Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa của tổng công ty rau quả việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.64 KB, 85 trang )










LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
hoạt động xuất khẩu sản phẩm dứa
của Tổng công ty Rau quả việt nam




Lời mở đầu

Toàn cầu hoá là xu thế của quá trình phát triển kinh tế thế giới. Lịch sử đã
chứng minh rằng, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa lại phát triển
nền kinh tế trong nước. Với thời kỳ bùng nổ thông tin như hiện nay thì sự hội nhập
là cần thiết. Mỗi một quốc gia muốn phát triển nhanh, mạnh thì phải hội nhập với
nền kinh tế thế giới để có thể tận dụng có hiệu quả tất cả các thành tựu khoa học kỹ
thuật của loài người đã đạt được. Đồng thời sự phân công lao động sẽ giúp mỗi
nước phân bổ nguồn lực một cách có lợi nhất.
Việt Nam, với chính sách đổi mới mở cửa, đã tạo ra những cơ hội to lớn cho
các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó là sự cạnh tranh cũng ngày gay gắt và khóc
liệt. Trong cơ chế thị trường, sự đào thải là rất lớn. Đối với các doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta hiện nay khi bước vào cơ chế thị trường đã gặp không ít khó khăn


trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đã có không ít các doanh nghiệp đã phải
giải thể, phá sản do làm ăn thua lỗ.
Trong bối cảnh đó, Tổng công ty Rau quả Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu. Biết khai thác
mở rộng quy mô thị trường xuất khẩu, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, từng
bước đổi mới và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, xuất khẩu Trong thời
gian qua, Tổng công ty đã đạt được những kết quả nhất định, làm ăn ngày càng có
lãi và hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày một nâng cao. Tuy nhiên, Tổng công ty đã
gặp không ít khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là trong
hoạt động xuất khẩu mặt hàng dứa-một mặt hàng chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn
trong hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty.
Sau gần 3 tháng thực tập tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam, nhận thức được
tầm quan trọng của mặt hàng dứa. Do vậy em chọn đề tài: “giai phap day manh
xuat khau mat hang dua tai tong cong ty rau qua viet nam ”
Mục đích nghiên cứu: Dựa vào kết quả phân tích về thực trạng xuất khẩu mặt
hàng dứa của Tổng công ty, đưa ra những giải pháp cũng như những kiến nghị
nhằm đưa hoạt động xuất khẩu dứa của Tổng công ty ngày càng nâng cao và có
hiệu quả hơn.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mặt hàng dứa xuất khẩu của Tổng công ty
Rau quả Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Là hoạt động xuất khẩu mặt hàng dứa của Tổng công ty
Rau quả Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng trên cơ sở
phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu dứa của Tổgn công ty Rau quả Việt Nam.
Thời gian nghiên cứu: 15 tuần thực tập tại Tổng công ty Rau quả Việt Nam
Chuyên đề của em được chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong
cơ chế thị trường
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu dứa của tổng công ty rau
quả việt nam

Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sản
phẩm dứa của Tổng công ty Rau quả việt nam
Em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thừa Lộc, Ths Nguyễn Anh Tuấn cùng
các cô chú tại phòng XNK I đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.

Chương i
lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường

I. xuất khẩu và vai trò của hoạt động xuất khẩu
1. Khái niệm
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa là việc bán hàng hóa, dịch vụ cho một quốc gia
khác trên cơ sở dùng tiền tệ để thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với
một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động xuất nhập khẩu là
khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, và khi
trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia là có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia
vào hoạt động này.
Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian lẫn thời
gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn, song nó cũng có thể kéo dài hàng
năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia. Nó
diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng
cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các
hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho các nước tham gia.
Hoạt động xuất khẩu là một hình thức cơ bản của thương mại quốc tế, đã xuất
hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Tuy hình thức đầu tiên chỉ là hàng đổi
hàng song ngày nay xuất khẩu được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như:
xuất khẩu trực tiếp,xuất khẩu qua trung gian, buôn bán đối lưu, xuất khẩu ủy thác,
xuất khẩu theo nghị định thư





2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
2.1 Đối với doanh nghiệp
Mục tiêu của các doanh nghiệp là bán được hàng và thu lợi nhuận và thị
trường thế giới là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng cho việc tiêu thụ hàng.
Thông qua xuất khẩu doanh nghiệp có thể đem lại những lợi ích như:
Các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng sản phẩm - những yếu tố đòi hỏi doanh nghiệp
phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu buộc các
doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh, đồng
thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những về chiều rộng mà cả
về chiều sâu. Do đó doanh nghiệp có thể đạt được các mục tiêu trong hoạt động
xuất khẩu, đặc biệt là mục tiêu lợi nhuận.
Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, tạo thu nhập ổn định cho người lao động, tạo ra ngoại tệ để nhập máy móc
thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và đem lại lợi nhuận cao.
Thông qua các hợp đồng kinh tế các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ
buôn bán với các khách hàng nước ngoại trên cơ sở hai bên cùng có lợi, đồng thời
có thể tăng uy tín và vị thế trong thị trường quốc tế
2.2 Đối với quốc gia xuất khẩu
Thực tiễn cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu, một nước và đặc biệt là các
nước đang phát triển có thể sử dụng các nguồn vốn chính như: đầu tư nước ngoài,
vay nợ, viện trợ và thu từ hoạt động xuất khẩu. Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu
tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ thì không ai có thể phủ nhận được. Nhưng khi sử
dụng những nguồn vốn này thì những nước đi vay phải chấp nhận những thiệt thòi
nhất định và dù bằng cách này hay cách khác cũng phải hoàn lại vốn cho nước
ngoài. Bởi vậy, nguồn vốn quan trọng nhất mà mỗi quốc gia có thể trông chờ là vốn
thu được từ hoạt động xuất khẩu. Vì vậy, xuất khẩu là hoạt động chính tạo tiền đề
cho nhập khẩu, quyết định đến quy mô và tăng trưởng của nhập khẩu.
Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, xuất khẩu tạo nguồn vốn chính cho nhập

khẩu, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự tăng
trưởng kinh tế của mỗi quốc gia đòi hỏi phải có bốn điều kiện: nhân lực, tài nguyên,
vốn và kỹ thuật. Song không phải quốc gia nào cũng có đủ bốn điều kiện đó. Để
giải quyết tình trạng này buộc họ phải nhập từ bên ngoài những yếu tố mà trong
nước chưa có khả năng đáp ứng.
Xuất khẩu thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý và phát triển
sản xuất trong nước. Các nước sẽ sản xuất nhiều hơn và đi vào chuyên môn hoá
những sản phẩm hàng hoá mà sẽ đem lại lợi nhuận khi xuất khẩu, khi nền sản xuất
trong nước phát triển đã thoả mãn được những nhu cầu tiêu dùng trong nước còn
những sản phẩm thừa có thể đem xuất khẩu tới các quốc gia khác không co lợi thế
đối với sản phẩm đó. Xuất khẩu là một động lực phát triển nền kinh tế xã hội do đó
cúng lam chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo một xu hướng chung từ nền nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ. Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sẽ giúp các nước kém
phát triển (như Việt nam) chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công
nghiệp, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới.
2.3 Đối với nền kinh tế thế giới
Do những điều kiện khác nhau nên một quốc gia có thể mạnh về lĩnh vực này
nhưng lại yếu về lĩnh vực khác. Vì vậy, để có thể khai thác được lợi thế, tạo ra sự
cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao đổi
với nhau dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo. Ông nói rằng: " Nếu một
quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các
loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra
lợi ích của chính mình" . Và khi tham gia vào thương mại quốc tế thì "quốc gia có
hiệu quả thấp trong sản xuất các loại hàng hóa sẽ tiến hành chuyên môn hóa sản
xuất và xuất khẩu các loại hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng là ít bất lợi nhất và
nhập khẩu những loại mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng có bất lợi lớn hơn". Nói
cách khác, mọi quốc gia đều có thể tìm ra điểm có lợi để khai thác. Chuyên môn
hóa làm cho mỗi quốc gia đều khai thác được lợi thế của mình một cách tốt nhất,
giúp tiết kiệm được nguồn lực như vốn, kỹ thuật, nhân lực trong quá trình sản
xuất hàng hóa và từ đó có thể thu được lợi ích từ hoạt động xuất khẩu. Do đó, tổng

sản phẩm trên quy mô toàn thế giới cũng sẽ được gia tăng, xét về tổng thể thì nền
kinh tế thế giới vẫn có sự tăng trưởng.
3. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa
3.1 Xuất khẩu trực tiếp
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất,
nhà xuất khẩu và các cá nhân, tổ chức nước ngoài trực tiếp quan hệ với nhau bằng
cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thỏa thuận một cách tự nguyện. Nội
dung thỏa thuận không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không
nhất thiết phải gắn liền với việc bán. Trong giao dịch, người ta làm một loạt các
công việc như nghiên cứu tiếp cận thị trường, người mua hỏi giá và đặt hàng, người
bán chào giá. Sau đó, hai bên hoàn giá chào (mặc cả) và chấp nhận giá, cuối cùng là
ký kết hợp đồng.
3.2 Xuất khẩu qua trung gian
Giao dịch qua trung gian là hình thức mà trong đó bên mua và bên bán thông
qua người thứ ba đứng ra thiết lập mối quan hệ và quy định các điều kiện mua bán
và người trung gian được hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất đã được thỏa
thuận. Giao dịch qua trung gian hiện nay chiếm khoảng 52% kim nghạch buôn bán
trên thế giới
Giao dịch qua trung gian có các lợi ích như:
Người trung gian thường có nhiều hiểu biết về thị trường, thủ tục pháp lý và
họ cũng có cơ sở vật chất tốt
Có lợi khi sử dụng người trung gian nếu năng lực và nghiệp vụ của bên xuất
khẩu hoặc nhập khẩu còn kém.
Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm là lợi nhuận bị chia sẻ, hoặc doanh
nghiệp không thể chắc chắn tin cậy vào người trung gian.
3.3 Xuất khẩu gia công uỷ thác
Trong hình thức này, một bên nhận gia công nhập nguyên liệu hoặc bán thành
phẩm cho bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm, sau đó giao lại cho bên đặt
gia công và nhận thù lao gọi là phí gia công. Như vậy trong hoạt động này hoạt
động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.

Hình thức này bao gồm các bước:
- Ký hợp đồng với bên nước ngoài và nhập nguyên liệu.
- Ký hợp đồng gia công ủy thác với đơn vị trong nước.
- Giao nguyên vật liệu gia công theo định mức.
- Thanh toán phí gia công cho đơn vị sản xuất và nhận phí ủy thác gia công
được hưởng.
Hình thức này có ưu điểm là không cần bỏ nhiều vốn vào kinh doanh nhưng
vẫn thu được nhiều lợi nhuận, rủi ro ít, tận dụng được nguồn lao động ở các nước
khác, việc thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Nhưng nó cũng đòi hỏi phải có
các cán bộ dày dạn kinh nghiệm và phải làm nhiều thủ tục xuất khẩu.
3.4 Hình thức mua bán đối lưu
Đây là một phương thức giao dịch trong đó kết hợp chặt chẽ giữa xuất khẩu và
nhập khẩu. Người bán đồng thời là người mua và lượng hàng trao đổi phải có giá trị
tương đương, nghĩa là hàng hóa hai bên phải được cân bằng cả về mặt hàng, giá cả,
tổng giá trị và điều kiện giao hàng. Ví dụ, mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, hàng
tồn kho đổi lấy hàng tồn kho, nhập hàng với gía CIF thì xuất hàng cũng phải với giá
CIF
Buôn bán đối lưu có hai nghiệp vụ chủ yếu là hàng đổi hàng và nghiệp vụ bù
trừ:
- Nghiệp vụ hàng đổi hàng: hai bên trực tiếp trao đổi với nhau những hàng
hóa có giá trị tương đương và việc giao hàng gần như diễn ra đồng thời.
- Nghiệp vụ bù trừ: hai bên trao đổi hàng hóa với nhau trên cơ sở quan hệ giá
trị hàng giao. Đến cuối kỳ hạn, hai bên mới so sổ sách đối chiếu giá trị hàng giao
với giá trị hàng nhận. Nếu sau khi bù trừ tiền hàng mà còn số dư thì số tiền đó được
giữ lại để chi trả theo yêu cầu của chủ nợ. Nghiệp vụ này là hình thức phát triển
nhanh nhất của buôn bán đối lưu.
- Ngoài ra, trong buôn bán đối lưu còn một số nghiệp vụ khác như nghiệp vụ
mua đối lưu, nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ hoặc giao dịch bồi hoàn.
3.5 Hình thức tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức xuất khẩu những hàng hóa đã nhập khẩu trước đây nhưng

chưa qua chế biến nhằm mục đích thu lợi nhuận chứ không phải để phục vụ tiêu
dùng trong nước. Để tiến hành được hoạt động nay cần phải có ít nhất ba chủ thể
thuộc ba quốc gia khác nhau: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Hàng hóa đi từ nước xuất khẩu sang nước tái xuất rồi sang nước nhập khẩu.
Còn tiền sẽ được nước tái xuất thu từ nước nhập khẩu và trả cho nước xuất khẩu.
Trong trường hợp này, nước tái xuất sẽ thu được một khoản chênh lệch giữa khoản
tiền bỏ ra để nhập khẩu và số tiền thu được sau khi xuất khẩu. Ngoài ra họ có thể
hưởng thu nhập do sử dụng đồng tiền chiếm dụng vì đã thu của nước nhập khẩu
nhưng chưa trả cho nước xuất khẩu.
II. hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
1. Nghiên cứu thị trường quốc tế, xác định mặt hàng xuất khẩu và thị trường
xuất khẩu
* Nghiên cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh nhận ra được
quy luật vận động của từng loại hàng hóa cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu cung
cấp và giá cả hàng hóa đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được những vấn đề của
thực tiễn kinh doanh theo yêu cầu của thị trường, khả năng tiêu thụ và khả năng
cạnh tranh hàng hóa. Công việc này bao gồm:
1.1 Nghiên cứu thị trường hàng hóa thế giới
Thị trường là phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất lưu thông hàng hóa, ở
đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Khi nghiên cứu thị
trường hàng hóa thế giới ta phải nghiên cứu toàn bộ quá trình sản xuất của một
ngành sản xuất cụ thể, tức là nghiên cứu cả ở lĩnh vực sản xuất, lưu thông và phân
phối hàng hóa. Nghiên cứu thị trường hàng hóa nhằm đem lại sự hiểu biết về quy
luật hoạt động của chúng. Những quy luật này được thể hiện thông qua những biến
đổi về nhu cầu, cung cấp và giá cả hàng hóa trên thị trường. Nắm chắc được các quy
luật này ta có thể vận dụng để giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn kinh
doanh, đáp ứng được nhu cầu của thị trường và có những biện pháp thâm nhập,
chiếm lĩnh thị trường.
1.2 Thị trường và các yếu tố ảnh hưởng
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên một phạm

vi thị trường nhất định. Nhưng nó không xác định mà thay đổi do những nhân tố
tổng hợp trong những giai đoạn nhất định. Có thể chia làm ba nhóm nhân tố ảnh
hưởng tới dung lượng thị trường:
- Nhóm 1: Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến đổi có tính chất
chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước phương tây, tính chất thời vụ trong quá trình sản xuất, phân phối và lưu thông
hàng hóa
- Nhóm 2: Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi dung lượng thị
trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp, chính sách của
Nhà nước, tập quán và thị hiếu của người tiêu dùng, ảnh hưởng của hàng hóa thay
thế
- Nhóm 3: Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường.
Nó bao gồm: hiện tượng đầu cơ trên thị trường gây ra những biến đổi về cung cầu,
bão lụt, hạn hán
Như vậy, khi nghiên cứu thị trường hàng hóa khác nhau phải căn cứ vào đặc
điểm của chúng để đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, xác định
được nhân tố chủ yếu có ý nghĩa quyết định đến xu hướng vận động của thị trường
trong giai đoạn hiện tại và tương lai. Đặc biệt trong quá trình kinh doanh xuất nhập
khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng, nắm vững dung lượng thị trường giúp cho
các nhà kinh doanh cân nhắc để đề ra những quyết định kịp thời, chính xác và
nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong kinh
doanh.
1.3 Nghiên cứu giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, đồng thời biểu hiện một
cách tổng hợp các hoạt động kinh tế, các mối quan hệ kinh tế như quan hệ cung cầu
hàng hóa, tích lũy tiêu dùng Giá cả luôn gắn với thị trường và chịu tác động của
nhiều nhân tố.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả thị trường rất phức tạp do việc buôn bán diễn
ra ở các khu vực khác nhau và trong một thời gian dài. Mặt khác, hàng hóa được
vận chuyển qua nhiều nước có các chính sách thuế khác nhau nên giá cả cũng khác

nhau. Do vậy, để thích ứng với sự biến động của thị trường các nhà kinh doanh phải
thực hiện việc định giá linh hoạt và phù hợp với mục đích cơ bản của doanh nghiệp.
Thông thường việc định giá dựa vào giá thành và các chi phí khác ( chi phí
vận tải, bảo hiểm ), sức mua và nhu cầu của người tiêu dùng cũng như giá cả của
hàng hóa cạnh tranh khác.
Khi định giá cần tuân thủ các bước sau:
- Bước 1: phân tích chi phí.
- Bước 2: phân tích và dự đoán thị trường.
- Bước 3: vùng giá và các mức giá dự kiến.
- Bước 4: lựa chọn giá tối đa.
- Bước 5: xác định cơ cấu giá.
- Bước 6: báo giá cho khách hàng.
Nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề chiến lược ưu tiên vì nó ảnh hưởng trực
tiếp tới sức tiêu thụ lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá đúng sẽ đem lại thắng lợi
cho nhà xuất khẩu, tránh cho họ những rủi ro và thua lỗ.
*Xác định mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu
Từ kết quả nghiên cứu thị trường quốc tế và các yếu tố ảnh hưởng đến thị
trường hàng xuất khẩu và dựa vào tiềm lực của doanh nghiệp, doanh nghiệp lựa
chọn mặt hàng xuất khẩu sao cho phù hợp. Lựa chọn mặt hàng còn phụ thuộc chủ
yếu vào công tác tạo nguồn hàng, và khả năng tạo ra lợi ích từ hoạt động xuất khẩu
mặt hàng đó.
Đồng thời lựa chọn bạn hàng sao cho công tác kinh doanh an toàn và có lợi
cũng rất quan trọng. Nội dung cần thiết để nghiên cứu lựa chọn đối tác bao gồm:
- Quan điểm kinh doanh của thương nhân đó.
- Lĩnh vực kinh doanh của họ.
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất của họ.
- Những người được ủy quyền và phạm vi chịu trách nhiệm của họ đối với
nghĩa vụ của công ty.
Lựa chọn đối tác để xuất khẩu tốt nhất nên chọn những người nhập khẩu trực
tiếp, hạn chế hoạt động trung gian vì nó chỉ thích hợp khi ta thâm nhập thị trường

mới, mặt hàng mới mà cần phải nắm bắt các thông tin về thị trường. Có thể nói,
việc lựa chọn đối tác kinh doanh có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực
hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương mại quốc tế. Song việc lựa chọn
các đối tác kinh doanh cũng tùy thuộc một phần vào kinh nghiệm của người nghiên
cứu và truyền thống trong mua bán của mình.
2. Giao dịch đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu
2.1 Giao dịch đàm phán
Đàm phán là việc bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau
nhất trí và thoả hiệp giải quyết về các điều kiện mua bán giữa các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu để đi đến ký kết hợp đồng. Thông thường có các hình thức: đàm
phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp, đàm phán qua thư tín, đàm phán qua điện thoại
Quá trình đàm phán thường được tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Chào hàng: đây là việc nhà kinh doanh thể hiện rõ ý định bán hàng
của mình, là lời đề nghị ký kết hợp đồng.
- Bước 2: Hoàn giá: khi khách hàng nhận được đơn chào hàng nhưng không
chấp nhận hoàn toàn các điều kiện trong đơn chào hàng đó mà đưa ra một lời đề
nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn giá.
- Bước 3: Chấp nhận: là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều kiện chào hàng
mà phía bên kia đưa ra. Sau đó tiến hành ký kết hợp đồng.
- Bước 4: Xác nhận: sau khi hai bên thỏa thuận với nhau về điều kiện giao
dịch, có thể ghi lại tất cả các thỏa thuận gửi cho bên kia. Đó là văn kiện có chữ ký
của cả hai bên. Quá trình đàm phán kết thúc.
2.2 Hợp đồng kinh tế về xuất khẩu hàng hóa
Nếu quá trình đàm phán thành công thì các bên tiến hành kí kết hợp đồng
xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch
giữa các bên ký kết về việc thực hiện xuất khẩu hàng hoá, và quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên liên quan trong hoạt động xuất khẩu đó. Đối với các đơn vị xuất khẩu
hợp đồng là hình thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên.
Khi ký kết hợp đồng cần chú ý những điểm sau:
- Hợp đồng cần trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đúng nội dung đã thỏa

thuận, không để tình trạng mập mờ và tránh suy luận.
- Hợp đồng cần đề cập đầy đủ mọi vấn đề, tránh việc phải áp dụng tập quán để
giải quyết những vấn đề bên kia không đề cập đến. Trong hợp đồng không được có
những điều khoản trái với luật lệ hiện hành ở nước người xuất khẩu và nhập khẩu.
- Ký kết hợp đồng phải là người thực sự có thẩm quyền ký kết.
- Ngôn ngữ dùng trong hợp đồng là ngôn ngữ phổ biến mà hai bên đều
thông thạo.
- Hợp đồng phải có đầy đủ các điều khoản cơ bản sau:
- Điều khoản tên hàng
- Điều khoản phẩm chất
- Điều khoản về số lượng
- Điều khoản giá cả
- Điều kiện giao hàng
- Điều kiện về thanh toán
- Ngoài ra trong hợp đồng còn có các điều khoản phụ như:
- Điều kiện về bao bì
- Điều kiện về khiếu nại
- Điều kiện bảo hành
- Điều kiện trọng tài
- Điều kiện vận tải
- Điều kiện trường hợp miễn trách
3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu
Chúng ta đều biết rằng, việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng tốt sẽ góp phần
đáp ứng kịp thời, chính xác nhu cầu thị trường và thực hiện đúng thời hạn cũng như
các điều khoản trong hợp đồng đã và sẽ kí kết. Nguồn hàng cho xuất khẩu là toàn
bộ hàng hóa của một cá nhân, một doanh nghiệp hay một địa phương, một vùng
hoặc toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được. Để tạo nguồn hàng cho xuất
khẩu, các doanh nghiệp có thể đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp cho sản xuất, hay có
thể là thu gom hoặc ký hợp đồng với các đơn vị sản xuất khác.
Nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định là tiền đề cho việc phát triển kinh doanh

của các doanh nghiệp. Vì vậy, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu là công tác rất quan
trọng. Thông thường người ta tìm nguồn hàng cho xuất khẩu thông qua việc nắm
bắt khả năng cung ứng hàng xuất khẩu của các đơn vị trong và ngoài ngành và trên
cơ sở nhu cầu của khách hàng.
4. Lập phương án xuất khẩu
Dựa vào những kết quả phân tích được trong quá trình nghiên cứu thị trường,
kết hợp với mục tiêu kinh doanh cũng như tiềm lực của chính doanh nghiệp, đơn vị
kinh doanh lập phương án kinh doanh xuất khẩu cho mình. Phương án này là kế
hoạch hoạt động của doanh nghiệp trong ngắn hạn cũng như dài hạn nhằm đạt tới
những mục tiêu xác định. Việc xây dựng phương án xuất khẩu bao gồm các nội
dung sau:
- Đánh giá tình hình thị trường, về cạnh tranh, về giá cả và môi trường kinh
doanh để có thể nhận biết một cách tổng quát về những khó khăn, thuận lợi trong
quá trình kinh doanh.
- Lựa chọn mặt hàng, thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh. Sự lựa
chọn này phải có tính thuyết phục dựa trên cơ sở phân tích tình hình thực tế.
- Đề ra mục tiêu cụ thể: khối lượng, giá bán và thị trường xuất khẩu.
- Đưa ra các biện pháp để thực hiện các mục tiêu đó bằng các biện pháp xúc
tiến thương mại, đầu tư vào nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó có thể tiến tới kí
kết các hợp đồng kinh tế.
- Cuối cùng là đánh giá hiệu quả kinh tế của việc kinh doanh thông qua các
chỉ tiêu chủ yếu như: lợi nhuận thu về, tỷ suất ngoại tệ, thời gian hoàn vốn, điểm
hòa vốn
5. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng được ký kết thì đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải thực hiện
theo các quy định ghi trong hợp đồng, các bên phải có trách nhiệm thực hiện hợp
đồng theo các điều khoản đã được ký. Trước đây mọi đơn vị khi tham gia xuất khẩu
hàng ra nước ngoài đều phải xin giấy phép do cơ quan quản lý cấp, sau khi có Nghị
định 57 CP thì các doanh nghiệp đã được tạo thuận lợi hơn rất nhiều, các doanh
nghiệp chỉ cần đăng kí mã số xuất khẩu với Bộ thương mại và có thể xuất khẩu trực

tiệp các mặt hàng chỉ trừ những mặt hàng thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu hoặc
bị hạn chế xuất khẩu. Hợp đồng xuất khẩu được thực hiện qua nhiều bước khác
nhau không thể phải theo một mẫu nhất định mà việc tổ chức thực hiện hợp đồng
còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: hình thức xuất khẩu, phương thức quản lý
của Nhà nước, phương thức thanh toán, phương thức vận chuyển giao hàng
Nhưng nói chung trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu thường có các bước
như sau:








Xin giấy
phép
xuất
khẩu,
đăng kí
mã H
ải
Kiểm
nghiệm
hàng hóa
Giải
quyết
khiếu
n
ại


Ký kết
hợp đồng
xuất khẩu

Giao hàng
lên tàu
Mua bảo
hiểm
Kiểm
tra L/C
Làm thủ
tục hải
quan

Làm thủ
tục
thanh
Chuẩn
bị hàng
hóa
Thuê
tàu
Thanh
lý hợp
đồng





6. Giải quyết khiếu nại (nếu có) và đánh giá việc thực hiện HĐXK
Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu một trong hai bên xảy ra những vi
phạm hoặc những tranh chấp thì phía bên kia có quyền khiếu lại với trọng tài kinh
tế để đảm bảo quyền lợi của mình.
Sau khi hợp đồng đã được thực hiện các chủ thể tham gia kinh doanh xuất
khẩu thường tiến hành một bước là đánh giá việc thực hiện hợp đồng một cách tổng
thể như; thương vụ kinh doanh này đã đem lại bao nhiêu lợi nhuận hay thu được
những kết quả gì và còn tồn tại hạn chế, khó khăn ra sao và nguyên nhân của những
khó khăn trên. Từ đó có thể phân tích những khó khăn, thuận lợi và rút ra những
kinh nghiệm làm tiền đề thực hiện tốt những hợp đồng tiếp theo.
Iii. Các nhân tố tác động đến hoạt động xuất khẩu và CáC chỉ tiêu đánh giá
1. Các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh
1.1 Môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế
Trong điều kiện kinh tế thị trường và xu hướng toàn cầu hoá hiện nay thì cạnh
tranh là một hiện tượng tất yếu. Cạnh tranh là một khó khăn thách thức nhưng đồng
thời cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Do vậy,
cạnh tranh vừa mở ra cơ hội cho doanh nghiệp thực hiện các chiến lược kinh doanh
của mình, vừa đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải vươn lên phía trước để có thể vượt
qua đối thủ với nguyên tắc ai hoàn thiện hơn thoả mãn nhu cầu khách hàng hiệu quả
hơn thì người đó sẽ thắng, tồn tại và phát triển.
Đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh trong nước cũng như xuất khẩu hàng
sang các nước khác đều phải đối mặt với cạnh tranh. Vì vậy muốn thành công trong
kinh doanh thì mỗi doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình những chiến lược cạnh
tranh để có thể đương đầu với các đối thủ khác cũng như có khả năng thích nghi với
môi trường cạnh tranh mà mình đang kinh doanh.
Hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nước ta đang phải đương
đầu với sự cạnh tranh của chính các đối thủ trong nước, và khó khăn hơn nữa là sự
cạnh tranh gay gắt của các đối thủ nước ngoài, mà cuối cùng thường thì các doanh
nghiệp Việt Nam chịu thiệt. Lý do một phần cũng là chúng ta thường yếu thế hơn
về: chất lượng hàng không cao, quá trình giao nhận thủ tục phức tạp, giá cả chưa đủ

hấp dẫn, thị phần rất nhỏ, khả năng thâm nhập thị trường và thông tin ít,
1.2 Môi trường văn hoá - xã hội
Đây là một trong những yếu tố tạo nên đặc điểm thị trường xuất khẩu, nó tạo
nên đặc điểm nhu cầu khách hàng ở mỗi quốc gia, mỗi khu vực, mỗi dân tộc khác
nhau. Chính vì thế, khi xuất khẩu hàng sang một quốc gia nào đó thì trước tiên phải
hiểu được phong tục, tập quán và văn hoá của họ để từ đó mới có thể đưa ra những
sách lược kinh doanh, phong cách giao tiếp, tạo lâp mối quan hệ lâu dài.
1.3 Môi trường chính trị - luật pháp và chính sách kinh tế của Nhà nước
Các yếu tố thuộc lĩnh vực chính trị và luật pháp chi phối mạnh mẽ sự hình
thành cơ hội thương mại và sự hấp dẫn của thị trường. Mỗi quốc gia có một chế độ
chính trị khác nhau và đất nước được quản lý điều hành bởi bộ máy Nhà nước riêng,
luật pháp riêng. khi hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp không còn sự lựa chọn
nào hơn là thích nghi với môi trường chính trị luật pháp ở đó.
Sự ổn định của môi trường chính trị và pháp luật được xác định là một trong
những tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mức độ hoàn
thiện, thay đổi và thực thi pháp luật trong nền kinh tế có ảnh hưởng lớn đến kế
hoạch kinh doanh cung như sự thuận lợi trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu doanh nghiệp thường chịu ảnh
hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như:
a. Công cụ thuế quan
Trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng
xuất khẩu, việc đánh thuế xuất khẩu làm tăng tương đối mức giá cả của hàng xuất
khẩu so với mức giá quốc tế nên đem lại bất lợi cho sản xuất kinh doanh trong
nước. Nhìn chung, công cụ này chỉ được áp dụng đối với một số ít các mặt hàng
xuất khẩu bổ xung cho nguồn thu của ngân sách đất nước.
b. Các công cụ phi thuế quan
Hạn ngạch được áp dụng như một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế
quan và ngày càng có vai trò quan trọng trong nước xuất khẩu hàng hóa. Hạn ngạch
được hiểu như quy định của nhà nước về số lượng cao nhất của một mặt hàng hoặc
một nhóm hàng được phép xuất, nhập khẩu từ một thị trường trong một thời gian

nhất định thông qua các hình thức cấp giấy phép.
Mục đích của Chính phủ khi sử dụng công cụ hạn ngạch xuất khẩu là nhằm
quản lý hoạt động kinh doanh có hiệu qủa và điều chỉnh loại hàng hóa xuất khẩu.
Hơn thế nữa có thể bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện
cán cân thanh toán. Hạn ngạch mang tính cứng nhắc, cố định lượng hàng hóa xuất
khẩu trong khi thuế quan lại rất linh hoạt.
Ngoài ra, các quốc gia còn áp dụng một số biện pháp phi thuế quan khác như
tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm, giấy phép xuất khẩu
c. Tỷ giá và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất
khẩu
Đây là những nhân tố ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô và cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu. Một số chính sách tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu là chính sách
duy trì giá tương đối ổn định ở mức thấp. Còn ngược lại sẽ chỉ khuyến khích nhập
khẩu, hạn chế xuất khẩu. Kinh nghiệm của các nước đang thực hiện chiến lược
hướng về xuất khẩu là điều chỉnh tỷ giá hối đoái thường kỳ để đạt mức tỷ giá cân
bằng trên thị trường và duy trì mức tỷ giá tương quan với chi phí và giá cả trong
nước. Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy
mạnh mẽ cho việc mở rộng xuất khẩu các mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu.
Biện pháp này được nhiều nước áp dụng vì khi thâm nhập vào thị trường nước
ngoài thì rủi ro cao hơn nhiều so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu
có thể thể hiện dưới các hình thức miễn, giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất cho vốn
vay sản xuất hàng xuất khẩu
Bên cạnh đó, nếu Chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh trong nước
hướng ra thị trường nước ngoài thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối trong việc
sản xuất cho thị trường nội địa. Mặt khác, lợi nhuận sản xuất hàng thay thế nhập
khẩu cũng phải giữ ở mức độ phù hợp với mức lợi nhuận xuất khẩu. Điều đó có
nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và phải
thống nhất với tất cả các mặt hàng.
d. Chính sách cân đối cán cân thanh toán và thương mại
Trong hoạt động kinh tế thương mại nói chung, giữ vững được cán cân thanh

toán và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế. Đương nhiên, biện pháp để cân bằng không phải là phải hạn chế
xuất khẩu, cấm nhập khẩu hoặc vay vốn mà là phải có chính sách khuyến khích sản
xuất hàng hóa xuất khẩu. Song song với việc đó là mở rộng xuất khẩu, đa dạng hóa
mặt hàng xuất khẩu. Có như vậy, một quốc gia mới có thể giảm dần nhập siêu, tiến
tới cân bằng xuất khẩu.
1.4 Môi trường kinh tế - công nghệ
Với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, nhiều thành tựu khoa
học công nghệ tiên tiến đã ra đời, thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề nói chung
và các đơn vị sản xuất, kinh doanh mặt hàng xuất nhập khẩu nói riêng.
Đối với lĩnh vực sản xuất hàng hóa xuất khẩu, việc nghiên cứu và đưa vào
ứng dụng công nghệ mới sẽ giúp các đơn vị sản xuất tạo ra những sản phẩm có chất
lượng cao, gía thành thấp. Nhờ đó, chu kỳ sống của sản phẩm sẽ được kéo dài và
thu được lợi nhuận cao.
1.5 Các quan hệ kinh tế quốc tế
Quan hệ kinh tế quốc tế có tác dụng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu. Khi xuất khẩu hàng hóa sang một nước nào đó họ
thường phải đối mặt với các rào cản như thuế quan thu nhập, thuế quan bảo hộ, sự
phân biệt đối xử với các nhà kinh doanh nước ngoài và đặc biệt là hạn ngạch nhập
khẩu. Các rào cản này chặt chẽ hay nới lỏng phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế
song phương giữa các nước.
Trong khi đó, với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, nhiều liên
minh kinh tế ở mức độ khác nhau được hình thành và nhiều hiệp định thương mại
song phương, đa phương giữa các nước cũng đã được ký kết. Mục đích của các
công việc này là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả và thúc
đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và toàn thế giới.
Tóm lại, có được mối quan hệ kinh tế quốc tế rộng mở, bền vững và tốt đẹp
sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu của một quốc gia.
2. Các nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp
2.1 Nguồn nhân lực của doanh nghiệp

Trong kinh doanh đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại nhân tố con người là
yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo sự thành công của các doanh nghiệp. Con
người là chủ thể trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mọi lỗ lực đưa khoa học kỹ
thuật trang thiết bị máy móc hiện đại vào sản xuất đều do con người sáng tạo ra và
thực hiện chúng, chính con người với năng lực thực sự mới có thể khai thác một
cách hiệu quả các yếu tố trong sản xuất : vốn, tài sản, kỹ thuật công nghệ Để
nguồn nhân lực có khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và lao đồng có năng
suất, có khả năng phân tích và sáng tạo đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố: tố chất -
kiến thức - kinh nghiệm.
Như vậy, lực lượng lao động của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh và phải đáp ứng được các công việc như:
- Bằng lao động sáng tạo của mình tạo ra công nghệ mới, thiết bị máy móc,
nguyên liệu mới có hiệu quả hơn trước hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất
hiệu quả so với trước.
- Trực tiếp điều khiển thiết bị máy móc tạo ra kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Hiệu quả của quá trình này thể hiện ở việc tận dụng nguyên liệu trong sản
xuất trực tiếp tăng năng suất, tăng hiệu quả từng nơi làm việc.
- Lao động có kỷ luật, chấp hành đúng mọi nội quy về thời gian, về quy trình
kỹ thuật, sản xuất sản phẩm, quy trình bảo dưỡng máy móc dẫn đến không những
tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả mà còn tăng độ bền, giảm chi phí sửa chữa
máy móc thiết bị, góp phần giảm chi phí kinh doanh. Ngoài ra ý thức tinh thần trách
nhiệm, khả năng thích ứng của người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2.2 Tiềm lực về tài chính
Là yếu tố phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng tài sản
và nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng đầu tư
các nguồn vốn có hiệu quả và khả năng quản lý nó. Các chỉ tiêu phản ánh tiềm lực
tài chính của doanh nghiệp là:
+ Nếu xét về hình thức sở hữu
Vốn chủ sở hữu: là nhân tố chủ chốt quyết định đến quy mô và tiềm lực của
doanh nghiệp, đó chính là nội lực của doanh nghiệp.

Vốn huy động: phản ánh khả năng thu hút các nguồn đầu tư.
Tỷ lệ tái đầu tư
Khả năng sinh lời
Các nguồn nợ ngằn hạn và dài hạn
+ Nếu xét về phương thức sử dụng nguồn vốn
Tài sản cố định
Tài sản lưu động
2.3 Nguồn tài sản hữu hình và trình độ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
công nghệ
Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với sự phát triển của tư liệu lao
động. Sự phát triển tư liệu lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình tăng năng suất lao
động, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Như vậy, cơ sở vật chất
kỹ thuật là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc tăng hiệu quả sản xuất. Nếu
xét trong mối quan hệ với lao động thì cơ sở vật chất kỹ thuật vừa là công cụ vừa là
môi trường tốt để nâng cao năng lực của đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động có
năng lực, có trình độ kết hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại thì hiệu quả kinh
doanh sẽ rất cao. Và cơ cấu nguyên liệu vật liệu hợp lý cả về số lượng, chất lượng là
yếu tố quan trọng để đảm bảo sự liên tục của qúa trình sản xuất kinh doanh, giúp
cho quá trình sử dụng nguyên liệu có hiệu quả và do đó quá trình sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Rõ ràng, mức độ chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bị
tác động rất mạnh mẽ bởi trình độ hiện đại, cơ cấu tính đồng bộ, duy trì khả năng
làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị và việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm
nguyên liệu . Đặc biệt là những doanh nghiệp mà tính chất sản xuất hàng loạt theo
dây truyền tự động hoá cao. Đối với doanh nghiệp này, nhân tố khoa học kỹ thuật
có tính chất quyết định tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm quyết định
tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thực sự đưa khoa
học công nghệ có vai trò quyết định đối với nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta, phù hợp với xu thế đó, hầu hết
các doanh nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư, ngày

càng cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, cải thiện và
nâng cao trình độ trang thiết bị cho mình. Điều này được minh chứng trong thực tế
ở nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay, với cơ sở trang thiết bị còn hết sức yếu
kém, thiết bị máy móc lạc hậu không đồng bộ đã thực sự làm khó khăn cho các
doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Sản phẩm làm ra chất lượng kém, sức cạnh
tranh kém. Đó là những thách thức lớn đối với doanh nghiệp nước ta hiện nay.
2.4 Trình độ quản trị doanh nghiệp
Khả năng quản trị doanh nghiệp tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như quá trình quản lý điều hành, tổ chức mọi hoạt đồng có hệ thống và
phát huy được tính đoàn kết thống nhất trong doanh nghiệp. Nó tác động tới hoạt
động kinh doanh thông qua một loạt các nhân tố, nhân tố nội tại doanh nghiệp như
cơ cấu lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật Công tác quản trị doanh nghiệp được tiến
hành tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp một hướng đi đúng, định hướng các mục tiêu
kinh doanh ngắn và dài hạn hợp lý. Từ đó làm cơ sở đầu tiên đem lại hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Với một cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp hợp lý không những
giúp điều hành hoạt động kinh doanh tốt mà còn giảm tối thiểu các chi phí quản lý
và xây dựng một cơ cấu lao động tối ưu. Góp phần xây dựng và lựa chọn một cách
hợp lý các phương án huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu
vào và phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể tạo dựng hệ
thống quản trị doanh nghiệp được đòi hỏi nhà quản trị doanh nghiệp phải có kiến
thức khoa học và nghệ thuật kinh doanh.
3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động xuất khẩu của Tổng công ty Rau quả Việt
Nam
3.1 Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu

Tỷ suất ngoại tệ hàng
xuất khẩu =
Tổng doanh thu (bằng ngoại tệ)
Tổng chi phí (bằng nội tệ)


Nếu chỉ tiêu này thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì xuất khẩu có hiệu
quả.
3.2. Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp , nó phản ánh kết quả cuối cùng các tác
động của tất cả các yếu tố vào hoạt động xuất khẩu.
Lợi nhuận là phần dôi ra của doanh thu (DT) so với chi phí (CP)
L = DT – CP
3.3. Chỉ tiêu thời gian hoàn vốn T tính theo công thức
T =
S
B + A + I
Trong đó :
S : tổng số tiền (tự có + đi vay ) bỏ ra để kinh doanh
B : lãi

×