; các NHTM theo đó sẽ ấn định các mức lãi suất
của mình trong một biên độ nhất định. Đồng thời PBC cũng sử dụng các công cụ gián
tiếp như: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị
trường mở để kiểm soát khối lượng tiền, từ đó tác động đến quan hệ cung cầu vốn trên
TTTT để ổn định hoặc thay đổi lãi suất thị trường.
3.2. Chính sách lãi suất của Trung Quốc hậu khủng hoảng kinh tế


1
9

Là nước láng giềng với nhiều đặc điểm tương đồng trong chính sách điều hành
kinh tế vĩ mô, những giải pháp trong công tác điều hành CSLS của Trung Quốc đã và
đang trở thành những gợi ý tham khảo quý báu cho Việt Nam trong quá trình hoạch định
chính sách và điều hành nền kinh tế vượt qua giai đoạn hậu suy thoái.
Chính sách điều tiết linh hoạt nhằm đối phó khủng hoảng
Kể từ cuối năm 2008 Trung Quốc đã thi hành một loạt các biện pháp nhằm thực
hiện CSTT nới lỏng nhằm đối phó với những tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài
chính tại Mỹ và suy thoái toàn cầu.
Trước hết, Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBC) đã thực hiện chính sách nới
lỏng tín dụng, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp, mở rộng giới hạn sàn của lãi suất
cho vay mua nhà ở cá nhân mang tính thương mại bằng 0,7 lần lãi suất cho vay cơ bản;
điều chỉnh mức tiền trả lần đầu thành 20%. Những động thái trên đã góp phần thúc đẩy
sự phát triển của thị trường bất động sản theo hướng lành mạnh hóa. Đồng thời, PBC
cũng tiến hành giảm dự trữ bắt buộc 4 lần nhằm hỗ trợ tính thanh khoản cho các NHTM
và TCTD.
Cùng với việc điều chỉnh lãi suất và tỷ lệ dự trữ, PBC còn ban hành một loạt các
chính sách tiền tệ nới lỏng thích hợp. Ngày 10/11/2008, PBC tuyên bố xoá bỏ hạn mức
quy mô cho vay tín dụng đối với các ngân hàng thương mại, giúp mở rộng quy mô, tối
ưu hoá cơ cấu cho vay của các TCTD đồng thời khuyến khích và chỉ đạo các tổ chức tài
chính mở rộng quy mô cho vay xuất khẩu.
Trên thị trường mở, kể từ cuối năm 2008, PBC đã từng bước giảm phát hành trái
phiếu, tạm dừng phát hành trái phiếu NHTW có kỳ hạn 3 năm, đồng thời giảm tần suất
phát hành trái phiếu ngân hàng trung ương có kỳ hạn 1 năm và 3 tháng nhằm duy trì
mức độ hợp lý của tính thanh khoản.
Dưới tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với một loạt biện pháp hỗ trợ
kịp thời, nguồn vốn cho vay trong nước tiếp tục được tăng cường, mức độ khuyến khích
đối với nền kinh tế đã từng bước được đẩy mạnh, vì vậy về tổng thể chính sách tiền tệ đã

phát huy tác dụng truyền dẫn hiệu quả. 9 tháng đầu năm 2009, các khoản cho vay mới

2
0

bằng đồng NDT là 8670 tỷ NDT, tăng 5190 tỷ NDT so với cùng kỳ. Trong đó, các
khoản vay mới của cư dân tăng 1840 tỷ NDT, của DNVVN tăng 3080 tỷ NDT
31
.
Chính sách tiền tệ lỏng lẻo một cách thích đáng
Bước sang năm 2010, Trung Quốc chủ trương tiếp tục thực hiện chính sách tiền
tệ nới lỏng ở mức độ phù hợp, hay còn gọi là “lỏng lẻo một cách thích đáng”. Trong đó
việc tăng cường tính trọng điểm, sự linh hoạt và ổn định trong điều hành CSLS được coi
là mục tiêu quan trọng hàng đầu. CSLS sẽ thực hiện theo hướng có sự phối hợp, hỗ trợ
tích cực của chính sách tài chính, chính sách ngành nghề và chính sách phân phối thu
nhập, đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường vốn và tối ưu hóa cơ cấu nguồn cung.
Chính sách tiền tệ nới lỏng cần được duy trì trong năm 2010 này là do việc Trung
Quốc tiếp tục xuất siêu sẽ khiến cho hệ thống ngân hàng hạn chế đầu tư vào thị trường
ngoại hối, đồng thời tạo ra nguy cơ khủng hoảng tiền tệ mang tính hệ thống đối với
NHTW.
Hiện CSLS và chính sách tỷ giá của Trung Quốc đang phải chịu áp lực rất lớn từ
sự xuất siêu, đặc biệt là lượng dự trữ ngoại hối ngày càng gia tăng. Vừa qua, Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc đã phải phát hành tới 3.990 tỷ Nhân dân tệ trái phiếu để giảm
áp lực do lượng cung Nhân dân tệ quá lớn tạo ra.
Kiểm soát chặt chẽ và thay đổi cơ cấu cung cấp vốn cơ bản của Nhà nước
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc kiềm chế lạm phát và khống chế bong
bóng tài sản, Trung Quốc đã có kế hoạch kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc cung cấp
vốn cơ bản của Nhà nước. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả của CSLS, Chính phủ và
NHTW nước này cũng xét tới việc thay đổi cơ cấu cung cấp vốn theo hướng hợp lý và
linh hoạt hơn; hoàn thiện cơ cấu đầu tư và điều chỉnh kết cấu ngành nghề; phát triển

mạnh mẽ thị trường vốn thông qua tăng cường phát hành cổ phiếu mới, tăng cường cung
cấp sản phẩm tài chính, tạo ra sự lưu động vốn trong xã hội; đẩy mạnh việc tung các loại
trái phiếu, cổ phần ra thị trường quốc tế, triển khai thí điểm cải cách thị trường vốn
OTC; đa dạng hóa và mở rộng thị trường vốn, khắc phục triệt để tình trạng tăng trưởng
kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Tạo môi trường bên ngoài thuận lợi cho quá trình thực thi các chính sách tiền tệ

2
1

Để làm được việc này, Chính phủ Trung Quốc đã tập trung vào 4 giải pháp:
Thứ nhất, tăng cường sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài chính. Theo đó, năm 2010, Chính phủ Trung Quốc sẽ giảm thuế doanh nghiệp
một cách hợp lý, điều chỉnh hợp lý các khoản chi và ưu việt hóa cơ cấu đầu tư;
Thứ hai, tích cực mở rộng và điều chỉnh nhu cầu trong nước thông qua các biện
pháp cụ thể như: tăng thu nhập cho người dân, giảm khoảng cách thu nhập, tăng cường
phúc lợi xã hội, kích thích tiêu dùng của các tầng lớp dân cư;
Thứ ba, cải cách công tác quản lý, giám sát về tài chính, đặc biệt là quản lý đối
với lĩnh vực vốn lưu thông của chính quyền địa phương và giám sát rủi ro đối với ngân
hàng thương mại, tối ưu hóa cơ cấu tín dụng để đề phòng rủi ro trong hoạt động tín
dụng;
Thứ tư, tận dụng những cơ hội do “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc” (ACFTA) mang lại để mở rộng xuất khẩu và chuyển dịch nguồn vốn của Trung
Quốc, đẩy nhanh tiến trình quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ.
Thận trọng trong các bước đi cải cách tiền tệ
Mặc dù chịu nhiều áp lực từ nhiều phía về việc thay đổi chính sách tiền tệ, đặc
biêt là từ phía Mỹ, bạn hàng lớn nhất và cũng là quốc gia chịu nhiều thiệt hại nhất từ
chính sách phá giá đồng NDT của Trung Quốc, nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn
kiên định chính sách tiền tệ của mình theo hướng từng bước và thận trọng. Sau khi tuyên
bố chính thức sẽ nâng giá đồng NDT vào ngày 20/06 vừa qua, Trung Quốc đã bốn lần

điều chỉnh tỷ giá USD/NDT nhưng mức điều chỉnh vẫn còn rất hạn chế.
Với những giải pháp đồng bộ, quyết liệt và sử dụng linh hoạt, thận trọng các công
cụ trong CSTT, CSTK, Trung Quốc đã dạt được những thành tựu rất đáng kể trong quá
trình phục hồi kinh tế hậu khủng hoảng. Theo đánh giá bởi các chuyên gia, nền kinh tế
Trung Quốc hiện đang tăng trưởng theo hình chữ “V”. Trong quý I/2010, tỷ lệ tăng
trưởng là 11,9%, lạm phát ở mức thấp 2,2%, trong tháng 5 vừa qua con số này cũng chỉ
dừng lại ở 3,1%. Theo dự đoán của WB, tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong cả năm
2010 sẽ là 9,5% so với mức tăng trưởng bình quân toàn thế giới là 3,4%
32
. Những con số

2
2

nêu trên đã phản ánh tính hiệu quả của sự điều hành vĩ mô nền kinh của Chính phủ
Trung Quốc.
Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi xung quanh chính sách điều hành vĩ mô nói
chung, CSLS nói riêng của chính phủ Trung Quốc, song cho đến nay chúng ta không thể
phủ nhận những thành quả mà nó mang lại. Vẫn còn rất nhiều những khó khăn trước mắt
nhưng với sự điều chỉnh theo cơ chế tự do hóa lãi suất, đưa lãi suất vận hành theo quy
luật cung cầu của thị trường, chính sách lãi suất của Trung Quốc đã và đang đóng một
vai trò quan trọng, trở thành một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế hiệu quả, giúp kiểm
soát và điều hành lãi suất trên thị trường phù hợp vơi các mục tiêu kinh tế vĩ mô của đất
nước, hạn chế và giảm thiểu các tác động tiêu cực của những biến động kinh tế bất
thường trên thế giới.

2
3

Chương II: THỰC TRẠNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT

ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 2002 ĐẾN NAY
1. Vài nét về chính sách lãi suất năm 2000 - 2001
Nhìn chung, cơ chế lãi suất trong những tháng đầu năm 2000 chưa có nhiều thay
đổi so với năm trước đó. NHNN tiếp tục thực hiện nới lỏng lãi suất, và cung cầu vốn thị
trường là yếu tố chủ yếu xác định lãi suất kinh doanh của các TCTD.
Trong 7 tháng đầu năm 2000, thực hiện chủ trương kích cầu, tạo điều kiện cho
TCTD tăng khả năng huy động vốn và tín dụng, khuyến khích các thành phần kinh tế
đầu tư kinh doanh, góp phần chặn đà giảm sút nhịp độ tăng trưởng, NHNN vẫn điều
hành chính sách lãi suất theo trần. Về cơ bản, trần lãi suất vẫn ổn định như các tháng
cuối năm 1999: trần lãi suất VND là 0,85%/tháng đối với thành thị, 1%/tháng đối với
nông thôn. NHNN đã điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay của Quỹ tín dụng nhân dân
cơ sở từ mức 1,5%/tháng xuống 1,35%/tháng; trần lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ vẫn
giữ mức 7,5%/năm
23
. Do cầu vốn tín dụng thấp hơn cung, dẫn tới xuất hiện tình trạng ứ
đọng vốn trong các NHTM, lãi suất tiền gửi VND ngắn hạn giảm xuống mức dưới
5%/năm, lãi suất cho vay phổ biến ở thành thị là 0,6 – 0,8%/tháng, và ở nông thông
1%/tháng. Lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ phổ biến ở mức 6,3% - 7,5%/năm. Mặt khác,
vì lãi suất thị trường quốc tế tăng, các NHTM huy động vốn chuyển ra nước ngoài kiếm
lời, nên lãi suất tiền gửi bằng USD cao nhất trong vòng 4 năm trở lại, đạt mức hơn
6%/năm.
Từ nửa cuối năm 2000, chính sách lãi suất đã có sự thay đổi đáng kể. Cụ thể là
sau một thời gian chuẩn bị, NHNN đã chuyển sang thực hiện cơ chế mới về điều hành
lãi suất:
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản VND
NHNN công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở xác định lãi suất cho vay của các
NHTM. Theo đó, lãi suất cho vay của các NHTM sẽ bằng lãi suất cơ bản cộng thêm một
biên độ lãi suất thích hợp. Lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng dựa trên các nhân tố
chủ yếu: tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường áp dụng đối với khách hàng


2
4

lớn, có uy tín của các NHTM có uy mô lớn, hoạt động kinh doanh bình thường; diễn
biến về lãi suất và biến động vốn huy động, cho vay của TCTD; diễn biến kinh tế vĩ mô;
quan hệ với tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối. Biên độ được quy định hợp lý, đảm
bảo cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh một các linh hoạt, phù hợp với
điều kiện và mức độ rủi ro có thể, đồng thời NHNN kiểm soát được lãi suất.
Cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ
Đối với lãi suất USD, NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay mà chuyển
sang cơ chế lãi suất linh hoạt theo thị trường quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát. NHNN
quy định lãi suất cho vay ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống) không vượt quá mức lãi suất
LIBOR (lãi suất thị trường liên ngân hàng London) hoặt lãi suất SIBOR (lãi suất thị
trường liên ngân hàng Singapore) kỳ hạn 3 tháng + tối đa 1,9%/năm. Lãi suất cho vay
trung, dài hạn (từ 1năm trở lên) không vượt quá mức LIBOR hoặc SIBOR kỳ hạn 6
tháng + tối đa 2,5%/năm.
Đối với các loại ngoại tệ khác, do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động tiền gửi và tín
dụng trên thị trường, nên NHNN cho phép các NHTM tự xem xét quyết định lãi suất
tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế
và cung cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ trong nước.
Theo dõi diễn biến thị trường tiền tệ và kinh tế vĩ mô 5 tháng cuối năm 2000 cho
thấy, cơ chế mới về điều hành lãi suất không làm tăng mặt bằng lãi suất của thị trường.
Trái lại, nó tạo ra cơ chế thông thống cho lãi suất thị trường biến động phù hợp với cung
cầu vốn - nguyên tắc của cơ chế thị trường. Đồng thời, NHNN vẫn kiểm soát nhưng nới
lỏng với biên độ cao hơn, tạo cho sự phân bổ vốn đầu tư, phù hợp với cơ cấu thị trường
tiền tệ. Có thể nói, chính sách lãi suất đã góp phần đẩy nhanh tốc độ hồi phục của kinh tế
nước nhà. Tín dụng tăng trưởng cao trong năm 2000 là 20%, sau 2 năm trì trệ, tạo tiền
đề cho các hoạt động đầu tư và thương mại mở rộng. Chặn đứng được đà giảm sút kinh
tế 5 năm từ 1995 đến 1999, kinh tế bắt đầu bước vào giai đoạn phục hồi với tốc độ tăng
trưởng đạt 6,75%, cao hơn so với chỉ tiêu Quốc hội đề ra là 5,5-6,5%.Thu nhập bình

quân đầu người đạt 393 USD/năm
14
.

×