Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ đề tài số 3 giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.06 KB, 18 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
…...o0o…..

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài số 3: Phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận
chung và liên hệ với thực tiễn.

Họ và tên: Bùi Hoàng Mai Linh
Mã SV: 11216943
Lớp: Triết học Mác – Lênin (221)24
Khóa: 63 – GĐ: D_304

Hà Nội - 4/2022

0

0


Mục lục
Trang
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................2
1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.............3
1.1.
Khái
niệm
vật


chất
thức....................................................................................3



ý

1.2. Vật chất quyết định ý thức........................................................................................4
1.3. Ý thức tác động ngược trở lại vật chất.....................................................................7
2. Ý nghĩa phương pháp luận.......................................................................................9
3. Liên hệ với thực tiễn...............................................................................................11
3.1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần vào mối quan hệ biện chứng
giữa
kinh
tế

chính
trị..........................................................................................................11
3.2. Vận dụng vào cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay............................................13
3.3.
Liên
hệ
với
việc
học
nay.....................................................15

tập

của


sinh

viên

hiện

KẾT LUẬN..................................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................17

LỜI MỞ ĐẦU
Thế giới xung quanh ta có vơ vàn sự vật và hiện tượng phong phú, đa dạng. Nhưng
phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng phải quy về hai lĩnh vực, đó là Vật chất và Ý
thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và

0

0


ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác – Lênin là đúng và đầy đủ.
Xã hội loài người tồn tại và phát triển trong quá trình lịch sử lâu dài , trải qua các hình
thái kinh tế – xã hội. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, ý thức hay vật chất là yếu tố thông qua hoạt động
thực tiễn của con người quyết định đường lối chủ trương phát triển kinh tế luôn thu
hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, em đã chọn đề tài 3: “Phân tích quan
niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý
nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ thực tiễn”. Đây được coi là một vấn đề hết

sức quan trọng, bởi nó quyết định sự thành cơng hay thất bại trên con đường đi tới
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này sẽ được lý giải rõ hơn trong phần nội dung của
đề tài.
Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết sẽ khơng thể tránh
khỏi những thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý của thầy giáo cùng tồn thể các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !

1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
1.1.

Khái niệm vật chất và ý thức:

Trước khi phân tích về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo quan niệm duy vật
biện chứng, ta cần tìm hiểu định nghĩa vật chất và ý thức là gì?

0

0


Vật chất là gì?
Theo Lênin thì “Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại; chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.” Như vậy định nghĩa
vật chất của Lê- nin nổi lên một số nội dung cơ bản sau:
 Thứ nhất, vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thứcvà không phụ
thuộc vào ý thức.
 Thứ hai, vật chất là cái gây lên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó
(trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người.
 Thứ ba, vật chất cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản

ánh của nó.

Ý thức là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì ý thức là sự phản ánh một cách năng
động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
Tuy nhiên, khơng phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ não con người thì tự
nhiên trở thành ý thức. Mặt khác, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới,
do nhu cầu cải tạo giới tính tự nhiên của con người quyết định và được thực hiện
thông qua hoạt động lao động. Do đó, ý thức là cái vật chất được đem chuyển vào
trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên cơ sở những gì đã có, ý
thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, có thể hình dung ra những gì khơng
có trong thực tế. Ý thức có thể dự đốn, đốn trước được tương lai, có thể tạo ra
những ảo tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng và
có tính khái qt cao.
Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý thức bao giờ cũng
chỉ là sự phản ánh tồn tại.

0

0


Ý thức là sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển xã hội nên mang bản chất xã hội.
[ Luật Hưng Sơn - Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ý nghĩa
phương pháp luận
heading-7 ]

1.2.Vật chất quyết định ý thức:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái
có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, bởi vì:
 Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của
thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy,
nội dung của ý thức do vật chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định
nội dung mà hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
 Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản
thân thế giới khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật
chất là nguồn gốc của ý thức.
Ví dụ: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về cơng nghệ
thơng tin cịn rất yếu. Nguyên nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng
viên. Nhưng nếu đáp ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu
học, cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật
chất như vậy thì ý thức cũng như vậy.

Vai trị quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện trên mấy khía
cạnh sau:
 Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất “sinh” ra ý thức,
vì ý thức xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của con người
cách đây từ 3 đến 7 triệu năm. Con người do giới tự nhiên, vật chất sinh ra, cho
nên lẽ tất nhiên, ý thức - một thuộc tính của bộ phận con người - cũng do giới

0

0


tự nhiên, vật chất sinh ra. Các thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại đã
chứng minh được rằng, giới tự nhiên có trước con người; vật chất là cái có
trước, cịn ý thức là cái có sau; vật chất là tính thứ nhất, cịn ý thức là tính thứ

hai. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý
thức. Bộ óc người là một dạng vật chất có tổ chức cao nhất, là cơ quan phản
ánh để hình thành ý thức. Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của
bộ não trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Sự vận động của thế
giới vật chất là yếu tố quyết định sự ra đời của cái vật chất có tư duy là bộ óc
người.
 Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức dưới bất kỳ hình thức
nào, suy cho cùng, đều là phản ánh hiện thực khách quan. Ý thức mà trong nội
dung của nó chẳng qua là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào
trong đầu óc con người. Hay nói cách khác, có thế giới hiện thực vận động,
phát triển theo những quy luật khách quan của nó, được phản ánh vào ý thức
mới có nội dung của ý thức. Thế giới khách quan, mà trước hết và chủ yếu là
hoạt động thực tiễn có tính xã hội - lịch sử của loài người là yếu tố quyết định
nội dung mà ý thức phản ảnh. “Ý thức khơng bao giờ có thể là cái gì khác hơn
là sự tồn tại được ý thức” . Ý thức chỉ là hình ảnh của thế giới khách quan. Sự
phát triển của hoạt động thực tiễn cả về bề rộng và chiều sâu là động lực mạnh
mẽ nhất quyết định tính phong phú và độ sâu sắc của nội dung của tư duy, ý
thức con người qua các thế hệ, qua các thời đại từ mông muội tới văn minh,
hiện đại.

 Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức. Phản ánh và sáng tạo là hai
thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Nhưng sự phản ánh của
con người không phải là “soi gương”, “chụp ảnh” hoặc là “phản ánh tâm lý”
như con vật mà lả phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn.
Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật,
hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chúng xem xét thế giới vật chất là

0

0



thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật
chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển
ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để
sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh.
 Thứ tư, vật chất quyết định sự vận động, phát triển của ý thức. Mọi sự tồn tại,
phát triển của ý thức đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất
thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Con người - một
sinh vật có tính xã hội ngày càng phát triên cả thể chất và tinh thần, thì dĩ nhiên
ý thức - một hình thức phản ánh của óc người cũng phát triển cả về nội dung và
hình thức phản ánh của nó, Đời sống xã hội ngày càng văn minh và khoa học
ngày càng phát triển đã chứng minh điều đó.
Lồi người nguyên thuỷ sống bầy đàn dựa vào sản vật của thiên nhiên thì tư duy của
họ cũng đơn sơ, giản dị như cuộc sống của họ. Cùng với mỗi
bước phảt triển của sản xuất, tư duy, ý thức của con người cũng ngày càng mở rộng,
đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú. Con người không chỉ ý thức
được hiện tại, mà còn ý thức được cả những vẩn đề trong quá khứ và dự kiến được cả
trong tương lai, trên cơ sở khải quát ngày càng sâu sắc bản chất, quy luật vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy của họ. Sự vận động, biến đổi không ngùng
của thế giới vật chất, của thực tiễn là yếu tố quyết định sự vận động, biến đổi của tư
duy, ý thức của con
người. Trong nền sản xuất tư bản, tính chất xã hội hố của sản xuất phát triển là cơ sở
để ý thức xã hội chủ nghĩa ra đời, mà đỉnh cao của nó là sự hình thành và phát triển
khơng ngừng lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong đời sống xã hội, vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được biểu hiện ở
vai trò của kinh tế đối với chính trị, đời sổng vật chất đối với đời sống tinh thần, tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội. Trong xã hội, sự phát triển của kinh té xét đến cùng
quy định sự phát triển của văn hóa; đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống
tinh thần cũng thay đổi theo.


0

0


Vật chất và ý thức là hai hiện tượng đối lập nhau về bản chất, nhưng về mặt nhận thức
luận, cần quán triệt sâu sắc tư tưởng biện chứng của V.I.Lênin, rằng “sự đối lập giữa
vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong
trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có
trước và cái gì là cái có sau? Ngồi giới hạn đó, thì khơng cịn nghi ngờ gì nữa rằng sự
đối lập đó là tương đối”. Ở đây, tính tương đối của sự đối lập giữa vật chất và ý thức
thể hiện qua mối quan hệ giữa thực thể vật chất đặc biệt - bộ óc người và thuộc tính
của chính nó.
[ Giáo trình triết học Mác – Lênin 2019 ]
1.3. Ý thức tác động ngược trở lại vật chất:

Điều này được thể hiện trên những khía cạnh sau:


Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ, ý thức là sự phản
ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chát sinh ra, nhưng
khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển
riêng, khơng lệ thuộc một cách máy móc vào vật chất. Ý thức một khi ra đời
thì có tính độc lập tương đối, tác động trở lại thế giới vật chất. Ý thức có thể
thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó
thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
 Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Nhờ hoạt động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những
đỉều kiện, hồn cảnh vật chất, thậm chí cịn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục

vụ cho cuộc sống của con người. Còn tự bản thân ý thức thì khơng thể biến
đổi được hiện thực. Con người dựa trên nhũng tri thức về thế giới khách quan,
hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng,
biện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc
biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân
- lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trị rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán

0

0


cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất
chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng.”
 Thứ ba, vai trò của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động, hành động của
con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay
sai, thanh công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ý thức có thể dự
báo, tiên đốn một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên nhũng
lý luận định hướng đúng đắn và những lý luận này được đưa vào quần chúng
sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức
mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu
cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực. Có thể thấy, sự trở lại của ý
thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:
o Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát
triển.
o Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển
của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy
luật vận động khách quan của vật chất.
 Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trị của thức ngày càng to lớn, nhất là

trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri
thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng.
Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó khơng thể
vượt q tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào
các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động.
Nếu quên điều đó chúng ta sẽ lại rơi vào vũng bùn của chủ nghĩa chủ quan,
duy tâm, duy ý chí, phiêu lưu và tất nhiên không tránh khỏi thất bại trong hoạt
động thực tiễn.

0

0


[ Giáo trình triết học Mác – Lênin 2019 ]

2. Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác - Lênin, rút ra ngun tắc
phương pháp luận là tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường lối, kế hoạch, mục
tiêu, chúng ta đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều kiện, tiền đề vật
chất hiện có. Phải tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không làm
như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu nhũng hậu quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự
vật hiện tượng phải chân thực, đúng đắn, trách tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, khơng
được gán cho đối tượng cái mà nó khơng có. Văn kiện Đại hội XII chủ trương phải
nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật, đánh giá đứng sự thật, nói rõ sự thật.
Nhận thức, cải tạo sự vật hiện tượng, nhìn chung, phải xuất từ chính bản thân sự vật

hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó. Cần phải
tránh chủ nghĩa chủ quan, bệnh chủ quan duy ý chí; chủ nghĩa duy vật tầm thường,
chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khách quan.
 Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tơn trọng các
quy luật tự nhiên và xã hội…
 Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho
mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình;
 Khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người:
 Phải coi trọng vai trị của ý thức, coi trọng cơng tác tư tưởng và giáo dục tư
tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh.
 Phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi

0

0


dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói
chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, tồn cầu
hố hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ,
đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học.
 Phải biết dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết
tìm ra và vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được
mục tiêu để ra một cách tối ưu.
 Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan,
nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo

thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá
trình đổi mới hiện nay.
Để thực hiện nguyên tắc tơn trọng tính khách quan kết hợp phát huy tính năng động
chủ quan, chúng ta cịn phải nhận thức và giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích,
phải biết kết hợp hài hịa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động
cơ trong sáng, thái độ thật sự khách quan, khoa học, khơng vụ lợi trong nhận thức và
hành động của mình.
[ Giáo trình triết học Mác – Lênin 2019
Luật Hưng Sơn - Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ý nghĩa
phương pháp luận
heading-7 ]

3. Liên hệ với thực tiễn:
3.1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần vào mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị:
Như chúng ta đã biết, giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau.
Nhân tố vật chất giữ vai trò là cơ sở, quyết định, còn nhân tố ý thức là có tác dụng trở

0

0


lại đối với nhân tố vật chất. Trong nhiều trường hợp, nhân tố ý thức có tác dụng quyết
định đến sự thành bại của hoạt động con người.
Điều này thể hiện rõ trong tác động của đường lối, các chủ trương, chính sách đổi mới
kinh tế của Đảng. Song xét đến cùng, tác động của ý thức có tính tương đối, có điều
kiện. Vai trị tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định
và điều kiện cụ thể. Vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo quy luật
khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó, và nếu là tiêu cực, ý thức sớm

muộn sẽ bị đào thải. Mặt khác, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh, hơn nữa vai trị
của nó cịn tuỳ thuộc vào mức độ chính xác trong q trình phản ánh hiện thực. Do
vậy, xét tồn cục, ý thức chỉ có được nếu nó thâm nhập vào quần chúng và tổ chức
hoạt động. Nếu như chúng ta đưa nó vào những điều kiện và hồn cảnh cụ thể, thì
chúng ta có thể thấy rằng, giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính trị (biểu hiện
về ý thức) cũng có mối quan hệ rằng buộc với nhau. Bởi vì, chúng ta thấy rằng, tình
hình kinh tế của một nước là cơ sở, là quyết định, song chính trị là cơ bản. Nếu kinh tế
của một nước giàu mạnh, nhưng chính trị khơng ổn định, đấu tranh giai cấp, tơn giáo
giữa các Đảng phái khác nhau.v.v…thì đất nước đó cũng khơng thể trở nên n ấm và
tồn tại lâu dài được, cuộc sống của nhân dân tuy sung túc, đầy đủ nhưng luôn phải
sống trong lo âu, sợ hãi vì nội chiến, chết chóc. Do đó, nếu chính trị của một nước mà
ổn định, tuy nhiều Đảng khác nhau nhưng vẫn quy về một chính Đảng thống nhất đất
nước, và Đảng này vẫn đem lại sự yên ấm cho nhân dân, thì nếu đất nước đó giàu thì
cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, ngược lại nếu như nước đó
nghèo thì cho dù chính trị ổn định đến đâu thì cuộc sống của nhân dân sẽ trở nên khó
khăn và sẽ dẫn đến đảo chính, sự sụp đổ chính quyền để thay thế một chính quyền mới
đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân hơn.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi tuỳ theo từng hình thái kinh tế xã hội.
Con người trải qua năm hình thái xã hội: thời kì nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trình độ tổ chức quản lí và tính chất hiện đại của
nền sản xuất sẽ là nhân tố quy định trình độ hiện đại và mức sống của xã hội. Sản xuất

0

0


vật chất cịn là nền tảng hình thành tất cả các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của
xã hội. Hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng, mọi quan hệ của đời sống xã hội bao gồm
quan hệ chính trị. Nhà nước pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật, tơn giáo... đều

hình thành và biến đổi phát triển gắn liền với cơ sở kinh tế và sản xuất nhất định.
Trong xã hội ấy, theo Mác quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(quan hệ kinh tế) là quan hệ cơ bản nhất quyết định tất cả các quan hệ khác. Một khi
sản xuất phát triển, cách thức sản của con người thay đổi, năng suất lao động tăng,
mức sống được nâng cao thì các mối quan hệ và mọi mặt của đời sống xã hội cũng
thay đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tham gia
vào q trình phân hóa và hồn thiện các chức năng của con người, thoả mãn các nhu
cầu của conngười và xã hội. Sản xuất vật chất, môi trường, tự nhiên, điều kiện xã
hội… địi hỏi thế lực, trí tuệ và nhân cách của con người phải phát triển thích ứng với
nó. u cầu khách quan của sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất là cho khoa học
kĩ thuật và điều kiện sinh hoạt xã hội, là nhân tố quan trọng hàng đầu của Lực lượng
sản xuất. Sự phong phú và đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kĩ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật chất là cơ sở
làm nảy sinh sự phong phú và đa dạng trong sự phát triển thể chất, năng lực và tinh
thần của con người.
Nói cho cùng, trong hoạt động của con người, những nhu cầu về vật chất (kinh tế) bao
giờ cũng giữ vai trò quyết định, chi phối và quy định mục đích hoạt động bởi vì con
người phải trước hết ăn mặc, ở,… rồi mới nghĩ đến vui chơi, giải trí. Hoạt động nhận
thức của con người trước hết hướng tới mục tiêu cải biến tự nhiên nhằm thoả mãn nhu
cầu sống. Hơn nữa, cuộc sống tinh thần của con người xét đến cùng bị chi phối và phụ
thuộc vào việc thoả mãn nhu cầu vật chất và vào những điều kiện vật chất hiện có.
Nền kinh tế của mỗi nước là cơ sở để nước đó thực hiện những chủ trương, biện pháp
trong việc quản lí, đề ra những chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược phát triển quân
đội để đảm bảo trật tự an ninh và chủ quyền quốc gia. Căn cứ vào thực trạng của nền
kinh tế, các tư tưởng và chính sách đổi mới phát triển kinh tế được đưa ra phù hợp và

0

0



hiệu quả nhằm đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội, cũng đồng thời cho nhân dân.
Tác dụng ngược trở lại, thể chế chính trị (ý thức) của một nước cũng rất quan trọng
trong việc xây dựng đất nước. Chính trị ổn định là điều kiện tốt, tạo khơng khí n ấm,
thoải mái và tự do để mọi người, nhà nhà, các công ty, các tổ chức, hoạt động trong
các lĩnh vực kinh tế, xã hội cống hiến và phát huy khả năng của mình để đem lại lợi
ích cho bản thân mình và lợi cho xã hội.
Ngun lý triết học Mác - Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật (Ở đây là nền kinh tế ) từ thực tế
khách quan, tránh chủ chủ nghĩa chủ quan, duy ý trí, đồng thời phát huy vai trò năng
động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực chủ quan của con người (như hoạt động
kinh tế của nước ta, trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng
đã chú trọng đến việc đề cao yếu tố con người, làm cho ý thức thay đổi mới thâm nhập
vào các cơ sở kinh tế, vào đông đảo quần chúng).
3.2. Vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:


Trước đổi mới:

- Kinh tế (vật chất):
Cơ sở vật chất yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều mặt mất cân đối, năng xuất lao động
thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp
đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu công nghiệp hàng hóa cho xuất khẩu.
- Chính trị (ý thức):
Chúng ta chưa tìm ra được đầy đủ những ngun nhân đích thực của sự trì trên trong
nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách toàn diện về đổi
mới. Nhất là về kinh tế, chúng ta chưa kiên quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố
trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý nền kinh tế và những sai lầm
trong lĩnh vực phân phối lưu thông.


0

0




Sau đổi mới:

- Chính trị:
Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng rãi của cơ
sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng đã rút ra bài học kinh nghiệm lớn, trong đó: phải ln
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra
đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Và đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính
trị xã hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới
bước đầu đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tình hình chính trị của đất nước
ổ định.
- Kinh tế:
Nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nguồn
lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, đời sống vật chất tinh thần của một bộ
phân nhân dân có phần được cải thiện.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy.
Đảng chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn

hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát trển kinh tế xã hội
với tăng cường quốc phòng an ninh.
Cùng với quá trinh vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước thì

0

0


phát triển giáo dục và đào tạo khoa học ông nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân téc. Về giáo dục đào tạo tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện đổi mới nội dung phương pháp va hệ thống quản lý giáo dục…Về khoa học công
nghệ khoa học xã hội và nhân văn hướng vào giải đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn,
dự báo các xu thế phát triển , cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường
lối chủ trương cuả Đảng …
Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa la bảo vệ vững
chắc độc lập tự chủ, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp chặt chẽ kinh tế
quốc phòng và an ninh và kinh tế trong các chiến lược. Mở rộng quan hệ đối ngoại và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó chủ động hội nhập kinh tê quốc tế và khu
vực. Phát huy sức manh đại đoàn kết toàn dân.
[ Lý tưởng - Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa, Vận dụng
]
3.3. Liên hệ với việc học tập của sinh viên hiện nay:
Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu hết các nước trên thế
giới đều giương cao khẩu hiệu “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và dành nhiều tâm
sức để xây dựng và phát triển giáo dục nhằm đào tạo cho xã hội lực lượng lao động
có năng lực chun mơn và khả năng thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị trường
về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường. Một nền giáo dục đại
học chỉ được xem là thành công khi nền giáo dục ấy đóng góp cho xã hội những cá

nhân có đầy đủ trí và lực, đáp ứng được những nhu cầu về lao động trình độ cao và
nghiên cứu khoa học nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đất nước.
Vì vậy mà việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức đề vận dụng
thúc đẩy việc học và hành của sinh viên hiện nay mang một ý nghĩa vô cùng to lớn, có
ý nghĩa thực tiễn cao. Sinh viên phải có được phương pháp để tiếp thu tri thức thời
đại, rồi vận dụng thật tốt những tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng một xã hội

0

0


ngày càng phồn vinh, tươi đẹp.

KẾT LUẬN
Có thể thấy, ngày nay, triết học là một bộ phận không thể tách rời với sự phát triển
của bất cứ hình thái kinh tế nào. Kiên trì đường lối duy vật, nắm vững phép biện
chúng, luôn theo sát và kịp thời khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự
nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khắc phục được những sai lầm,
hạn chế của các quan niệm duy tâm, siêu hình và nêu lên những quan điểm khoa học,
khái quát đúng đắn về mặt triết học hai lĩnh vực lớn nhất của thế giới là vật chất, ý
thức và mối quan hệ giữa chúng, đó là: “Vật chất quyết định ý thức, còn ý thức tác
động tích cực trở lại vật chất”. Những vấn đề triết học về mối quan hệ biện chứng
giữa ý thức và vật chất luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt động thực
tiễn, xây dựng và phát triển xã hội.
Vận dụng thanh thạo mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo phép duy vật biện
chứng vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, giao dục, phát huy mạnh mẽ hơn nữa
quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chinh trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng
trưởng nền kinh tế quốc dân, góp phần xứng đáng vào công cuộc đổi mới kinh tế đất
nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất canh, để từ đó nâng cao hơn vị trí

của Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về chính trị
của đất nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 - Giáo trình triết học Mác – Lênin 2019
2 - Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX
3 - Luật Hùng Sơn - Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức ý
nghĩa phương pháp luận
4 – Lý tưởng - Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa, Vận dụng

0

0


18

0

0



×