Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Luan van thạc sĩ luật học pháp luật về thuế tài nguyên từ thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.53 KB, 82 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn tài sản quý giá của quốc gia thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Hầu hết là tài nguyên không tái tạo được
cần được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm
đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế bền
vững trong mối quan hệ hài hoà với giải quyết vấn đề xã hội và mơi trường trước
mắt cũng như lâu dài.
Quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú, nếu được
quản lý khai thác, sử dụng hiệu quả thì nó chính là nguồn lợi lớn và lâu dài cho
sự phát triển của quốc gia. Nếu việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên bừa
bãi, lãng phí sẽ gây hậu quả xấu không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà cịn gây
ảnh hưởng xấu đến mơi trường sống của chính quốc gia đó. Muốn bảo đảm cho
việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên đạt hiệu quả các quốc gia
thường sử dụng nhiều công cụ và biện pháp quản lý khác nhau, trong đó thuế tài
ngun chính là một trong những công cụ mà hầu như quốc gia nào cũng sử dụng
để quản lý tài nguyên thiên nhiên. Nguồn thu thuế tài nguyên chính là một trong
những nguồn thu ngân sách lớn của Nhà nước nhằm phục vụ cho các hoạt động bảo
vệ nguồn tài nguyên.
Việc thu thuế tài nguyên thiên nhiên được pháp luật Việt Nam quy định rõ
tại Luật thuế tài nguyên và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng pháp luật thuế tài nguyên trong thời gian qua nảy sinh khá nhiều vướng mắc
bất cập cần được hoàn thiện và khắc phục trong thời gian tới. Thông qua nghiên cứu
thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, sẽ có thể
làm rõ được một số vướng mắc bất cập, từ đó xác định định hướng hoàn thiện pháp
luật thuế tài nguyên và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, để Luật thuế tài nguyên thực

1



sự phát huy được vai trị tích cực của nó, đồng thời đóng góp một phần quan trọng
cho ngân sách quốc gia.
Như vậy việc lựa chọn nghiên cứu thực hiện đề tài: "Pháp luật về thuế tài
nguyên từ thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa" làm luận văn thạc sĩ luật
học là thật sự có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thuế tài nguyên và pháp luật về thuế tài nguyên là vấn đề đãđược nhiều học
giả tiếp cận và nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và là một vấn đề không
mới ở nước ta. Thời gian qua đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về vấn đề
này được cơng bố, có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau:
- Nguyễn Văn Phương (2018), Tác động của thuế tài nguyên đối với khai
thác tài nguyên thiên nhiên - Qua khảo sát thực tế tại tỉnh Ninh Bình, Luận án tiến
sĩ, Trường Đại học kinh tế Quốc dân;
- Hoàng Thị Hợp (2015), Quản lý thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Nông nghiệp Việt Nam;
- Nguyễn Thị Hồi An (2017), Hồn thiện cơng tác quản lý thuế tài nguyên
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ, Đại học kinh tế Đà Nẵng;
- Nguyễn Thị Thủy (2016), Giải pháp quản lý thuế tài nguyên tại Cục thuế
tỉnh Thanh Hóa, Luận văn thạc sĩ, Đại học kinh tế Huế;
- Trần Thị Phương Nhung (2018), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ
"Nghiên cứu hồn thiện chính sách thuế tài nguyên gắn với phát triển bền vững và
quá trình hội nhập quốc tế", Vụ Chính sách thuế, Bộ Tài chính;
- Nguyễn Thị Diệu Hiền (2012), Phân tích tác động của thuế tài nguyên,
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh;
- Bài viết "Gian lận và chống gian lận trong tuân thủ thuế: Từ lý thuyết đến
thực tiễn ở Việt Nam", của Nguyễn Đình Chiến, đăng trên Tạp chí Thanh tra, Thanh
tra Chính phủ, số 11/2013, tr. 20-22.
- Bài viết: "Tăng cường công tác thanh tra thuế ở Việt Nam", của Nguyễn
Thị Thanh Hồi, được đăng trên Tạp chí Tài chính, số 5, năm 2013.


2


Bài viết Những hạn chế trong quá trình thực hiện thu thuế tài nguyên Việt
Nam, ThS. Hoàng Thị Xinh;… và nhiều bài viết cơng trình nghiên cứu khác.
Kết quả nghiên cứu của các cơng trình này là những tư liệu quý mà luận
văn có thể kế thừa một cách chọn lọc làm nền tảng lý luận cũng như tham khảo về
cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, khảo
cứu tất cả các công trình nghiên cứu trên cho thấy, chưa có cơng trình nghiên cứu
nào nghiên cứu về pháp luật về thuế tài nguyên từ thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh
Thanh Hóa
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đạt được các mục đích cơ bản sau đây:
- Làm rõ những vấn đề về thuế tài nguyên, quy định pháp luật về thuế
tài nguyên.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, làm rõ những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng, nguyên
nhân khách quan, chủ quan.
- Đề xuất một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
4. Nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ
- Nêu và lý giải những vấn đề lý luận chung về thuế tài nguyên.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tài nguyên tại tỉnh
Thanh Hóa. Nêu được những khó khăn, vướng mắc. Xác định được nguyên nhân
của những khó khăn, vướng mắc.
- Nêu định hướng hoàn thiện và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
4.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các quy định pháp luật hiện hành về thuế tài nguyên.

- Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thuế tài nguyên trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa.

3


5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quản lý nguồn tài nguyên của quốc gia;
- Bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể
như phương pháp bình luận, diễn giải; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh
luật học; phương pháp đánh giá; phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp…
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thuế tài nguyên và pháp luật thuế tài nguyên.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa.
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật thuế tài nguyên và giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

4


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ THUẾ TÀI NGUYÊN
VÀ PHÁP LUẬT THUẾ TÀI NGUYÊN
1.1. Khái quát về thuế tài nguyên

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về thuế tài nguyên
Để có thể rút ra được khái niệm, đặc điểm của thuế tài nguyên thì trước hết
cần phải hiểu được tài nguyên là gì, tài nguyên bị thu thuế là thuộc loại tài nguyên nào.
Hiện nay, có rất nhiều định nghĩa về tài nguyên, nhưng tựu chung nhất, tài
nguyên được khái quát như sau: Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được
sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người.
Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội lồi người càng
phát triển, số loại hình tài ngun và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người
khai thác ngày càng tăng. Tài nguyên có thể được phân loại dựa trên nhiều căn cứ.
Theo quan hệ với con người: thì tài nguyên bao gồm tài nguyên thiên nhiên
và tài nguyên xã hội.
Theo phương thức và khả năng tái tạo thì tài nguyên được phân thành tài
nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo.
Theo bản chất tự nhiên thì tài ngun gồm có: Tài ngun nước, tài ngun
đất, tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên năng
lượng, tài nguyên khí hậu cảnh quan, di sản văn hố kiến trúc, tri thức khoa học và
thơng tin.
Tài nguyên bao gồm tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên do con người
sáng tạo ra dưới hình thức vật chất hoặc phi vật chất, như: cánh rừng trồng, hồ nhân
tạo, các sản phẩm trí tuệ, bản phát minh, sáng chế, quy trình cơng nghệ, các giải
pháp hữu ích… tất cả tạo nên điều kiện tổng thể về môi trường, phương tiện, công
cụ thiết yếu phục vụ cho đời sống, sản xuất của xã hội.

5


Trong đó, tài nguyên thiên nhiên là tất cả các nguồn năng lượng, nhiên liệu,
vật liệu tự nhiên có trên trái đất, trong khơng gian mà con người có thể khai thác, sử
dụng phục vụ cuộc sống, sự phát triển của mình và xã hội.
Tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại: tài nguyên tái tạo và tài

nguyên không tái tạo.
Tài nguyên tái tạo (nước ngọt, đất, sinh vật v.v...) là tài ngun có thể tự
duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục khi được quản lý một cách hợp lý. Tuy
nhiên, nếu sử dụng không hợp lý, tài ngun tái tạo có thể bị suy thối khơng thể tái
tạo được. Ví dụ: tài ngun nước có thể bị ơ nhiễm, tài ngun đất có thể bị mặn
hố, bạc màu, xói mịn v.v...
Tài ngun khơng tái tạo: là loại tài nguyên tồn tại hữu hạn, sẽ mất đi hoặc
biến đổi sau q trình sử dụng. Ví dụ như tài ngun khống sản của một mỏ có thể
cạn kiệt sau khi khai thác. Tài nguyên gen di truyền có thể mất đi cùng với sự tiêu
diệt của các loài sinh vật quý hiếm.
Ở Việt Nam, nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân, do nhà
nước thống nhất quản lý. Nhà nước sử dụng thuế để điều tiết đối với hoạt động khai
thác, sử dụng tài nguyên để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm thực hiện
các mục tiêu, định hướng cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài
nguyên, đồng thời tạo lập nguồn tài chính phục vụ cho bảo tồn, phát triển các nguồn
tài nguyên.
Thuế tài nguyên được hiểu là loại thuế gián thu, thu vào hoạt động khai
thác tài nguyên thuộc tài sản quốc gia của các tổ chức, cá nhân khai thác nhằm
khuyến khích việc khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, góp
phần bảo vệ tài nguyên đất nước, bảo đảm cho ngân sách nhà nước có nguồn thu
để bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dị tài ngun.
Hay, thuế tài ngun là loại thuế gián thu, là số tiền mà tổ chức, cá nhân
phải nộp cho nhà nước khi khai thác tài nguyên thiên nhiên (nếu tài nguyên này
thuộc đối tượng chịu thuế).

6


Thuế tài nguyên là một loại thuế điều tiết thu nhập về hoạt động khai thác,
sử dụng tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Đối tượng nộp thuế là các tổ chức, cá

nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt ngành nghề kinh doanh, hình
thức khai thác, hoạt động thường xun hay khơng thường xun có khai thác, sử dụng
tài nguyên từ trong lòng đất, trên mặt đất, trên mặt nước. Đối tượng tính thuế là giá
trị tài nguyên khai thác được. Giá tính thuế là giá bán thực tế bình qn tại thời
điểm tính thuế, có tính đến đặc điểm tiêu thụ tại thị trường Việt Nam và xuất khẩu.
Theo đó, tổ chức, hộ kinh doanh, cá nhân khi khai thác tài ngun thiên
nhiên thì có nghĩa vụ đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế theo quy
định.Riêng với khai thác khống sản thì tổ chức, hộ kinh doanh khai thác có trách
nhiệm thơng báo với cơ quan thuế về phương pháp xác định giá tính thuế đối với
từng loại tài nguyên khai thác, kèm theo hồ sơ khai thuế tài nguyên của tháng đầu
tiên khai thác. Hàng tháng phải thực hiện khai thuế đối với toàn bộ sản lượng tài
nguyên khai thác trong tháng.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của thuế tài nguyên, bao gồm:
Thứ nhất, thuế tài nguyên là một khoản thu của ngân sách nhà nước đối với
người khai thác tài nguyên thiên nhiên do nhà nước quản lý.
Thứ hai, thuế tài nguyên thu trên sản lượng và giá trị thương phẩm của tài
nguyên khai thác mà khơng phụ thuộc vào mục đích khai thác tài nguyên.Mọi tổ
chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên đều phải nộp thuế, khơng phụ thuộc
mục đích sử dụng tài nguyên là gì.
Thứ ba, thuế tài nguyên được cấu thành trong giá bán tài nguyên mà người
tiêu dùng tài nguyên hoặc sản phẩm được tạo ra từ tài nguyên thiên nhiên phải trả
tiền thuế tài nguyên.Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu. Người tiêu dùng hàng
hóa chịu thuế tài nguyên mới là người thực sự chịu thuế, còn đối tượng nộp thuế thì
thường là khơng chịu thuế
Thứ tư, thuế tài nguyên chỉ đánh vào các tài nguyên thiên nhiên gồm:
Khống sản kim loại, khống sản khơng kim loại, dầu thơ, khí thiên nhiên, sản

7



phẩm của rừng tự nhiên, hải sản tự nhiên (động vật và thực vật), nước thiên nhiên,
yến sào thiên nhiên, tài nguyên thiên nhiên khác.
Thứ năm, thuế suất tài nguyên khác nhau ở các tài nguyên thiên nhiên khác
nhau. Tài nguyên thiên nhiên là một loại sản phẩm đặc biệt, khơng giống với các
loại hàng hố thơng thường. Giá trị của mỗi loại tài nguyên thiên nhiên là hoàn toàn
khác nhau. Có những tài ngun là vơ giá, một khi khai thác sẽ khơng thể hoặc rất
khó để tái tạo, phục hồi, do đó, thuế suất của các tài nguyên khác nhau cũng sẽ được
quy định khác nhau.
1.1.2. Vai trò của thuế tài nguyên
- Thuế tài nguyên góp phần bảo vệ môi trường và tạo nguồn thu quan trọng
cho ngân sách nhà nước. Thuế tài nguyên là công cụ quản lý hành chính hữu hiệu
để nhà nước kiểm sốt hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên, tăng thu ngân sách,
định hướng sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ nguồn tài nguyên và thân
thiện với môi trường.
Với mức thuế suất thuế tài nguyên từ 3-35% tuỳ theo từng nhóm khơng
những đã góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước và bình ổn thị trường,
mà cịn góp phần tăng cường quản lý tài ngun; khuyến khích bảo vệ, khai thác, sử
dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên. Luật thuế tài nguyên ra đời đã
nâng cao hiệu lực của chính sách thuế tài ngun hiện hành; khuyến khích địa
phương tăng cường cơng tác quản lý và thu thuế tài nguyên; hạn chế hoạt động khai
thác tràn lan, khai thác không phép. Luật thuế tài nguyên là một trong những công
cụ quan trọng trong việc quản lý tài nguyên. Cùng với quy định thuế tài nguyên (trừ
dầu khí) để lại ngân sách địa phương 100%, việc quy định giao cho Ủy ban nhân
dân (UBND) các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quy định giá tính thuế đối
với một số tài nguyên đã tạo điều kiện để cơ quan quản lý địa phương tăng cường
công tác quản lý đối với hoạt động khai thác tài ngun, hạn chế khai thác khơng
phép, gây lãng phí tài ngun và ơ nhiễm mơi trường.
- Góp phần ổn định sản xuất và chống lạm phát. Tài nguyên thiên nhiên
đóng vai trị trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là một trong


8


những nguồn lực quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Sự phát triển
của hoạt động khai thác, chế biện tài nguyên thiên nhiên, cung cấp nguyên liệu cho
các ngành cơng nghiệp khác, giảm thiểu được tình trạng nhập khẩu nguồn nguyên
liệu, góp phần ổn định sản xuất trong nước, tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập
cho người lao động, nâng cao đời sống cho người dân.
Thuế tài nguyên là yếu tố cấu thành trong giá bán sản phẩm nên sự ổn định
thuế tài nguyên sẽ góp phần ổn định giá và chống lạm phát.
+ Góp phần tăng cường quản lý nhà nước trong việc bảo vệ, sử dụng hiệu
quả nguồn tài nguyên quốc gia: Thuế tài ngun là một trong những cơng cụ tài
khóa giúp Nhà nước quản lý hoạt động khai thác tài nguyên. Với công cụ nay, sẽ là
cơ sở pháp lý giúp Nhà nước điều chỉnh hoạt động khai thác tài nguyên nhằm đảm
bảo việc khai thác, sử dụng nguồn tài ngun có hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí,
đặc biệt là đối với những nguồn tài nguyên quan trọng, khó tái tạo, phục hồi. Mặt
khác, các quy định pháp luật thuế tài ngun cịn góp phần điều tiết hoạt động khai
thác tài nguyên thiên nhiên của các tổ chức, cá nhân nhằm bảo vệ nguồn tài nguyên
thiên nhiên tránh trường hợp cạn kiệt hoặc khai thác quá mức.
+ Góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên đối với sự phát
triển kinh tế đất nước: Tài nguyên là nguồn lực đóng vai trị quan trọng trong
việc phát triển kinh tế đất nước. Với sự phát triển của khoa học kĩ thuật ứng dụng
vào khai thác tài nguyên, hiện nay, nguồn tài nguyên đang dần bị khai thác cạn
kiệt, đặc biệt là những tài nguyên khan hiếm, khó tái tạo phục hồi có giá trị lớn.
Mà hoạt động quản lý việc khai thác tài nguyên lại chưa nghiêm, chưa đáp ứng
được yêu cầu cần được bảo vệ của các nguồn tài nguyên., việc xử lý vi phạm trong
hoạt động quản lý tài nguyên thiếu triệt để dẫn đến tình trạng khai thác trái phép,
tràn lan nguồn tài nguyên diễn ra ngày càng nhiều, gây thất thoát tài nguyên, thất
thu nguồn ngân sách, mất trật tự ổn định xã hội và gia tăng tình trạng ơ nhiễm mơi
trường.

- Bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên. Khi một sắc thuế được ban hành để tác
động lên các đối tượng chịu thuế thì thuế này làm cho giá trị của mặt hàng chịu thuế

9


tăng lên. Khi mặt hàng tăng giá trị làm cho việc sử dụng các tài nguyên này bị hạn
chế đi.
- Phân phối lại thu nhập cho người dân. Những mặt hàng giá trị cao thì chỉ
có những người giàu có mới có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn. Cịn người nghèo thì
ít tiêu dùng hơn. Một phần thuế đi vào ngân sách nhà nước. Phần thuế này đóng góp
vào việc xây dựng các cơng trình cơng cộng, nâng cao đời sống xã hội.
Do đó, Luật thuế tài nguyên là một trong những cơng cụ quan trọng giúp
các cơ quan có thẩm quyền quản lý hoạt động khai thác tài nguyên, góp phần nâng
cao nhận thức về vai trị của tài nguyên trong sự phát triển của đất nước.
1.2. Khái niệm, nội dung cơ bản của pháp luật thuế tài nguyên
1.2.1. Định nghĩa, đặc điểm pháp luật thuế tài nguyên
Pháp luật thuế tài nguyên là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế tài nguyên giữa cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách
nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của pháp luật thuế tài
nguyên như sau:
- Pháp luật thuế tài nguyên là tổng hợp các quy phạm pháp luật được xây
dựng, ban hành theo trình tự thủ tục luật định bởi các cơ quan có thẩm quyền. Các
quy phạm này phải đảm bảo được xây dựng, ban hành đúng trình tự thủ tục pháp luật,
cơ quan ban hành phải là cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Có như vậy, các quy
phạm pháp luật này mới có giá trị pháp lý và có tính bắt buộc thực hiện, áp dụng.
- Pháp luật thuế tài nguyên điều chỉnh mối quan hệ giữa một bên là cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế tài nguyên. Cơ quan nhà nước với tư

cách là chủ thể quyền lực, luôn là một bên tham gia quan hệ thuế và trực tiếp chi
phối quan hệ đó. Pháp luật thuế là do các cơ quan nhà nước xây dựng và ban hành,
việc sửa đổi bổ sung cũng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề xuất. Vì vậy,
trong mối quan hệ pháp luật này, người nộp thuế luôn phải tuân theo những quy

10


định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và chỉ được phép thực hiện,
không được phép thỏa thuận.
- Pháp luật thuế tài nguyên nhằm hướng tới việc chuyển giao bắt buộc một
nguồn tài chính thu từ hoạt động khai thác tài nguyên vào cho nhà nước. Nguồn tài
chính đó nhằm phục vụ lợi ích cơng cộng, điều chỉnh xã hội ở tầm vĩ mô. Mọi
nguồn thu từ thuế đều nhằm mục đích tăng nguồn ngân sách cho nhà nước, đảm bảo
nguồn ngân sách để phục vụ cho các hoạt động của quốc gia, xã hội. Và nguồn thu
từ thuế tài nguyên cũng vậy, cũng là một trong những nguồn tài chính quan trọng
của nhà nước. Tuy nhiên tài nguyên là một loại đối tượng đặc biệt, nhiều loại tài
nguyên không thể phục hồi và tái tạo được nên nguồn thuế tài nguyên cũng có nhiều
điểm khác biệt so với các loại nguồn thuế khác.
1.2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật thuế tài nguyên
1.2.2.1. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi
đất liền, hải đảo, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quy định. Các loại tài nguyên nhân tạo không thuộc đối tượng chịu
thuế tài nguyên.
Đối tượng chịu thuế tài ngun được phân thành các nhóm như sau:
- Khống sản kim loại: Gồm khoáng sản kim loại đen (sắt, man gan, ti
tan…) và khoáng sản kim loại màu (vàng, đất hiếm, bạch kim, thiếc, won fram,
đồng, chì, kẽm, nhơm…).

- Khống sản không kim loại: đất làm gạch, đất khai thác san lấp, xây dựng
cơng trình, đất khai thác sử dụng cho các mục đích khác; đá, cát, sỏi, than, đá q,
… nước khống, nước nóng thiên nhiên.
- Dầu thơ
- Khí than, khí thiên nhiên
- Tài nguyên rừng tự nhiên: gồm các loại thực vật, động vật được phép khai
thác là sản phẩm của rừng tự nhiên, như: gỗ (kể cả cành, ngọn, củi, gốc, rễ… tre,

11


nứa, giang, vầu; các loại dược liệu… và các loại thực vật, động vật được phép khai
thác khác.
- Hải sản tự nhiên: Các loại động vật, thực vật tự nhiên ở biển, sơng, ngịi,
hồ, ao, đầm… thiên nhiên.
- Nước thiên nhiên gồm: Nước mặt (biển, hồ, sông, suối, kênh, rạch, ao,
đập …); nước ngầm dưới đất, trừ nước nóng, nước khoáng thiên nhiên theo quy
định của Luật Khoáng sản.
- Yến sào thiên nhiên
- Tài nguyên khác do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định.
1.2.2.2. Chủ thể
- Người nộp thuế
Theo Điều 3 Luật Thuế tài nguyên: Người nộp thuế tài nguyên là tổ chức,
cá nhân khai thác tài nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên [17].
Người nộp thuế tài nguyên trong một số trường hợp được quy định cụ
thể: Doanh nghiệp khai thác tài nguyên được thành lập trên cơ sở liên doanh thì
doanh nghiệp liên doanh là người nộp thuế; bên Việt Nam và bên nước ngoài tham
gia hợp đồng hợp tác kinh doanh khai thác tài nguyên thì trách nhiệm nộp thuế của
các bên phải được xác định cụ thể trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; tổ chức, cá
nhân khai thác tài nguyên nhỏ, lẻ bán cho tổ chức, cá nhân là đầu mối thu mua và tổ

chức, cá nhân làm đầu mối thu mua cam kết chấp thuận bằng văn bản về việc kê
khai, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân khai thác thì tổ chức, cá nhân làm đầu mối
thu mua là người nộp thuế.
Như vậy, căn cứ để xác định tổ chức, cá nhân nào có nghĩa vụ phải nộp thuế
tài nguyên cho nhà nước Việt Nam là dựa vào dấu hiệu có hoạt động khai thác tài
nguyên thiên nhiên.
Bên cạnh đó, Điều 3 Thơng tư 152/2015/TT-BTC ngày 02/10/2015 của Bộ
Tài chính quy định: Người nộp thuế tài nguyên là tổ chức, cá nhân khai thác tài
nguyên thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên theo quy định tại Điều 2 Thông tư này.

12


Người nộp thuế tài nguyên (dưới đây gọi chung là người nộp thuế) trong một số
trường hợp được quy định cụ thể như sau:
Đối với hoạt động khai thác tài ngun khống sản thì người nộp thuế là tổ
chức, hộ kinh doanh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép khai
thác khoáng sản. Trường hợp tổ chức được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
Giấy phép khai thác khoáng sản, được phép hợp tác với tổ chức, cá nhân khai thác
tài nguyên và có quy định riêng về người nộp thuế thì người nộp thuế tài nguyên
được xác định theo văn bản đó. Trường hợp tổ chức được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp Giấy phép khai thác khống sản, sau đó có văn bản giao cho các
đơn vị trực thuộc thực hiện khai thác tài nguyên thì mỗi đơn vị khai thác là người
nộp thuế tài nguyên. Doanh nghiệp khai thác tài nguyên được thành lập trên cơ sở
liên doanh thì doanh nghiệp liên doanh là người nộp thuế.
Trường hợp bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng tham gia thực hiện hợp
đồng hợp tác kinh doanh khai thác tài nguyên thì trách nhiệm nộp thuế của các bên
phải được xác định cụ thể trong hợp đồng hợp tác kinh doanh; nếu trong hợp đồng
hợp tác kinh doanh không xác định cụ thể bên có trách nhiệm nộp thuế tài ngun
thì các bên tham gia hợp đồng đều phải kê khai nộp thuế tài nguyên hoặc phải cử ra

người đại diện nộp thuế tài nguyên của hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tổ chức, cá
nhân nhận thầu thi cơng cơng trình trong q trình thi cơng có phát sinh sản lượng
tài ngun mà được phép của cơ quan quản lý nhà nước hoặc không trái quy định
của pháp luật về quản lý khai thác tài nguyên khi thực hiện khai thác sử dụng hoặc
tiêu thụ thì phải khai, nộp thuế tài nguyên với cơ quan thuế địa phương nơi phát
sinh tài nguyên khai thác. Tổ chức, cá nhân sử dụng nước từ cơng trình thuỷ lợi để
phát điện là người nộp thuế tài nguyên theo quy định tại thông tư này, không phân
biệt nguồn vốn đầu tư cơng trình thủy lợi.
Trường hợp tổ chức quản lý cơng trình thuỷ lợi cung cấp nước cho tổ chức,
cá nhân khác để sản xuất nước sinh hoạt hoặc sử dụng vào các mục đích khác (trừ
trường hợp sử dụng nước để phát điện) thì tổ chức quản lý cơng trình thủy lợi là
người nộp thuế.

13


Đối với tài nguyên thiên nhiên cấm khai thác hoặc khai thác trái phép bị bắt
giữ, tịch thu thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên và được phép bán ra thì tổ chức
được giao bán phải khai, nộp thuế tài nguyên theo từng lần phát sinh tại cơ quan
thuế quản lý trực tiếp tổ chức được giao bán tài nguyên trước khi trích các khoản chi
phí liên quan đến hoạt động bắt giữ, bán đấu giá, trích thưởng theo chế độ quy định.
- Cơ quan thu thuế
Là cơ quan thuế, ngồi ra cịn có sự tham gia phối hợp của chính quyền địa
phương trong một số trường hợp cụ thể. Chẳng hạn việc quy định giá tính thuế đối
với một số loại tài nguyên do UBND tỉnh, thành phố quy định để áp dụng cho các
trường hợp không thể xác định giá tính thuế theo cách thơng thường (Khoản 4, Điều 6
Luật thuế tài nguyên), hoặc trong một số trường hợp miễn, giảm thuế phải có ý kiến
hoặc xác nhận của chính quyền địa phương hoặc cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực.
1.2.2.3. Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế

và thuế suất (Điều 4 Luật Thuế tài nguyên)
- Thuế tài nguyên phải nộp trong một kỳ được tính như sau (áp dụng thông
tư số 152/2015/TT-BTC ngày 2/10/2015 hướng dẫn về thuế tài nguyên):
Thuế tài
nguyên phải
nộp trong kỳ

=

Sản lượng
tài nguyên
tính thuế

x

Giá tính
thuế đơn vị
tài nguyên

x

Thuế suất
thuế tài
nguyên

Trường hợp được cơ quan nhà nước ấn định mức thuế tài nguyên phải nộp trên một
đơn vị tài nguyên khai thác thì số thuế tài nguyên phải nộp được xác định như sau:

Thuế tài
nguyên phải

nộp trong kỳ

=

Sản lượng
tài nguyên
tính thuế

x

Mức thuế tài nguyên
ấn định trên một đơn
vị tài nguyên khai thác

Về căn cứ tính thuế:
Thứ nhất: Sản lượng tài nguyên tính thuế được quy định tại Điều 5 Luật
thuế tài nguyên như sau: Sản lượng tài nguyên là sản lượng tài nguyên khai thác có
thể bán ra trên thị trường (sản lượng tài nguyên thương phẩm). Tuỳ theo tính chất

14


lý, hoá của loại tài nguyên để xác định theo số lượng, trọng lượng hay khối lượng
tài nguyên khai thác trong kỳ.
Sản lượng tài nguyên làm căn cứ tính thuế là sản lượng tài nguyên khai thác
trong kỳ, không phụ thuộc vào hiện trạng và mục đích khai thác tài nguyên (để bán
ngay, đem trao đổi, tiêu dùng nội bộ, dự trữ đưa vào sản xuất tiếp theo…) cụ thể:
- Tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối
lượng thì sản lượng tài ngun tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng
của tài nguyên thực tế khai thác.

Trường hợp tài nguyên khai thác thu được sản phẩm tài nguyên có nhiều cấp
độ, chất lượng, giá trị thương mại khác nhau thì sản lượng tài nguyên tính thuế được
xác định theo sản lượng từng loại tài nguyên có cùng cấp độ, chất lượng, giá trị thương
mại như nhau hoặc quy ra sản lượng của loại tài nguyên có sản lượng bán ra lớn
nhất để làm căn cứ xác định sản lượng tính thuế cho tồn bộ sản lượng tài nguyên
khai thác trong kỳ (Điều 5 Thông tư 152 hướng dẫn về Luật thuế tài nguyên).
Việc quy định tài nguyên tính thuế dựa trên tài nguyên thực tế khai thác, mà
tài nguyên thực tế khai thác là bao nhiêu lại phục thuộc vào việc tự kê khai của doanh
nghiệp trong khi chưa có sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước nên
gây khó khăn cho việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của các doanh nghiệp khai thác
tài nguyên như nghĩa vụ nộp thuế tài ngun, phí bảo vệ mơi trường. Mặt khác, do
thuế tài nguyên tính trên sản lượng tài nguyên thực tế mà người khai thác khai báo nên
chưa khuyến khích được việc tận dụng được hết tài nguyên trong khai thác chế biến.
Nhiều doanh nghiệp sẽ bỏ lại nơi khai thác những tài nguyên có giá trị thấp, chỉ kê
khai những tài nguyên có giá trị cao, để tránh việc phải nộp thuế tài nguyên đối với
những tài nguyên có giá trị thấp và phí bảo vệ mơi trường. Điều này gây thất thốt,
lãng phí rất lớn nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, cần phải nghiên cứu xem xét
lại để có những biện pháp phù hợp hạn chế tình trạng này diễn ra trong thời gian tới.
- Đối với tài nguyên khai thác chưa xác định được số lượng, trọng lượng
hoặc khối lượng thực tế khai thác do chứa nhiều chất, tạp chất khác nhau thì sản

15


lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo số lượng, trọng lượng hoặc khối
lượng của từng chất thu được sau khi sàng tuyển, phân loại.
Tài nguyên sau khi sàng tuyển, phân loại thu được từng chất riêng thì sản
lượng tài nguyên tính thuế được xác định theo số lượng, trọng lượng hoặc khối
lượng loại tài nguyên hoặc từng chất có trong tài nguyên thu được sau khi sàng
tuyển, phân loại.

Trường hợp đất, đá, phế thải, bã xít thu được qua sàng tuyển mà bán ra thì
phải nộp thuế tài nguyên đối với lượng tài nguyên có trong phế thải, bã xít bán ra
theo giá bán và thuế suất tương ứng của tài ngun có trong phế thải, bã xít.
Đối với tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau (quặng đa kim)
qua sàng, tuyển, phân loại mà không xác định được sản lượng từng chất có trong tài
nguyên khai thác (quặng) thì sản lượng tài ngun tính thuế được xác định đối với
từng chất căn cứ sản lượng tài nguyên thực tế khai thác (quặng) và tỷ lệ của từng
chất có trong tài nguyên. Tỷ lệ từng chất có trong tài nguyên được xác định theo
mẫu tài nguyên khai thác đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm định và
phê duyệt. Trường hợp, tỷ lệ của từng chất có trong tài nguyên khai thác thực tế
khác với tỷ lệ từng chất có trong mẫu tài nguyên (quặng) thì sản lượng tính thuế
được xác định căn cứ kết quả kiểm định về tỷ lệ từng chất có trong tài nguyên khai
thác thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Tài ngun khai thác khơng bán mà đưa vào sản xất sản phẩm khác nếu
không trực tiếp xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thực tế khai
thác thì sản lượng tài ngun tính thuế được căn cứ vào sản lượng sản phẩm sản xuất
trong kỳ tính thuế và định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm.
Định mức sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm do người nộp
thuế kê khai căn cứ dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tiêu chuẩn cơng nghệ
thiết kế để sản xuất sản phẩm đang ứng dụng, trong đó:
+ Trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm tài nguyên thì căn cứ định mức
sử dụng tài nguyên tính trên một đơn vị sản phẩm tài nguyên sản xuất bán ra

16


+ Trường hợp sản phẩm bán ra là sản phẩm cơng nghiệp thì căn cứ định
mức sử tài ngun tính trên một đơn vị sản phẩm cộng nghiệp sản xuất bán ra.
- Nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thuỷ điện thì sản lượng tài ngun tính
thuế là sản lượng điện của cơ sở sản xuất thuỷ điện bán cho bên mua điện theo hợp

đồng mua bán điện hoặc sản lượng điện giao nhận trong trường hợp không xác định
theo hệ thống đo đếm, có xác nhận của bên mua, bên bán hoặc bên giao, bên nhận.
- Nước thiên nhiên: nước khống thiên nhiên, nước nóng, nước dùng cho
mục đích cơng nghiệp thì sản lượng tài ngun tính thuế được xác định bằng m 3
hoặc lít.
- Tài nguyên được khai thác thủ công, phân tán hoặc khai thác lưu động,
không thường xuyên, sản lượng tài nguyên khai thác dự kiến trong một năm có giá
trị dưới 200 triệu đồng thì thực hiện khoán sản lượng tài nguyên khai thác theo mùa
vụ hoặc định kỳ để tính thuế.
Thứ hai: Giá tính thuế
Theo Điều 6 Luật thuế tài nguyên: Giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị
sản phẩm tài nguyên của tổ chức cá nhân khai thác chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Trường hợp tài nguyên chưa xác định được giá bán thì giá tính thuế được
xác định là: Giá bán thực tế trên thị trường khu vực của đơn vị sản phẩm tài nguyên
cùng loại nhưng không thấp hơn giá tính thuế do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương quy định.
Nếu tài nguyên khai thác có chứa nhiều chất khác nhau thì giá tính thuế xác
định theo giá bán đơn vị của từng chất và hàm lượng của từng chất trong tài nguyên
khai thác nhưng không thấp hơn giá tính thuế do UBND tỉnh.
Cụ thể, giá tính thuế tài nguyên trong một số trường hợp được quy định như sau:
- Nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện là giá bán điện thương
phẩm bình quân;
- Gỗ là giá bán tại bãi giao; trường hợp chưa xác định được giá bán tại bãi
giao thì giá tính thuế được xác định căn cứ vào giá tính thuế do UBND tỉnh quy định;
- Tài nguyên khai thác không tiêu thụ trong nước mà xuất khẩu là giá xuất khẩu;

17


- Đối với dầu thơ, khí thiên nhiên, khí than là giá bán tại điểm giao nhận.

Điểm giao nhận là điểm được thoả thuận trong hợp đồng dầu khí mà ở đó dầu thơ,
khí thiên nhiên, khí than được chuyển giao quyền sở hữu cho các bên tham gia hợp
đồng dầu khí.
Ủy ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể giá tính thuế đối với tài nguyên chưa
xác định được giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên, trừ dầu thơ, khí thiên nhiên, khí
than và nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thủy điện.
Mặt khác, theo quy định tại Điều 9 Thơng tư số 152/2015/TT-BTC ngày
02/10/2015 thì: Giá tính thuế là giá bán bình quân một đơn vị sản phẩm tài nguyên
được xác định bằng cách, lấy tổng doanh thu bán tài nguyên chia cho tổng sản
lượng tài nguyên bán ra tương ứng trong năm.
Với quy định này, nếu trong năm, người nộp thuế ln có giá bán tài
ngun cao hơn giá tài nguyên do UBND cấp tỉnh quy định, thì việc tính thuế theo
tháng hay quyết tốn theo năm đều hoàn toàn phù hợp với nhau. Tuy nhiên, nếu
trong năm có tháng người nộp thuế bán tài nguyên thấp hơn giá do UBND cấp tỉnh
quy định thì sẽ dẫn đến chênh lệch giữa tổng số thuế kê khai hàng tháng với số thuế
tài nguyên quyết toán theo năm. Như vậy, Điều 6 của Luật thuế tài nguyên và Điều 9
của Thông tư số 152/2015/TT-BTC đã gây ra cách hiểu khác nhau cho người nộp
thuế, khiến người nộp thuế khi xác định giá tính thuế tài ngun khơng có so sánh
với bảng giá do UBND tỉnh quy định nên mới có sự chênh lệch như trên. Đây cũng
là điểm cần được xem xét, giải quyết để có sự thống nhất áp dụng.
Thứ ba: Về thuế suất
Mức thuế suất tài nguyên được quy định bằng tỷ lệ % áp dụng riêng cho
từng nhóm, từng loại tài nguyên khai thác.
- Biểu khung thuế suất được ban hành kèm theo tại Nghị quyết số
1084/2015/UBTVQH13 ngày 10/12/2015 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Riêng thuế suất cụ thể đối với dầu thơ, khí thiên nhiên, khí than được xác
định lũy tiến từng phần theo sản lượng dầu thơ, khí thiên nhiên, khí than khai thác
bình quân mỗi ngày.

18



Căn cứ vào khung quy định trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
mức thuế suất cụ thể đối với từng loại tài nguyên trong từng thời kỳ bảo đảm
các nguyên tắc sau: Phù hợp với danh mục nhóm, loại tài nguyên và trong phạm vi
khung thuế suất do Quốc hội quy định; Góp phần quản lý nhà nước đối với tài
nguyên; bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên;
Góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách Nhà nước và bình ổn thị trường.
Về cơ bản các quy định về mức thuế suất thuế tài nguyên đã đạt được mục
tiêu đề ra. Khắc phục những tồn tại, hạn chế về mức thuế suất thuế tài nguyên trong
quá trình thực hiện Biểu thuế trước đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với tài nguyên nói chung và bảo vệ nguồn tài nguyên quốc gia nói riêng; đảm bảo
hài hịa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khống sản được khai
thác; đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan
thuế. Tuy nhiên, mức thuế suất thuế tài nguyên hiện hành vẫn chưa thực sự phù hợp để
bảo vệ tài nguyên, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế và yêu cầu ngày càng cao
đối với công tác quản lý nhà nước. Hơn thế nữa, thuế suất hiện hành chưa đảm bảo
đồng bộ hệ thống pháp luật về nguồn thu ngân sách nhà nước. Biểu mức thuế suất
ban hành kèm theo Nghị quyết 1084/2015/UBTVQH13 ngày 10/12/2015 cịn có
những loại quy định theo mục đích sử dụng gây khó khăn cho cơ quan thuế trong
việc xác định và áp dụng thuế suất thuế tài nguyên. Ví dụ như thuế suất đá hoa trắng
so với giá trị của loại tài nguyên này là khá thấp tuy đã được điều chỉnh từ 6% lên
9% nhưng như vậy vẫn chưa phù hợp. Bởi đây là loại tài nguyên có giá trị kinh tế
cao, là loại tài nguyên rất quý hiếm mà chỉ có ở n Bái và Nghệ An, vì vậy rất cần
có điều tiết hợp lý để khuyến khích sử dụng tiết kiệm đối với nguồn tài nguyên này
và chống thất thu tiềm năng đối với loại tài nguyên này. Do đó, việc nghiên cứu,
điều chỉnh thuế suất thuế tài nguyên cho phù hợp vào thời điểm này là cần thiết.
1.2.2.4. Miễn, giảm thuế tài nguyên
Tại Điều 9 Luật thuế tài nguyên quy định người nộp thuế được miễn, giảm
thuế tài nguyên trong các trường hợp sau: Người nộp thuế tài nguyên gặp thiên tai,


19


hoả hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được
xét miễn, giảm thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế
thì được hồn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ
sau; miễn thuế đối với hải sản tự nhiên; miễn thuế đối với cành, ngọn, củi, tre, trúc,
nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô do cá nhân được phép khai thác phục vụ sinh hoạt;
miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho sản xuất thuỷ điện của hộ gia đình, cá
nhân tự sản xuất phục vụ sinh hoạt; miễn thuế đối với nước thiên nhiên dùng cho
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp; nước thiên nhiên do hộ gia
đình, cá nhân khai thác phục vụ sinh hoạt; miễn thuế đối với đất khai thác và sử
dụng tại chỗ trên diện tích đất được giao, được th; đất khai thác để san lấp, xây
dựng cơng trình an ninh, quân sự, đê điều; trường hợp khác được miễn, giảm thuế
do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định.
Tuy nhiên, đối với trường hợp, người nộp thuế tài nguyên gặp thiên tai, hoả
hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét
miễn, giảm thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế thì
được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ sau thì
việc miễn thuế trong trường hợp này là chưa phù hợp. Bởi khi thiệt hại tài nguyên do
thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ đã được cơ quan bảo hiểm chi trả, phần cịn lại được
trừ vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì vậy, việc miễn thuế hoặc hoàn trả
tiền thuế tài nguyên đối với sản lượng tài nguyên tổn thất đã khai, nộp thuế là không
phù hợp, khơng khuyến khích khai thác, quản lý, sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn,
tạo sự không công bằng với đơn vị quản lý tốt. Đề nghị không miễn giảm thuế trong
trường hợp này, đề xuất này cũng đảm bảo tí nh thống nhất với luật thuế thu nhập
doanh nghiệp các thiệt hại này được trừ vào thu nhập tính thuế.
1.3. Pháp luật thuế tài nguyên một số quốc gia trên thế giới và một số
kết luận cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế tài nguyên ở Việt Nam

Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia có thể thấy rằng chính
sách thuế tài ngun của các nước trên thế giới rất đa dạng và thường không theo

20


một khuôn mẫu chung. Phương pháp đánh thuế và mức thuế suất đối với các loại tài
nguyên khác nhau cũng rất khác nhau phụ thuộc vào tầm quan trọng của từng loại
tài nguyên cũng như chính sách của nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường và
đảm bảo nguồn nguyên liệu cho sản xuất trong nước.
Thuế tài nguyên ở Úc bao gồm cả thuế liên bang và các loại thuế tài nguyên
do các bang quy định và thu. Thuế tài nguyên ở Úc được áp dụng đối với các loại
tài nguyên quan trọng như khoáng sản kim loại, quặng sắt, dầu thô, than. Cụ thể
như sau:
Ở cấp bang, thuế tài nguyên được thu theo hai phương thức: tỷ lệ phần trăm
và mức thu tuyệt đối, tuỳ theo loại tài ngun và chính sách của từng địa phương.
Có địa phương áp dụng chính sách thu dựa trên lợi nhuận có được. Đối với mức thu
theo tỷ lệ phần trăm: mức thuế suất nằm trong khoảng từ 2,5% đến 18% (mức 18%
được tính trên cơ sở lợi nhuận có được). Phần lớn các địa phương áp dụng mức thuế
suất trong khoảng từ 2,5% đến 7,5%, tuỳ theo loại tài nguyên. Mức thuế suất có thể
xác định theo đặc điểm mỏ, ví dụ khai thác tài nguyên lộ thiên có mức thuế suất cao
hơn so với khai thác dưới đất. Cơ sở tính thuế là giá trị tài nguyên khai thác [24].
Ở cấp liên bang, từ năm 2012, Úc đưa vào áp dụng thêm một số chính sách
thu từ tài nguyên và mức thu được tính trên thu nhập chịu thuế và tài nguyên chịu
thuế là các loại khoáng sản và dầu khí. Cụ thể như sau:
- Thuế khai thác tài nguyên (Minerals Resource Rent Tax - MRRT:Thuế
khai thác tài nguyên (MRRT) ở Úc có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2012. Người
nộp thuế là người khai thác tài nguyên không tái tạo. Đối tượng chịu thuế khai thác
tài nguyên là quặng sắt và than được khai thác dưới mọi hình thức. Mức thuế suất
đối với quặng sắt và than là 30% tính trên thu nhập chịu thuế.

- Thuế khai thác dầu khí (Petroleum Resource Rent Tax - PRRT): Thuế khai
thác dầu khí tại Úc được áp dụng từ năm 1987 là thuế đánh vào lợi nhuận của các
dự án khai thác dầu khí ngồi khơi. Từ ngày 1/7/2012, thuế khai thác dầu khí được
áp dụng đối với cả các dự án khai thác dầu khí trên đất liền, trừ dự án liên doanh

21


khai thác dầu khí trên vùng biển Ti-mo. Mức thuế suất là 40%. Lợi nhuận tính thuế
là lợi tức từ bán dầu hoặc sản phẩm hóa dầu trừ các khoản chi về vốn và các khoản
chi liên quan trực tiếp đến dự án.
Thuế này chỉ đánh trên giá trị tài nguyên đưa vào chế biến, không đánh trên
giá trị tăng thêm trong hoạt động chế biến [23]. Việc đánh thuế trên giá trị tài
nguyên khai thác mà không đánh trên giá trị tăng thêm ở khâu chế biến, hạn chế
khai thác, khuyến khích sử dụng tài ngun hiệu quả.
Cịn đối với Trung Quốc, thuế tài nguyên được đánh theo giá trị tuyệt đối
trên sản lượng khai thác. Số thuế phải nộp bằng số thuế tuyệt đối, nhân với sản
lượng tài nguyên khai thác. Cách đánh thuế này đảm bảo đơn giản, dễ thực hiện, tạo
sự bình đẳng trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên. Cách đánh thuế này tương tự
như Việt Nam về mức thu phí bảo vệ mơi trường trong khai khoáng, tiền sử dụng
nước, cả hai loại tài nguyên này đều bị thu mức tuyệt đối dựa trên sản lượng tài
nguyên. Mục đích là hạn chế việc khai thác tài nguyên.
Một cách đánh thuế tài nguyên khác, đó là thu thuế tuyệt đối dựa trên sản
phẩm đối với hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên như đất, đá; khai thác nước
mặt, nước dưới lòng đất; xả rác thải gia đình, rác thải cơng nghiệp và xây dựng; khí
gây ơ nhiễm mơi trường, khí thiết bị cơng nghệ thải ra hiệu ứng nhà kính vượt mức
cho phép; hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước; các sản phẩm nguy hại mơi trường;
đóng gói hàng hóa, vật dụng khơng tái sử dụng được; chất phóng xạ…
Sau thành cơng trong chuyển đổi phương thức tính thuế tài nguyên đối với
dầu thơ và khí từ phương thức tính thuế dựa trên sản lượng sang phương thức tính

thuế dựa trên doanh thu, tháng 10/2014, Trung Quốc cũng đã điều chỉnh thuế suất
thuế tài nguyên đối với than cốc và các loại than khác có hiệu lực từ 1/12/2015, với
thuế suất từ 2-10% doanh thu, mức thuế suất sẽ được chính quyền cấp tỉnh quyết
định, phụ thuộc từng khu vực.
Đến năm, năm 2016, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện chương trình cải
cách đồng bộ phương thức tính thuế tài nguyên từ phương thức thu thuế theo mức

22


tuyệt đối sang thu theo tỷ lệ phần trăm trên hầu hết các sản phẩm khoáng sản, trừ
đất sét và đá sa thạch, có hiệu lực kể từ 01/7/2016.
Hay như, Na Uy là một quốc gia có trữ lượng lớn dầu và khí từ biển bắc và
đầu tư lớn trên thế giới. Để hạn chế vấn đề chuyển giá trong ngành dầu khí, chính
phủ Na Uy đưa ra những quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo lợi ích ổn định của chính
phủ và tạo thuận lợi cho nhà đầu tư. Na Uy cho phép nhà đầu tư dầu, khí nộp thuế
trên cơ sở hạch tốn doanh thu, chi phí thực tế và áp dụng thuế suất đến 78% trên
lợi nhuận ròng (lợi nhuận chịu thuế sau khi trừ các chi phí thực tế). Song bên cạnh
đó, họ kiểm sốt chặt chẽ chi phí tài chính, lãi tiền vay, chi phí bảo hiểm, khống chế
chi phí khấu hao 16,7%/năm, áp dụng giá dầu chuẩn theo giá bình qn. Các chi phí
thăm dị, chi phí khơng phát hiện thương mại của các dự án khác nhau được hạch
tốn vào chi phí được thu hồi từ các dự án khác của công ty. Để tránh chuyển giá,
các chuyên gia đặc biệt lưu ý các nước chú trọng quản lý các khoản chi phí tiếp thị,
xúc tiến thương mại của ngành khai thác, đặc biệt đối với các sản phẩm đá quý,
kinh doanh có tính chất độc quyền thương mại, độc quyền sản phẩm [28].
Mặc dù mỗi quốc gia áp dụng cách đánh thuế khác nhau, nhưng có một
điểm chung là chính sách thuế rất đơn giản, dễ thực hiện và đều nhằm mục tiêu là
khai thác tài nguyên một cách hiệu quả, hạn chế khai thác tài nguyên một cách tràn
lan, ồ ạt.
Qua tham khảo chính sách thuế tài nguyên của một số quốc gia cho thấy,

một số cách đánh thuế đối với hoạt động khai thác tài nguyên có thể nghiên cứu, áp
dụng tại Việt Nam, như đánh thuế tuyệt đối thu trên đơn vị số lượng đầu ra. Cách
đánh thuế này có ưu điểm là đơn giản, dễ quản lý, có thể thu ngay khi việc khai thác
được thực hiện. Tuy nhiên, chính sách thuế này ảnh hưởng đến sản lượng khai thác
và chất lượng quặng, hoặc khoáng sản được khai thác trong từng thời kỳ.
Một cách đánh thuế khác, đó là thuế phần trăm đánh trên đơn giá đầu ra. Cách
đánh thuế này giống với thuế tuyệt đối đánh trên đơn vị số lượng sản phẩm đầu ra,
do đó có thể tác động đến quá trình khai thác quặng. Thuế này là một phần cố định

23


trên sản phẩm khoáng sản, hay trên giá trị của nguồn khoáng sản. Việc quản lý này
rất đơn giản và số thu từ thuế sẽ phát sinh ngay từ thời điểm việc khai thác bắt đầu.
Một số nước cũng đánh thuế thu nhập đối với hoạt động khai thác tài
nguyên, nghĩa là hoạt động khai thác tài nguyên cũng phải nộp thuế thu nhập giống
như các lĩnh vực khác. Theo đại diện tổng cục thuế, cái hay của việc đánh thuế thu
nhập đối với hoạt động khai thác tài nguyên ở chỗ, nó khơng tạo nên sự méo mó so
với các loại thuế đánh trên sản phẩm đầu ra. Thực tế là doanh nghiệp thích loại thuế
này hơn vì họ không phải chịu các vấn đề phát sinh như hai cách đánh thuế trên.
Tuy nhiên, với cách thu thuế này, số thuế thu được vào ngân sách nhà nước sẽ thiếu
ổn định, và vì thế dễ gây mất cân đối đối với hoạt động thu ngân sách.
Một cách đánh thuế khác, đó là thuế tài nguyên kết hợp với thuế thu nhập.
Cách đánh thuế này là sự kết hợp giữa thuế đánh trên sản phẩm đầu ra và thuế thu
nhập như đã phân tích trên đây. Theo cách đánh thuế này, thuế tài nguyên sẽ được
tính trên cơ sở tỷ lệ nhất định, áp dụng đối với sản lượng quặng hay giá trị đầu ra,
còn phần thu nhập chịu thuế trong thuế thu nhập được tính trên cơ sở tổng doanh
thu trừ đi chi phí liên quan và thuế tài ngun đánh trên sản phẩm đầu ra. Chính phủ
có thể lựa chọn áp dụng một thuế suất thuế tài nguyên đánh trên đầu ra tương đối
thấp, đồng thời đánh thuế thu nhập thông thường. Cách đánh thuế này đảm bảo có

nguồn thu từ khi bắt đầu khai thác mà khơng gây gánh nặng cho các nhà đầu tư.
Kết luận chương 1
Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của
cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người.
Ở Việt Nam, nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân, do nhà
nước thống nhất quản lý. Nhà nước sử dụng thuế để điều tiết đối với hoạt động khai
thác, sử dụng tài nguyên để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm thực hiện
các mục tiêu, định hướng cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài
nguyên, đồng thời tạo lập nguồn tài chính phục vụ cho bảo tồn, phát triển các nguồn
tài nguyên.

24


Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, là số tiền mà tổ chức, cá nhân phải
nộp cho nhà nước khi khai thác tài nguyên thiên nhiên (nếu tài nguyên này thuộc
đối tượng chịu thuế). Thuế tài nguyên có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của một quốc gia.
Thuế tài nguyên góp phần bảo vệ mơi trường và tạo nguồn thu quan trọng
cho ngân sách nhà nước. Góp phần ổn định sản xuất và chống lạm phát, góp phần
tăng cường quản lý nhà nước trong việc bảo vệ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên
quốc gia và góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của tài nguyên đối với sự phát
triển kinh tế đất nước.
Luật thuế tài nguyên cơ bản đã quy định rõ về đối tượng điều chỉnh, phạm vi
điều chỉnh và các quy định khác trong hoạt động tính thuế tài ngun. Trong đó, căn
cứ tính thuế tài nguyên là sản lượng tài nguyên tính thuế, giá tính thuế và thuế suất.
Việc nghiên cứu các nội dung cơ bản trên ở chương 1, sẽ tạo tiền đề cho
việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa tại chương 2.


25


×