Tải bản đầy đủ (.pdf) (223 trang)

Tiểu thuyết phiên bản của nhà văn nguyễn đình tú hành trình từ văn học đến điện ảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.08 MB, 223 trang )

UBND TỈNH BÌNH DƢƠNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
***********

PHẠM TUẤN KIỆT

TIỂU THUYẾT “PHIÊN BẢN” CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN ĐÌNH TÚ - HÀNH TRÌNH TỪ VĂN HỌC ĐẾN
ĐIỆN ẢNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ

BÌNH DƢƠNG – 2019


ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƢƠNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
.

PHẠM TUẤN KIỆT

TIỂU THUYẾT “PHIÊN BẢN” CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN ĐÌNH TÚ - HÀNH TRÌNH TỪ VĂN HỌC
ĐẾN ĐIỆN ẢNH

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ NGÀNH: 82 20 121

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS ĐÀO LÊ NA


BÌNH DƢƠNG – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan mọi kết quả nội dung nghiên cứu của đề tài: “Tiểu
thuyết Phiên Bản của nhà văn Nguyễn Đình Tú – Hành trình từ văn học
đến điện ảnh” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi và chưa từng
được công bố trong bất cứ cơng trình khoa học nào khác cho tới thời điểm
này.
Mọi sự giúp đỡ về số liệu và nội dung cho việc thực hiện luận văn
này đã được xin phép và cảm ơn tác giả. Ngồi ra, các thơng tin và số
liệu trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc rõ ràng; được
phép công bố.

Thủ Dầu Một, ngày 20 tháng 03 năm 2019
Học viên thực hiện

Phạm Tuấn Kiệt

i


LỜI CẢM ƠN
Để có thể thực hiện thành cơng luận văn tốt nghiệp “Tiểu thuyết
Phiên Bản của nhà văn Nguyễn Đình Tú – Hành trình từ văn học đến điện
ảnh”, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi xin gửi lời tri ân chân thành và
sâu sắc nhất nhất đến giảng viên - TS. Đào Lê Na. Cô là người đã trực
tiếp hướng dẫn; tận tình đưa ra những nhận xét, góp ý thẳng thắng và đã
ln giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện đề tài. Bên cạnh
đó, tơi xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô Khoa Ngữ Văn trường Đại học

Thủ Dầu Một, đặc biệt là PGS. Nguyễn Văn Kha; TS Hà Thanh Vân những người đã đã từng tận tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức và chỉ
dạy tôi về kỹ năng; kiến thức trong suốt những năm tháng tôi học tại
trường. Cảm ơn quý thầy cô đã tạo nền tảng vững chắc và giúp đỡ tơi
hồn thành luận văn.
Tơi cũng xin gởi lời cảm ơn sâu sắc đến nhà văn Nguyễn Đình Tú;
đạo diễn Ngơ Quốc Cường vì đã hỗ trợ cung cấp thông tin và tạo điều
kiện để tôi có thể hồn thành nội dung nghiên cứu. Cuối cùng, tơi xin gởi
lời cảm ơn đến gia đình; các anh/ chị đồng nghiệp đã luôn ủng hộ sự lựa
chọn của tôi, động viên tôi trong suốt thời gian học và thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn những người bạn thân thiết đã luôn đồng hành, ủng hộ và
động viên, giúp đỡ tơi khi tơi gặp khó khăn để tơi có thể chuyên tâm hoàn
thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn tất cả mọi người!
Thủ Dầu Một, ngày 20 tháng 03 năm 2019
Học viên thực hiện

Phạm Tuấn Kiệt
ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................... ii
MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................... 5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................. 10
5. Cấu trúc của luận văn ...................................................................... 11
Chƣơng 1 Khái quát về cải biên học và đối tƣợng nghiên cứu ........... 12

1.1 Những nền tảng của cải biên học ................................................... 12
1.1.1. Khái niệm cải biên ................................................................ 13
1.1.2. Lí thuyết cải biên - sự phức hợp của các lí thuyết ................. 20
1.2. Tiểu thuyết “Phiên bản” – Sự sáng tạo của nhà văn .................... 24
1.3. Phim “Hƣơng Ga” - Sản phẩm của q trình cải biên ................. 27
1.3.1. Thơng tin khái quát về “Hương Ga” ..................................... 27
1.3.2. Tóm tắt nội dung phim .......................................................... 28
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................. 30
Chƣơng 2 Tính cải biên khả thi của tiểu thuyết “Phiên Bản” ............. 31
2.1. Những thuận lợi khi cải biên từ văn học sang điện ảnh ............... 31
2.1.1. Đề tài tội phạm ..................................................................... 31
2.1.2. Nhân vật trong tiểu thuyết và điện ảnh .................................. 35
2.1.3. Hệ thống hình ảnh - biểu tƣợng ............................................. 36
2.1.4. Kết cấu của tiểu thuyết ......................................................... 39


2.2. Những thách thức từ ngôn ngữ văn học sang điện ảnh ................ 41
2.2.1. Độ dài văn bản và thời lƣợng phim ....................................... 42
2.2.2. Sự khắt khe từ công chúng .................................................... 44
2.2.3. Văn hóa và kiểm duyệt ......................................................... 47
2.2.4. Chọn lựa diễn viên cho nhân vật ........................................... 53
2.2.5. Ngôn ngữ văn học ................................................................. 55
2.2.6. Tƣ tƣởng của tác phẩm ......................................................... 59
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................. 66
Chƣơng 3 Phim “Hƣơng Ga” - sự hồi đáp của đạo diễn ..................... 69
3.1. Cải biên cấu trúc tự sự trong phim “Hƣơng Ga” ......................... 69
3.1.1. Khả năng cải biên bằng hình ảnh và màu sắc ......................... 85
3.1.2. Khả năng cải biên bằng âm thanh và diễn xuất ...................... 88
3.2. Cải biên về tình tiết ....................................................................... 93
3.3. Cải biên tƣ tƣởng tôn giáo .......................................................... 104

Tiểu kết chƣơng 3............................................................................... 109
KẾT LUẬN ......................................................................................... 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 112
PHỤ LỤC THAM KHẢO ................................................................... 116


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học và điện ảnh có mối quan hệ hết sức mật thiết với nhau. Mối
quan hệ gắn bó này là sự kết hợp của hai sinh thể mặc dù có giá trị riêng, có
đời sống độc lập tách biệt nhau thế nhƣng, giữa điện ảnh và văn học vẫn liên
tục có “sự trao đổi” ý tƣởng và nội dung. Văn học và điện ảnh liên tục hỗ trợ
cho nhau để tạo ra những sản phẩm mang dấu ấn cho từng lĩnh vực. Văn học
cung cấp ý tƣởng sáng tạo cho nhà làm phim để xây dựng nên sản phẩm cho
lĩnh vực điện ảnh. Thế nhƣng, đơi khi chính bộ phim điện ảnh của các đạo
diễn lại tác động ngƣợc đến tác phẩm văn học. Nếu xét theo quy luật cải biên
từ văn học sang điện ảnh, văn học rõ ràng đã tác động đến các tác phẩm cải
biên theo một chiều - đó là điều mà các cơng trình nghiên cứu trƣớc đây
thƣờng nhấn mạnh. Tuy nhiên trên thực tế, có những sản phẩm điện ảnh sau
khi đƣợc thực hiện cải biên từ văn học đã làm rõ ý nghĩa hoặc bổ sung thêm ý
nghĩa cho tác phẩm văn chƣơng – làm cho tác phẩm văn chƣơng thêm phần
giá trị. Trong lịch sử của ngành điện ảnh, khi đứng trƣớc nhu cầu về thị hiếu
ngày càng tinh tế và có chiều sâu của công chúng, những tác phẩm điện ảnh
buộc phải liên tục biến hóa để đáp ứng nhu cầu nội tại của cung – cầu thị
trƣờng giải trí và thƣơng mại. Qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, văn học
đã cung cấp cho điện ảnh những mẫu hình tƣợng nhân vật đa dạng, phong phú
từ diện mạo lẫn tính cách. Phim cải biên từ văn học gắn liền với đi ện ảnh từ
thời kỳ đầu cho đến tận bây giờ. Theo dòng chảy của sự phát triển xã hội và
khoa học – kỹ thuật, mối quan hệ này diễn ra ngày càng đa dạng hơn. Điện
ảnh là loại hình nghệ thuật tổng hợp của rất nhiều loại hình nghệ thuật nhƣ:

hình ảnh, âm thanh, ngơn từ… Khi xuất hiện sự kết hợp giữa văn học và điện
ảnh, sự kết hợp giữa nhà làm phim với tác giả văn học thì kết quả của quá
trình cải biên thƣờng là những tác phẩm điện ảnh thú vị và hấp dẫn vì có sự
đối thoại của hai loại hình nghệ thuật. Chúng tơi nhận thấy rằng, khi làm
phim điện ảnh cải biên từ tác phẩm văn học thì tác phẩm cải biên thƣờng sẽ

1


đƣợc chú ý và có nhiều ngƣời biết đến hơn. Phim điện ảnh cải biên đƣợc chú
ý bởi hai nguồn cơng chúng. Thứ nhất đó là những cơng chúng đã đọc và biết
đến tác phẩm văn học trƣớc đó; thứ hai đó là bộ phận những cơng chúng lần
đầu xem và ấn tƣợng bởi nội dung phim điện ảnh. Ngoài ra, những tác phẩm
văn học đƣợc cải biên thƣờng có câu chuyện thú vị nên tạo động lực cho các
nhà làm phim khai thác. Do đó, các tác phẩm điện ảnh đƣợc cải biên từ văn
học cũng thƣờng có câu chuyện thú vị và hấp dẫn từ sự tiếp nhận và sáng tạo
thêm của nhà làm phim. Mỗi ngƣời đọc đến với tác phẩm văn học sẽ có những
cách tiếp nhận khác nhau tuỳ vào kinh nghiệm sống, kiến thức và những trải
nghiệm cá nhân. Nhƣ vậy chúng ta có thể thấy rằng, phim điện ảnh cải biên
có cuộc sống mới so với tác phẩm văn học nguồn vì chúng đƣợc triển khai
thông qua sự tiếp nhận của riêng ngƣời đọc là nhà làm phim và đƣợc thể hiện
trong một hình thức nghệ thuật khác - Chúng tơi gọi đó là sản phẩm của sự
cải biên từ văn học sang điện ảnh. Những tác phẩm điện ảnh có sự cải biên
dựa vào những sáng tác văn học xuất hiện ngày càng nhiều. Các sản phẩm cải
biên này luôn khẳng định giá trị riêng biệt của điện ảnh và văn họ c trƣớc sự
đánh giá từ khán giả và các nhà nghiên cứu phê bình văn học – điện ảnh.
Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay điện ảnh đã có nhiều sự thay đổi và
phát triển cả về nội dung lẫn kỹ thuật thể hiện. Có thể nhận định rằng sau hơn
100 năm hình thành và phát triển nhanh chóng, điện ảnh đã chuyển từ một
loại hình với những thƣớc phim đơn sơ ban đầu vốn khơng có câu chuyện và

kịch tính dần lâu đã trở thành một loại hình nghệ thuật mới. Trở thành một
nghệ thuật và công cụ truyền thơng đại chúng, giải trí quan tr ọng bậc nhất của
xã hội hiện đại. Kể từ sau năm 1895, điện ảnh chính thức ra đời. Trải qua hơn
120 năm kể từ ngày ra đời, trong những năm gần đây, các bộ phim điện ảnh
cải biên từ tác phẩm văn học luôn thu hút sự chú ý của ngƣời xem. Đó là
những nhận định hết sức phong phú từ cơng chúng sau khi tiếp nhận phim cải
biên từ văn học. Cơng chúng khi mới đón nhận phim điện ảnh cải biên chủ
yếu thiên về so sánh sự giống nhau và khác nhau của phim và tác phẩm văn
học. Họ quan tâm đến cốt truyện trong phim điện ảnh cải biên có gì thay đổi

2


so với tác phẩm văn học nguồn? Bối cảnh; không gian và thời gian bị dịch
chuyển hay giữ nguyên? Hệ thống nhân vật có điều gì mới lạ? Diễn viên có
thể hiện hết linh hồn của nhân vật nhƣ trong tác phẩm văn học hay không?…
Công chúng càng đặt ra câu hỏi, càng đƣa ra những yêu cầu khắt khe, càng
chứng tỏ rõ ràng hơn sức mạnh và yếu tố thành công khi tiến hành cải biên tác
phẩm văn học thành phim điện ảnh. Cũng chính vì điều này, các nhà sản xuất
phim điện ảnh nói chung và dịng phim điện ảnh cải biên khơng ngừng tự làm
mới mình, ln sản xuất phim một cách tích cực và ln hƣớng tới thị hiếu
cơng chúng. Trên thế giới hiện nay, có thể tìm thấy khá nhiều cơng trình viết
về phim cải biên. Tuy nhiên ở Việt Nam, số lƣợng những bài viết, những c ơng
trình nghiên cứu chun sâu về cải biên học thật sự vẫn còn nhiều hạn chế.
Đa phần những bài viết này phân tích sự giống và khác nhau của tác phẩm cải
biên với tác phẩm văn học. Vì thế các lí thuyết về cải biên học của thế giới
vẫn chƣa đƣợc giới thiệu và áp dụng sâu rộng, mà phần lớn những bài nhận
xét đều viết từ góc nhìn xem văn học là văn bản gốc, điện ảnh là tác phẩm bậc
hai, phái sinh. Đa số vẫn cịn đề cao tuyệt đối vị trí của tác phẩm văn học và
nhà văn mà quên đi giá trị của đạo diễn và sản phẩm phim điện ảnh. Chính

điều này đã làm mất đi sự trọn vẹn của hành trình đi từ nghệ thuật ngơn từ
đến nghệ thuật hình ảnh; âm thanh. Thực hiện cơng trình nghiên cứu này,
chúng tơi cho rằng để có thể hiểu đƣợc giá trị của một bộ phim cải biên phải
nhìn ở nhiều góc độ. Cách nhìn nhận phải có sự cơng bằng đối với quá trình
sáng tạo của ngƣời thực hiện cải biên một tác phẩm từ lĩnh vực này sang lĩnh
vực khác. Đề tài cũng làm rõ con đƣờng của sự chuyển hóa và cộng hƣởng
của tác phẩm khi đi từ nghệ thuật ngơn từ đến nghệ thuật hình ảnh và ngƣợc
lại chứ không phải là sự so sánh sự giống nhau và khác nhau trên phƣơng diện
loại hình. Tiểu thuyết “Phiên bản” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn
Nguyễn Đình Tú ra mắt độc giả lần đầu vào tháng 03 năm 2011. “Phiên bản”
là tiểu thuyết mang tính hiện thực xã hội, là bi kịch về sự tha hoá của con
ngƣời dƣới tác động của hoàn cảnh xã hội. Từ khi ra đời đến nay (2009 2019), tiểu thuyết “Phiên bản” của nhà văn Nguyễn Đình Tú đã đƣợc độc giả

3


trong nƣớc đón nhận nồng nhiệt. Điều này đƣợc chứng minh là qua liên tiếp 7
lần tái bản kể từ năm 2009 với số lƣợt in hơn 14.000 bản tiểu thuyết. Bên
cạnh đó, tiểu thuyết “Phiên bản” của nhà văn Nguyễn Đình Tú cũng là cuốn
tiểu thuyết mang đậm chất điện ảnh trong cách viết và trình bày nội dung.
Trong tiểu thuyết “Phiên bản”, nhà văn Nguyễn Đình Tú đã để các
mảng ký ức, nội dung đƣợc sắp xếp xáo trộn với nhau nhƣ thủ pháp dựng
phim, nhiều câu văn giàu hình ảnh. Những độc giả tinh hoa có thể nghiên cứu
và lí giải tác phẩm này bằng những lý thuyết hậu hiện đại, tìm hiểu khả năng
cải biên tác phẩm văn học sang nghệ thuật nghe nhìn của điện ảnh. Vào ngày
27 tháng 10 năm 2014, bộ phim “Hương Ga” của đạo diễn Ngơ Quốc Cƣờng
chính thức cơng chiếu tại các rạp phim Việt Nam và tạo đƣợc tiếng vang tích
cực. Đây là phim cải biên từ tiểu thuyết “Phiên bản”. Chính vì lẽ đó cho nên
khi đƣợc cơng chiếu trên cả nƣớc, “Hương Ga” đã thu hút ngƣời xem cũng
nhƣ nhận đƣợc nhiều nhận xét đánh giá từ các bình luận đơn giản đến các bài

phê bình chuyên về văn học và điện ảnh.
Mặc dù tiểu thuyết “Phiên bản” và phim điện ảnh “Hương Ga” đã
thành công khi đƣợc cơng chúng đón nhận. Thế nhƣng, nhìn chung vẫn chƣa
có những nghiên cứu chun sâu về hành trình đi từ tác phẩm văn học “Phiên
bản” đến tác phẩm điện ảnh “Hương Ga”. Vai trò cùa đạo diễn phim cải biên
vẫn còn chƣa đƣợc nhận định xứng đáng. Với mong muốn nghiêm túc thực
hiện một đề tài nghiên cứu về vấn đề cải biên học cũng nhƣ làm rõ mối quan
hệ trên chặng hành trình từ văn học đến điện ảnh của tiểu thuyết “Phiên bản”
và phim điện ảnh “Hương Ga” bằng cách áp dụng những lí thuyết cải biên
học, chúng tôi chọn thực hiện đề tài: Tiểu thuyết “Phiên bản” của nhà văn
Nguyễn Đình Tú - Hành trình từ văn học đến điện ảnh.

4


2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.

Cải biên từ văn học đến điện ảnh

Cải biên học là một vấn đề đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử điện ảnh thế
giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam thì vấn đề này vẫn còn khá mới, mặc dù phim cải biên
đã xuất hiện khá lâu trong nền điện ảnh nƣớc nhà. Qua quá trình tìm hiểu có phần
cịn hạn chế về tƣ liệu, chúng tơi tạm thống kê lại những cơng trình nghiên cứu về cải
biên học nhƣ sau. Năm 2009, Trƣơng Nữ Diệu Linh có cơng trình Từ tác phẩm văn
học đến phim truyện điện ảnh, Luận văn cao học Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn. Luận văn đã nêu các yếu tố trong cấu trúc tác phẩm văn học qua góc nhìn điện
ảnh nhƣ: ngơn từ, cốt truyện, hình tƣợng nghệ thuật,… khái quát các đặc trƣng của
phim điện ảnh. Sự chuyển dịch kí hiệu nghệ thuật từ thế giới trừu tƣợng của văn học
đến thế giới hữu hình của điện ảnh. Ngƣời viết đã phân tích nêu lên những vấn đề về

tiếp nhận văn học và sự cảm thụ tác phẩm phim cải biên. Năm 2010, Đỗ Thị Ngọc
Điệp với luận văn thạc sĩ Vấn đề chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện
ảnh (từ góc nhìn tự sự) đã nêu lên một số vấn đề tự sự học trong việc chuyển thể.
Vấn đề về cốt truyện, nhân vật, kết cấu trong việc chuyển thể từ tác phẩm văn học
sang điện ảnh đƣợc phân tích rõ ràng. Đó là một q trình tiếp thu các yếu tố tự sự,
sau đó bổ sung, cải biên để phù hợp với tác phẩm điện ảnh. Năm 2012, Nguyễn Thị
Hoa trong luận văn thạc sĩ Từ trang viết đến màn bạc: chuyển thể điện ảnh và sự hội
đáp của người xem/người đọc qua một số tác phẩn văn học Việt Nam đương đại đã
đƣa ra những quan điểm về chuyển thể điện ảnh từ các tác phẩm văn học. Luận văn
đã khái quát những vấn đề cơ sở lí luận, giải thích các khái niệm chuyển thể là gì và
sự chuyển dịch nội dung hình thức từ tác phẩm văn học sang điện ảnh. Đứng trên lí
thuyết về tiếp nhận, ngƣời viết đã vận dụng khái niệm tầm đón đợi, cách tiếp nhận
đối với một tác phẩm chuyển thể. Từ việc vận dụng những lí thuyết về phim chuyển
thể, Nguyễn Thị Hoa đã phân tích những tác phẩm phim cụ thể để làm rõ hơn về lí
thuyết tiếp nhận. Cũng trong năm 2012, Nguyễn Thị Ngọc Diễm có cơng trình
nghiên cứu Vấn đề chuyển thể tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp sang điện ảnh. Ngƣời
viết đã nêu ra một số vấn đề lí thuyết về văn học và điện ảnh trong đó có thế giới
ngơn ngữ và hình tƣợng, đồng thời liệt kê những điểm chung của hai loại hình nghệ

5


thuật này. Tác giả cơng trình đã thấy đƣợc sự đồng điệu trong quan niệm nghệ thuật
giữa văn học và điện ảnh, thế giới trừu tƣợng và những biểu hiện cụ thể. Ngƣời viết
cũng khẳng định rằng chuyển thể tác phẩm văn học sang điện ảnh là một biện pháp
nâng cao tính văn học trong phim. Năm 2014, Hội điện ảnh Việt Nam cho xuất bản
quyển Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm điện ảnh của Phan Bích Thủy. Đây có thể
xem là cơng trình nghiên cứu khá hồn chỉnh về cải biên học ở nƣớc ta. Tác giả cơng
trình đã chỉ ra và nêu bật đƣợc mối quan hệ mật thiết hỗ trợ lẫn nhau giữa văn học và
điện ảnh, tuy nhiên vẫn dùng khái niệm chuyển thể chứ chƣa dùng Khái niệm cải

biên (Adaptation). Những yếu tố của văn học khi đi vào điện ảnh đƣợc chú ý và cải
biên nhƣ thế nào cùng những đặc trƣng của quy trình sản xuất phim chuyển thể đã
đƣợc thể hiện trong cơng trình. Ngồi ra, Phan Bích Thủy cịn thống kê những tác
phẩm điện ảnh đƣợc cải biên từ tác phẩm văn học trong điện ảnh Việt Nam, những
thành cơng và những hạn chế đi kèm trong q trình dựng phim cải biên. Cũng trong
năm 2014, Nguyễn Thị Kim Yến đã thực hiện cơng trình Từ văn học đến điện ảnh
trong phim của của Đặng Nhật Minh. Tác giả đã trích dẫn những khái niệm khoa học
về văn học và điện ảnh đồng thời nêu bật điểm giống và khác nhau của hai loại hình
nghệ thuật này. Tuy là hai loại hình độc lập nhƣng cả văn học và điện ảnh có chung
những đặc điểm nhƣ tính sáng tạo nghệ thuật, các chức năng chính (giải trí, nhận
thức, giáo dục, thẩm mĩ, giao tiếp, dự báo…), cùng có những phƣơng pháp xây dựng
nhân vật và kết cấu tự sự bên cạnh đó cũng có những biện pháp nghệ thuật khác nhƣ
so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tƣợng trƣng… Ngƣời viết cũng chỉ ra đƣợc những nét khác
biệt giữa văn học và điện ảnh đó là về chất liệu sáng tác, quá trình sáng tạo và sự tiếp
nhận của ngƣời đọc/ngƣời xem. Nguyễn Thị Kim Yến đã lựa chọn phân tích trƣờng
hợp đạo diễn Đặng Nhật Minh để lí giải những nét độc đáo và khác biệt khi cải biên
tác phẩm văn học thành tác phẩm điện ảnh. Luận văn còn đƣa ra một số đặc điểm về
thực trạng điện ảnh nƣớc nhà và cũng phát hiện hƣớng đi mới của dòng phim nghệ
thuật Việt Nam. Năm 2015, Lƣu Thị Nhƣ Trang, Kẻ trộm sách của Markus Zusak –
Từ văn học đến điện ảnh khóa luận tốt nghiệp năm 2015, Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn. Khóa luận đã giới thiệu Khái niệm cải biên (Adaptation) học, tóm tắt về
lịch sử hình thành và phá triển của điện ảnh, các trƣờng phái phim nghiên cứu điện

6


ảnh một cách độc lập. Thông qua trƣờng hợp cải biên tác phẩm Kẻ trộm sách phân
tích những thuận lợi và khó khăn trong q trình cải biên tác phẩm văn học thành
phim. Năm 2016, Lê Thị Dƣơng với luận án tiến sĩ “Hiện tượng chuyển thể từ văn
học sang điện ảnh ở Việt Nam – Nghiên cứu liên văn bản” tác giả đã dành hẳn một

chƣơng trong cơng trình để trình bày tổng quan về tình hình nghiên cứu từ đó đƣa ra
hƣớng đi mới cho đề tài của mình là hƣớng nghiên cứu lien văn bản. Tác giả Lê Thị
Dƣơng đặt vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh ở lý thuyết
chuyển đổi ký hiệu liên văn bản hết sức chi tiết và có hệ thống. Tuy nhiên luận văn
vẫn cịn tồn tại vấn đề về “sự trung thành”. Phần nhiều tập trung vào sự giống và
khác của phim điện ảnh cải biên so với tác phẩm nguồn nhƣ thế nào. Năm 2017, Tiến
sĩ Đào Lê Na trong cơng trình nghiên cứu Chân trời của hình ảnh từ văn chương đến
điện ảnh qua trường hợp Kurosawa Akira đã có những thống kê về lịch sử cải biên
học trên thế giới. Lí thuyết về cải biên học là sự phức hợp của các lí thuyết liên văn
bản, phiên dịch học, văn hóa học, giải kiến tạo đã đƣợc trình bày trong luận án. Tác
giả cơng trình cịn nêu bật góc nhìn mới từ văn học đến điện ảnh, đó là một hành
trình tuy khác biệt nhƣng vẫn có điểm giao nhau, phân tích tính cải biên khả thi và sự
hồi đáp của ngƣời tiếp nhận đối với tác phẩm phim cải biên. Tác giả nhận định rằng
văn học và điện ảnh là hai loại hình độc lập với nhau nên khơng thể phán xét tác
phẩm điện ảnh có trung thành với tác phẩm văn học đến từng chi tiết không. Việc cải
biên tác phẩm văn học chỉ là một cách đọc của nhà làm phim đối với tác phẩm ấy.
Tóm lại, về lịch sử nghiên cứu vấn đề, đa số các cơng trình nghiên cứu đều
chú trọng sử dụng phƣơng pháp so sánh để tìm ra điểm giống và khác với tác phẩm
tiền đề. Đa phần vẫn còn sử dụng thuật ngữ chuyển thể thay vì thuật ngữ cải biên.
Tác phẩm sau khi đƣợc cải biên ít đƣợc nhìn nhận và xét trên một bình diện độc lập
mà ln bị đặt trong hệ quy chiếu so sánh giữa hai loại hình nghệ thuật khác biệt
nhau về cách thể hiện. Nếu cứ cố gắng tìm ra đâu là gốc và đâu là sản phẩm hậu
chuyển đổi, chúng tơi cho rằng sẽ rất khó để hiểu hết hành trình cải biên từ văn học
đến điện ảnh. Chính vì lý do đó mà giá trị của các tác phẩm từ quá trình cải biên chƣa
đƣợc đánh giá đúng nơi công chúng ở chiều hƣớng định nhận.

7


2.2.


Tác giả Nguyễn Đình Tú và tiểu thuyết “Phiên bản”

Nhà văn Nguyễn Đình Tú từ năm 2002 đến nay, tuy chỉ mới góp mặt vào làng
văn Việt Nam 17 năm nhƣng đã để lại những tác phẩm sáng tác đáng ghi nhận về số
lƣợng và chất lƣợng. Bên cạnh đó, những cơng trình nghiên cứu về Nguyễn Đình Tú
và các tác phẩm của anh từ nghệ thuật, phong cách sáng tác đến nội dung, các mặt
hiện thực của cuộc sống đƣợc phản ánh… cũng ngày càng nhiều, cụ thể nhƣ sau: Bản
thân Nguyễn Đình Tú là một sĩ quan quân đội, hoạt động binh nghiệp song song với
công việc sáng tác văn chƣơng, cho nên Nguyễn Đình Tú và các sáng tác của ông
trƣớc hết gây đƣợc sự chú ý từ các nhà văn quân đội nhƣ Nam Hà, Lê Lựu, Khuất
Quang Thụy, Chu Lai... Các nhà văn trên đã có những đánh giá sắc sảo về nội dung
và nghệ thuật trong tác phẩm của Nguyễn Đình Tú trong các bài viết:“Một khái niệm
mới về tiểu thuyết “Hồ sơ một tử tù”; “Nguyễn Đình Tú và “Nháp”; “Phiên bản”Một mệnh đề mang tính tường luận lý thú”. Ngồi ra, cây bút văn dồi dào hiện thực
Nguyễn Đình Tú cịn thu hút đƣợc sự quan tâm của các nhà phê bình văn học nhƣ
Trần Đình Sử, Nguyễn Thị Minh Thái, Nguyễn Thanh Tú, Nguyễn Chí Hoan, Ngơ
Tự Lập, Văn Giá, Inrasara, Trần Tố Loan, Đoàn Minh Tâm, Đoàn Ánh Dƣơng, Trịnh
Sơn, Đào Bá Đồn, Bùi Việt Thắng, Ngơ Hƣơng Giang... Các nhà phê bình văn học
trên cũng đã đƣa ra những nhận xét có giá trị về tác phẩm của Nguyễn Đình Tú qua
các bài viết nhƣ: “Kín - một dịng tiểu thuyết miên man”; “Từ Hồ sơ một tử tù” đến
“Nháp” - một chặng đường tiểu thuyết Nguyễn Đình Tú”; “Phiên bản - Hồ sơ một sự
thanh tẩy” ; “Hoang tâm -hay sự trở về với căn tính văn hóa”; “Thế hệ Nháp;Bên
dòng Sầu Diện - Cách tiếp cận chiến tranh của người viết trẻ”; “Dịch chuyển tiêu
cực trong tiểu thuyết Nháp”; “Lối viết nước đôi hay phép lợi thế trong tiểu thuyết
Phiên bản”
Bên cạnh đó, liên quan đến các tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú cũng có
những bài viết lớn, nhỏ đƣợc in trên báo chí và các diễn đàn văn học nhƣ: Hoài
Hƣơng với “Nháp hay sự yếm thế trong tâm hồn con người”; Nguyễn Thanh Tú với
“Nháp hay sự nối dài những bi kịch”; Phạm Thùy Linh với “Phiên bản” - góc tiếp
cận nhân văn; Nghiêm Tuấn Anh với “Phiên bản” những mảng tối của cuộc đời;

Hƣơng Giang với “Phiên bản” của bạo lực và tình người; Phong Lan với Nguyễn

8


Đình Tú và hé lộ “Kín”; Lãm Ngun với “Kín – cuộc tìm lối của người trẻ”; Tiểu
Quyên với “Nhà văn Nguyễn Đình Tú - Nội lực sáng tạo khơng giới hạn”; Dƣơng Tử
Thành với “Nguyễn Đình Tú khơng tránh sắc dục trong sách mới”.…
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1.

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài

Khám phá, nghiên cứu về quá trình chuyển đổi ý tƣởng, tái tạo nội dung, sự
dịch chuyển ký hiệu văn bản thể hiện gắn với lý thuyết cải biên học để từ đó làm rõ
hành trình đi từ nghệ thuật ngơn từ của văn học sang nghệ thuật nghe nhìn của điện
ảnh. Làm rõ những những thơng điệp đầy tính nhân văn ẩn chứa trong tiểu thuyết
“Phiên bản” của nhà văn Nguyễn Đình Tú cũng nhƣ trong phim điện ảnh “Hương
Ga” của đạo diễn Ngô Quốc Cƣờng.
3.2.

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Về đối tƣợng nghiên cứu
Để thực hiện trọn vẹn đề tài nghiên cứu trên, chúng tôi chú trọng vào cuốn tiểu
thuyết “Phiên bản” của nhà văn Nguyễn Đình Tú, xuất bản ngày 11 tháng 7 năm
2014, nội dung chính thức 328 trang. Đồng thời ngƣời nghiên cứu đề tài cũng khảo
sát thêm một vài các tiểu thuyết đã xuất bản và đã đƣợc cải biên thành phim để đối
chiếu làm rõ vấn đề. Bên cạnh đó chúng tơi cũng song song tìm hiểu và nghiên cứu
về bộ phim điện ảnh “Hương Ga” của đạo diễn Ngô Quốc Cƣờng. Bản phim phát

hành tại cụm rạp CGV ngày 27/10/2014.
3.2.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quá trình cải biên của tiểu thuyết “Phiên
bản” từ văn học sang điện ảnh. Chúng tôi nhận định rằng nội dung của tiểu thuyết
“Phiên bản” và phim điên ảnh “Hương Ga” chắc chắn có sự thay đổi khi chuyển đổi
từ bề mặt văn bản lên màn ảnh nghe nhìn. Thuật ngữ chuyển thể chỉ chú trọng vào sự
chuyển đổi thể loại mà chƣa tƣờng minh đến vấn đề thay đổi nội dung. Để thực hiện
đƣợc cơng trình nghiên cứu này chúng tơi định hƣớng ngay từ đầu về lý thuyết nền.
Về hƣớng nghiên cứu chúng tôi sử dụng thuật ngữ cải biên (Đào Lê Na, 2015) và các
lý thuyết liên văn bản thay vì sử dụng thuật ngữ chuyển thể mang nặng tính so sánh

9


và chƣa chính xác.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn nghiên cứu về tác phẩm “Phiên bản” về hành trình của sự cải
biên từ văn học sang điện ảnh trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu về tác phẩm
“Phiên bản” và các nghiên cứu về lý thuyết cải biên học. Chúng tơi nhận thấy
rằng cần có sự kết hợp nhiều lí thuyết nghiên cứu khác nhau để áp dụng vào lí
giải đề tài, cụ thể chúng tơi định hƣớng nhƣ sau. Phương pháp thi pháp học:
Nghiên cứu thi pháp của tác phẩm “Phiên bản” để thử lí giải nét đặc biệt thu
hút độc giả mọi thời đại và không phân biệt biên giới. Chúng tơi áp dụng lí
thuyết này cũng để tiếp cận cách tạo nên thế giới nghệ thuật của truyện kể
cùng với những màu sắc cuộc sống của nhân vật trong truyện. Phương pháp
tự sự học: Để thu hút đƣợc ngƣời nghe cũng nhƣ ngƣời đọc thì mỗi câu
chuyện ln phải có ngƣời trần thuật xuất sắc, họ đóng vai trị kể lại câu
chuyện. Ngƣời kể truyện trong tác phẩm “Phiên bản” đã rất thành công với
giọng kể cũng nhƣ phƣơng pháp tự sự kể chuyện của mình. Phương pháp tiếp
nhận văn học: Áp dụng phƣơng pháp này cho việc phân tích hiệu ứng của tác

phẩm đối với độc giả. Từ đó, chúng tơi có thể tiến hành lí giải các tình huống
truyện, mối quan hệ giữa các nhân vật, cốt truyện và mục đích sáng tác của
các tác giả cũng nhƣ sự yêu thích và sức sống lâu bền của “Phiên bản”.
Phương pháp nghiên cứu loại hình: Áp dụng lí thuyết này để nghiên cứu một
cách độc lập tƣơng đối hai loại hình văn học và điện ảnh, để từ đó lí giải tác
phẩm theo các đặc trƣng nghệ thuật của mỗi loại hình. Phương pháp nghiên
cứu liên văn bản: Phƣơng pháp này giúp chúng tơi lí giải những văn bản nhỏ
trong một chỉnh thể văn bản lớn là tác phẩm, từ đó soi rọi cho việc nghiên cứu
song song những biến chuyển từ văn học đến điện ảnh và sự tác độn g trở lại
của điện ảnh đối với văn học. Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn học
và điện ảnh là hai loại hình tồn tại độc lập với nhau, áp dụng lí thuyết về cải
biên học để tìm hiểu những yếu tố văn học và điện ảnh có trong tác phẩm văn
học và bộ phim cải biên.

10


5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn nghiên cứu “Tiểu thuyết “Phiên bản” của nhà văn Nguyễn Đình Tú
- Hành trình từ văn học đến điện ảnh” có ba phần. Ngoài phần dẫn nhập, kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, phần nội dung luận văn có độ dài 101
trang, cụ thể nhƣ sau:
CHƢƠNG 1: Khái quát về cải biên học và đối tƣợng nghiên cứu
 Dung lượng: 19 trang
 Những nền tảng của cải biên học về khái niệm và lý thuyết
 Tiểu thuyết “Phiên bản” - nhà văn Nguyễn Đình Tú
 Phim điện ảnh “Hương Ga” - đạo diễn Ngô Quốc Cƣờng
 Tiểu kết chƣơng 1
CHƢƠNG 2: Tính cải biên khả thi của tiểu thuyết “Phiên bản”
 Dung lượng: 39 trang

 Những điều kiện thuận lợi để cải biên
 Những thách thức từ ngôn ngữ văn học sang ngôn ngữ điện ảnh
 Tiểu kết chƣơng 2
CHƢƠNG 3: Phim “Hƣơng Ga” - Sự hồi đáp của đạo diễn
 Dung lượng: 43 trang
 Cải biên cấu trúc tự sự
 Cải biên tình tiết
 Cải biên tƣ tƣởng tôn giáo
 Tiểu kết chƣơng 3

11


Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ CẢI BIÊN HỌC VÀ ĐỐI TƢỢNG
NGHIÊN CỨU
1.1 Những nền tảng của cải biên học
Từ cuối thế kỉ XIX cho tới nay, cách nhìn về mối quan hệ giữa văn học và
điện ảnh với việc điện ảnh vay mƣợn ý tƣởng và nội dung của các lĩnh vực khác bao
gồm văn học và âm nhạc “đã khơng ít lần xem nhẹ nhau, cứu rỗi nhau, học hỏi từ
nhau, và làm méo mó bản ngã tự phong của nhau” (Timothy Corrigan, 2013). Dựa
trên các đặc trƣng về các phƣơng diện nghệ thuật, điện ảnh đƣợc định danh riêng biệt
là một bộ mơn nghệ thuật của hình ảnh và sự chuyển động hình ảnh. Theo phân loại
của Hegel thì sáu lĩnh vực có từ trƣớc khi điện ảnh ra đời đó là kiến trúc, điêu khắc,
hội họa, âm nhạc, múa và thơ ca. Điện ảnh đƣợc xem là nghệ thuật thứ bảy ra đời vào
năm 1895. Các tác phẩm điện ảnh mới ra đời đƣợc trình chiếu đầu tiên ở phƣơng
Tây, sau đó lan sang các nƣớc ở các khu vực khác trên thế giới. Phim điện ảnh thời
kỳ đầu đến với công chúng qua các nhà hát có các màn chiếu màu trắng bạc khổ
rộng, chiếu xen kẽ với các buổi hồ nhạc. Chính vì cách thức đến với công chúng
nhƣ trên, cho nên hai thuật ngữ “Màn bạc” đƣợc xuất hiện từ đó.
Trong luận văn cao học “Chất điện ảnh trong văn học qua một số tiểu thuyết

của Marguerite Duras” của Đỗ Thị Ngọc Điệp năm 2006 có nhấn mạnh rằng điện
ảnh là con đẻ của khoa học kỹ thuật - công nghệ và nằm trong cấu trúc văn hố,
truyền thơng đại chúng. Có nhiều quan niệm khác nhau về đặc trƣng điện ảnh, tuy
nhiên điện ảnh có 8 thuộc tính cơ bản: điện ảnh là một nghệ thuật tổng hợp, có tính
chất quần chúng, tính dân tộc và tính quốc tế, tính giải trí, tính kinh tế thƣơng mại và
mang giá trị tƣ tƣởng nhân sinh sâu sắc. Kể từ sau năm 1895, điện ảnh đã luôn khẳng
định vị thế của ngƣời em út trong đại gia đình nghệ thuật bảy thành viên. Điện ảnh là
sự tiếp nối các giá trị sẵn có từ hội họa, văn học, âm nhạc… Những năm cuối thế kỷ
XIX, bộ môn này đã kế thừa và tạo ra những sản phẩm hết sức mới lạ. Cho đến ngày
nay, điện ảnh vẫn gây đƣợc ấn tƣợng mạnh nơi công chúng thƣởng thức. Và song
song cùng với các loại hình nghệ thuật khác, tác phẩm điện ảnh đã có chỗ đứng hết
sức vững chãi khơng thua kém gì các lĩnh vực đầu tiên nhƣ văn học hay âm nhạc. Từ

12


lúc ra đời cho đến nay, điện ảnh đã phát triển hết sức mạnh mẽ. Nhiều trƣờng phái
điện ảnh trên thế giới ra đời với sự cách tân đầy mới lạ về cách thức làm phim, nội
dung, ý tƣởng thông điệp và cả kỹ thuật dựng phim. Điện ảnh cũng giống nhƣ văn
học hay các lĩnh vực nghệ thuật khác ở khả năng ln tự làm mới mình để khẳng
định sự tồn tại. Bản chất thật sự về mối quan hệ giữa điện ảnh và văn học hay các bộ
môn nghệ thuật khác luôn là vấn đề gây nhiều tranh cãi kể từ sau khi điện ảnh ra đời.
Tuy nhiên, đi theo cùng những năm tháng vận động, nghiên cứu và phát triển của lịch
sử nhân loại, có thể thấy rằng lịch sử quan hệ giữa văn học và điện ảnh là một lịch sử
yêu ghét lẫn lộn, đƣơng đầu và phụ thuộc lẫn nhau. Điện ảnh sinh ra sau văn học. Khi
điện ảnh lấy ý tƣởng từ văn học hoặc các loại hình nghệ thuật khác để sáng tạo thì
xảy ra vấn đề về việc định danh sản phẩm kế thừa. Sản phẩm từ sự vay mƣợn, đó là
sự sở hữu hoàn toàn độc lập của điện ảnh hay của cả loại hình nghệ thuật văn học mà
điện ảnh đã vay mƣợn ý tƣởng và nội dung? Đâu là phần nhiều trong sản phẩm kế
thừa vay mƣợn đó? Tác phẩm điện ảnh có phụ thuộc vào tác phẩm văn học mà nó

vay mƣợn ý tƣởng khơng? Nếu có thì sự phụ thuộc đó sẽ đƣợc xem xét ra sao? Nếu
khơng thì việc vay mƣợn đƣợc lý giải nhƣ thế nào?
1.1.1. Khái niệm cải biên (Adaptation)
Trong nội dung nghiên cứu của luận văn, chúng tôi nhận định xét trong
bối cảnh hiện nay, nếu chúng ta cố gắng trả lời những câu hỏi trên mà hoàn
toàn tách biệt giá trị của văn học và điện ảnh thì động thái đó sẽ làm mất đi
phần nào giá trị của từng loại hình. Tôn trọng mối quan hệ giữa điện ảnh văn học và cả hành trình của chặng đƣờng thay đổi, chúng tơi nhìn nhận mối
quan hệ trên là một hệ quả tất yếu của tiến trình phát t riển và tự làm mới mình
của các hình thức nghệ thuật. Quá trình thay đổi “làm mới” sau khi vay mƣợn,
hồn tồn khơng làm mất đi giá trị của “nơi chọn lựa để kế thừa hoặc vay
mƣợn nội dung ý tƣởng”. Ngƣợc lại sản phẩm sau sự thay đổi đầy chất sáng
tạo của ngƣời làm điện ảnh lại hoàn toàn độc lập khác biệt trên nhiều phƣơng
diện về nội dung và cả hình thức thể hiện. Chúng ta có thể gọi một cách trung
tính, đó là hành trình từ văn học đến điện ảnh - Hành trình của hoạt động cải

13


biên tác phẩm văn học trở thành sản phẩm phim điện ảnh. Khái niệm cải biên
(Adaptation) đƣợc dùng rộng rãi và phổ biến mạnh mẽ trong giới phê bình
nghiên cứu khoa học thời gian gần đây. Trƣớc đây cải biên thƣờng bị “tƣơng
đƣơng hóa”, bị xem là có cùng nghĩa biểu thị với khái niệm chuyển thể. Tuy
nhiên điều này chƣa thật sự chính xác hồn tồn. Việc cải tạo cho mới hơn
một sản phẩm đã có trƣớc đó là một q trình có từ rất sớm. Q trình này
diễn ra ở tất cả các bộ môn nghệ thuật. Tuy nhiên vấn đề đặt ra mới hơn là
quá trình cải tạo, vay mƣợn ý tƣởng và nội dung này có phải chỉ diễn ra và
dừng lại trong cùng một lĩnh vực nghệ thuật? Chúng tơi muốn nói rõ hơn về
Khái niệm cải biên (Adaptation) ở hai chiều kích: Sự thay đổi về loại hình
nghệ thuật và quá trình tái sáng tạo nội dung.
 Cải biên là sự thay đổi về loại hình nghệ thuật.

Tác giả Đào Lê Na trong cơng trình nghiên cứu “Chân trời của hình
ảnh”, nhận định thuật ngữ “Adaptation” đƣợc hiểu là sự cải biên hoặc sự
thích nghi. Do vậy, chúng tôi tiếp nhận cơ sở lý thuyết từ cơng trình của Đào
Lê Na để có thể chọn cách chuyển ngữ khái niệm “Theory of Adaptation”
thành “Lí thuyết cải biên”. Theo Từ điển tiếng Việt, cải biên là sửa đổi ít
nhiều hoặc biên soạn lại. Bên cạnh đó, theo tài liệu của Luật sở hữu trí tuệ
2005 thì cải biên là sửa đổi một phần nội dung; dịch chuyển thể loại, thay đổi
hình thức thể hiện trên cơ sở bản gốc hoặc một phần bản gốc của tác phẩm
văn học nghệ thuật hoặc dựa trên nội dung cơ bản của tác phẩm đó để sáng
tạo ra tác phẩm mới. Trong khi đó, thuật ngữ “chuyển thể” là việc chuyển đổi
một tác phẩm thƣờng là tác phẩm văn học, nghệ thuật sang loại hình nghệ
thuật khác trên cơ sở đảm bảo nội dung của tác phẩm khác. Chuyển thể chỉ
đơn giản đề cập đến sự thay đổi loại hình từ văn học thành kịch bản sân khấu
hoặc điện ảnh khiến cho những tác phẩm có nguồn gốc từ văn chƣơng thƣờng
bị đánh giá là “không trung thành với nội dung của tác phẩm văn chương”.
Từ những ghi nhận trên, có thể thấy rằng thuật ngữ “cải biên” có nội hàm
rộng hơn và chính xác hơn so với thuật ngữ “chuyển thể”. Khi nói về cải biên

14


tức là nhấn mạnh vào quá trình thay đổi nội dung của các tác phẩm văn học ở
phƣơng diện tái hiện trong hình thức nghệ thuật khác và cách thức tiếp nhận
nơi công chúng. Cải biên tái hiện lại một cách đa dạng bằng các loại hình
nghệ thuật khác chứ không chỉ dừng lại ở điện ảnh và sân khấu nhƣ đối với
trƣờng hợp “chuyển thể”. Hiện nay với đại bộ phận ngƣời Việt, thuật ngữ
“cải biên” đã có phần xuất hiện nhiều hơn trƣớc nhƣng vẫn chƣa đủ để cả
cộng đồng có cái nhìn chính xác về cải biên và giá trị độc lập của q uá trình
cải biên. Trong điện ảnh và sân khấu ngƣời ta vẫn quen dùng từ “chuyển thể”
khi nhắc đến việc đƣa nội dung tác phẩm văn học sang các loại hình nghệ

thuật khác. Ngay từ những ngày đầu hình thành, điện ảnh thế giới nói chung
và nền điện ảnh của Việt Nam nói riêng đã kế thừa và vay mƣợn rất nhiều ý
tƣởng và nội dung từ văn học để từ đó, có nền tảng cho những bƣớc đi hết sức
vững chắc. Theo thời gian, số lƣợng phim cải biên từ văn học ngày càng
nhiều. Có thể nói việc cải biên văn học sang điện ảnh là một phƣơng thức tiếp
nhận và tái hiện nghệ thuật. Nhiều tác phẩm đã để lại dấu ấn tốt trong lịng
khán giả. Thời kỳ nào cũng có những tác phẩm văn học đƣợc cải biên sang
điện ảnh. Tất cả những sản phẩm của ngành công nghiệp điện ảnh nói chung
hay phim điện ảnh “Hương Ga” nói riêng đều có một thời lƣợng nhất định để
ngƣời xem có thể thƣởng thức trọn vẹn khi chiếu tại rạp. Điều này khác xa so
với việc thƣởng thức trọn vẹn một tác phẩm tiểu thuyết. Khi đọc tiểu thuyết
“Phiên bản”, ngƣời đọc có khả năng đọc đi đọc lại để nghiền ngẫm nội dung
tác phẩm nhiều lần. Khán giả của phim điện ảnh chỉ có thể thƣởng thức nội
dung phim ở rạp với điều kiện phải thanh tốn chi phí cho suất vé đó. Nếu
cơng chúng muốn xem lần hai, lần ba phải tiếp tục tốn thêm chi phí mua vé
tại rạp khớp với số lần muốn xem lại..
Công chúng xem phim cải biên sẽ khó tìm thấy sự trùng lấp hồn tồn
so với tiểu thuyết ban đầu. Bởi vì ở phim điện ảnh cải biên, cốt truyện đã
đƣợc tái cấu trúc lại. Ngƣời xem muốn hiểu đƣợc nội dung của phim điện ảnh
“Hương Ga” bắt buộc phải tập trung hơn vào những hình ảnh đang chiếu và
âm thanh đƣợc nghe. Trong tiểu thuyết, cấu trúc tự sự đƣợc thể hiện bằng câu

15


chữ cịn đạo diễn phim điện ảnh dùng ngơn ngữ của điện ảnh để thể hiện nên
nội dung sự kiện của cấu trúc tự sự. Đây là sự sáng tạo khi đạo diễn làm phim
đã phối hợp các yếu tố về hình ảnh và âm thanh để kể một câu chuyện thay vì
dùng ngơn từ trên nền văn bản của tiểu thuyết. Chính vì điều này mà các
chuẩn mực của trật tự thời gian tuyến tính và cấu trúc tự sự từ tiểu thuyết

“Phiên bản” khi cải biên thành phim điện ảnh “Hương Ga” đều có sự thay
đổi theo mục đích của ngƣời làm phim. Khán giả khi tiếp nhận bộ phim
“Hương Ga” nói riêng, và phim điện ảnh cải biên từ văn học nói chung, đều
buộc lịng phải chú ý kỹ những hình ảnh; âm thanh diễn ra trƣớc mắt họ và
chính họ lại phải một lần nữa sắp xếp lại các sự kiện theo thời gian tuyến tính
để có thể hiểu một thơng điệp; một giá trị của sự sáng tạo đến từ đạo diễn
thực hiện cải biên tiểu thuyết “Phiên bản” của Nguyễn Đình Tú. Những giá
trị mới của sự sáng tạo ẩn mình dƣới hình thức mới và có khả năng tác động
mới; mang những thơng điệp và giá trị nhân sinh cũng mới mẻ, khác biệt so
với những thứ nằm trên nền tiểu thuyết ban đầu. Sở dĩ có sự khác biệt này là
vì mỗi loại hình nghệ thuật đều có những ngơn ngữ nghệ thuật riêng trong
cách thể hiện nội dung. Cùng với sự phát triển ngày càng cao của nền văn
minh nhân loại, các loại hình nghệ thuật ngày càng phát triển phong phú, đa
dạng. Các loại hình nghệ thuật trở nên phức tạp hơn khi chúng có xu hƣớng
giao thoa và hỗ trợ lẫn nhau để truyền tải thông điệp đến ngƣời lĩnh hội.
Tóm lại, cải biên liên quan đến sự thay đổi về loại hình nghệ thuật. Tác
phẩm văn học thể hiện giá trị bằng ngôn từ trên nền văn bản. Sản phẩm điện
ảnh thể hiện giá trị bản thân mình trên chất liệu chính là hình ảnh và âm
thanh. Thế nhƣng, trong nội tại mỗi loại hình nghệ thuật này đã có sự tồn tại
một phần của đối phƣơng. Chúng tơi gọi đó là sự giao thoa giữa văn học và
điện ảnh. Là kết quả của sự thay đổi về loại hình nghệ thuật dƣới sức mạnh
của quá trình cải biên.

16


 Cải biên là quá trình tái sáng tạo nội dung.
Francois Truffaut là một trong các nhà làm phim đã tạo ra phong trào
Làn sóng mới của Pháp. Với bộ phim truyện đầu tay Bốn trăm cú đấm (400
blows) vào năm 1959 Truffaut đã đoạt giải Cành Cọ Vàng tại Liên hoan phim

Cannes. Ông là ngƣời thƣờng xuyên chia sẻ về những nhận định và nghiên
cứu của mình về điện ảnh. Dẫn theo quan điểm của Truffaut thì cốt lõi của
khái niệm cải biên (Adaptation) khi đi từ văn học sang điện ảnh đó là q
trình truyền tải ý nghĩa của tác phẩm văn học sang một hình thức mới. Nội
dung thơng điệp của tác giả từ hình thức nghệ thuật này sang hình thức nghệ
thuật khác khơng chỉ dừng lại bởi q trình truyền tải mà cịn phải bao gồm cả
quá trình chuyển đổi cho hợp với hình thức nghệ thuật hậu cải biên. Điều này
thật sự đã làm sáng tỏ về bản chất cho quá trình cải biên từ một tác phẩm văn
học sang điện ảnh. Trong quá trình đó, đạo diễn hồn tồn có quyền năng để
thoải mái sáng tạo nhằm tạo ra tác phẩm hậu cải biên của mình. Ngƣời làm
phim điện ảnh có thể thay đổi cấu trúc tự sự; thứ tự các diễn biến nội dung;
đặc trƣng mỗi nhân vật… và có thể thay đổi cả cốt truyện từ tác phẩm trƣớc
khi cải biên miễn sao tác phẩm hậu cải biên làm rõ đƣợc ý nghĩa, hồn cốt của
tác phẩm mà nó dựa vào. Hoặc ít nhất là mang một đặc trƣng nhận diện của
tác phẩm văn học trong phim điện ảnh.
Cải biên liên quan đến việc xử lý câu chuyện và cốt truyện từ văn học
đến điện ảnh. Câu chuyện là một tổ hợp tất cả các sự kiện trong một tự sự, cả
những sự kiện đƣợc biểu hiện ra bên ngoài và những sự kiện mà ngƣời xem
phán đoán. Chẳng hạn, cùng khai thác nội dung câu chuyện về cuộc đời của
trùm giang hồ Dung Hà nhƣng mỗi tác giả sẽ có cách chọn lựa những giai
đoạn trong cuộc đời của Dung Hà. Có ngƣời chọn lựa khai thác về chuyện
đồng tính nữ của Dung Hà; có ngƣời khác có thể chọn lựa khai thác về những
lần ra tay thị uy giang hồ của Dung Hà và cũng có tác giả có thể chọn lựa khai
thác về cách đối nhân xử thế của Dung Hà, khai thác về việc nguyên nhân và
lý giải sự tha hóa của Dung Hà…

17


Trong quá trình xây dựng tác phẩm văn học và tác phẩm phim điện ảnh,

nhà văn và ngƣời làm phim bao giờ cũng thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp
những xung đột xã hội của thời đại vào tác phẩm của mình thơng qua hệ thống
sự kiện của cốt truyện. Vì vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, đƣợc qui
định bởi những điều kiện lịch sử, xã hội mà nhà văn đang sống. Khi nói đến
cốt truyện trong tiểu thuyết và cả trong phim, cần chú ý rằng, đó ln l n là
sản phẩm sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Thông qua cốt truyện, ngƣời nghệ sĩ
vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự
đánh giá chủ quan của họ đối với nhân vật; sự kiện có thật ngồi cuộc sống.
Vì vậy, những gì diễn ra trên phim và tiểu thuyết khơng thể giống ngun bản
với những chuyện có thật ngồi cuộc đời vào tác phẩm. Đó chỉ là những
“Phiên bản”. Những xung đột xã hội phải đƣợc đồng hóa một cách có nghệ
thuật nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, thứ yếu để xây dựng c ốt truyện
theo hƣớng điển hình hóa. Vì vậy, cốt truyện thay đổi từ thiểu thuyết sang
phim điện ảnh là một quy luật thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tƣ tƣởng,
phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của đạo diễn phim điện ảnh đối với
cuộc sống. Những sự kiện, đƣợc xây dựng, sắp xếp và đặt vào trật tự, cấu trúc
mới, có thể đảo lộn tất cả các yếu tố, các yếu tố sau có thể đƣa ra trƣớc để
nhấn mạnh, nhằm kích thích, tăng cƣờng hiệu quả của tự sự. Cải biên về cấu
trúc tự sự ở phƣơng diện cốt truyện đƣợc dùng rất nhiều trong tiểu thuyết và
cả trong phim điện ảnh. “Hương Ga” là một điểm sáng của điện ảnh Việt
Nam đƣơng thời. Bộ phim điện ảnh nổi tiếng này đƣợc cải biên từ tiểu thuyết
“Phiên bản” của nhà văn Nguyễn Đình Tú. Nội dung phim lấy ý tƣởng và
cảm hứng từ tiểu sử về cuộc đời của Dung Hà trong vụ án Năm Cam và đây là
một bộ phim có cấu trúc tự sự khơng theo trật tự tuyết tính. Những lớp nội
dung và cảnh diễn xuất liên tục liên tục đƣợc xáo trộn từ quá khứ - hiện tại và
quá khứ. Phim điện ảnh “Hương Ga” có cốt truyện bắt đầu từ sự kiện tại cuộc
rƣợt đuổi trên cảng và sự trốn chạy của hai ngƣời phụ nữ cùng một đứa bé gái
tên Quỳnh. Từ đó, câu chuyện về cuộc đời của trùm guiang hồ đất Cảng Hải
Phịng đƣợc chính cơ kể lại và đến cuối phim, cảnh đầu phim mới lại đƣ ợc


18


diễn tiến để chạm đến kết thúc. Tuy nhiên, ở tác phẩm văn học “Phiên bản”,
Nguyễn Đình Tú lại chọn cách kể chuyện hoàn toàn khác biệt. Hệ thống tự sự
thay đổi, cách thể hiện và ngôn ngữ sự kiện cũng thay đổi từ tiểu thuyết sang
phim điện ảnh.
Ở tiểu thuyết “Phiên bản”, cốt truyện bắt đầu từ quá trình tự sự đầy
đau khổ, về nỗi sợ hãi của nhân vật Diệu trong căn phịng mình về những
ngày tháng lầm lỗi mà cơ ta đã trải qua khi nhìn vào bóng trăng – một nhân
vật trong sự tƣởng tƣợng của Hƣơng Ga trong màn đêm.“Mảnh trăng cong
vênh nghễu nghện đi ngang chấn song kia, ai cho ngƣơi dừng lại trƣớc cửa
phòng ta (…) Mảnh trăng kia bây giờ lại tròn đầy hơn, có dáng có hình, thoạt
trơng nhƣ ma quỷ, nhìn mãi thì ra một bức tƣợng, lúc bất động nhƣ gốc cây,
khi biến chuyển nhƣ cái bóng, lúc giống nhƣ một con ngƣời, kh i lại mờ ảo
nhƣ một vệt sáng” (Nguyễn Đình Tú, 2014). Bản thân tác giả Nguyễn Đình Tú
khi sáng tác các tác phẩm văn chƣơng trong đó bao gồm tiểu thuyết “Phiên
bản” cũng sử dụng rất nhiều những yếu tố văn bản, yếu tố ý tƣởng đã có từ
trƣớc. Cuộc đối thoại trong tiểu thuyết của Nguyễn Đình Tú có sự liên hệ gần
giống với sự đối thoại giữa linh hồn và thể xác trong tác phẩm “Hồn Trương
Ba da hàng thịt” của Lƣu Quang Vũ. Khi nhân vật thể hiện những suy tƣ; dồn
nén cảm xúc của mình bằng cách tự phân thân thành ha i phần khác nhau – hồn
và xác để có thể trực tiếp lý giải những vấn đề mà ở ngun bản họ khơng thể
tìm đƣợc câu trả lời. Nhà văn Nguyễn Đình Tú nói riêng và những nhà văn
hiện đại nói chung khi sáng tác đều bị ảnh hƣởng bởi những điều đã ăn sâu
vào máu thịt họ. Họ khơng thể nào hồn tồn tuyệt đối sáng tạo ra nội dung
mới khi khơng có sự kế thừa cho dù là rất ít hoặc rất nhiều. Tác giả khơng thể
nào thoát ly tuyệt đối khỏi di sản của tƣ tƣởng và những điều đã có từ trƣớc.
Nhƣ vậy, khi chúng ta xem phim “Hương Ga” tức là chúng ta đang xem;
đang nghe lại cách mà đạo diễn Ngô Quốc Cƣờng - tác giả làm phim từ tác

phẩm văn học đọc; tri nhận và tái sáng tạo nội dung để có thể tạo ra sản phẩm
điện ảnh. Giữa phim điện ảnh “Hương Ga” và tiểu thuyết “Phiên bản” giống
nhau về một phần của câu chuyện nhƣng sẽ có sự khác biệt về cốt truyện. Tức

19


×