Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã bỉm sơn, tỉnh thanh hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.33 KB, 111 trang )

Luận văn
Nghiên cứu tình hình phát
triển kinh tế trang trại ở thị xã
Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hơn 20 năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã
ban hành nhiều chính sách, trong đó có Nghị quyết 10/NQ/TW của Bộ chính
trị (tháng 4/1988) về khoán đến hộ xã viên đã tạo động lực mới thúc đẩy nông
nghiệp, nông thôn phát triển. Sự thay đổi kinh tế nông thôn phải kể đến đóng
góp thành phần kinh tế trang trại. Từ những năm 1990 đã hình thành các mô
hình kinh tế trang trại nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Để tiếp sức
cho kinh tế trang trại phát triển, Chính phủ đã có Nghị quyết số 03/2000/NQ -
CP ngày 02/02/2000 về phát triển kinh tế trang trại. Đây là cơ sở pháp lý để
các cơ quan chức năng đưa ra các thông tư hướng dẫn về đầu tư, phát triển
kinh tế trang trại, gần đây Bộ Nông nghiệp và PTNT đã đưa ra Thông tư số
74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 về tiêu chí xác định kinh tế trang trại. Căn
cứ vào tiêu chí này, qua báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra nông thôn, nông
nghiệp và thuỷ sản năm 2006, tính đến thời điểm 1/7/2006, cả nước có 113.730
trang trại, so với năm 2001 tăng 52.713 trang trại (+ 86,4%). Kinh tế trang trại tiếp
tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản [6].
Tuy nhiên, tuỳ điều kiện các nguồn lực của từng khu vực, vùng và ở
mỗi địa phương việc phát triển kinh tế trang trại lại có sự khác nhau. Thị xã
Bỉm Sơn là một trong những đơn vị có lợi thế về đất đai, nguồn nhân lực dồi
dào, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại. Những năm
qua, nhờ phát triển kinh tế trang trại đã làm cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp
có sự chuyển dịch mạnh mẽ, từ sản xuất tự túc, nay đã chuyển mạnh sang sản
xuất hàng hoá. Năm 2006, trang trại đã giải quyết công ăn việc làm cho 2.066
lao động của thị xã và đã khai thác, sử dụng 444,9 ha đất các loại; huy động


được 13.912,8 triệu đồng vốn đầu tư SXKD của trang trại và giá trị sản phẩm
2
tạo ra trong năm từ nông, lâm nghiệp & thuỷ sản (NLTS) là 10.260,8 triệu
đồng, thu được 8.033,1 triệu đồng từ giá trị sản phẩm và dịch vụ NLTS bán
ra.
Bên cạnh những kết quả trên, phát triển trang trại còn bộc lộ nhiều
điểm bất cập đó là vẫn mang tính tự phát, thiếu qui hoạch và đầu tư chưa
đồng bộ, số lượng trang trại được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất còn thấp nên nhiều chủ trang trại chưa yên tâm
đầu tư vốn để sản xuất, thiếu vốn sản xuất, khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, lao
động của trang trại chưa qua đào tạo ngày càng chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ trang trại
có trang thiết bị để cơ giới hoá, ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp; hiệu
quả sản xuất kinh doanh chưa cao và chưa đồng đều ở các vùng…
Xuất phát từ tình hình trên, để góp phần thúc đẩy kinh tế trang trại ở
thị xã Bỉm Sơn phát triển hơn nữa, chúng tôi tiến hành nghiên cứa đề tài
"Nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn,
tỉnh Thanh Hoá".
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm
Sơn thời gian qua đề xuất các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế
trang trại ở địa phương trong những năm tới, góp phần thực hiện công nghiệp
hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở thị xã Bỉm Sơn.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
 Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận về kinh tế trang trại, sự phát
triển của kinh tế trang trại trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, ở tỉnh Thanh
Hoá và của thị xã Bỉm Sơn.
3
 Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn thời gian
qua.

 Phân tích các nguyên nhân đã ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh
tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn.
 Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy sự phát triển kinh tế
trang trại ở thị xã Bỉm Sơn trong thời gian tới.
1.3 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản
đủ tiêu chí trang trại theo qui định tại Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày
4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được xác định là đối
tượng nghiên cứu của đề tài.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
 Nội dung của đề tài: Nghiên cứu đánh giá tình hình phát triển kinh
tế trang trại ở thị xã Bỉm Sơn về quy mô, kết quả và hiệu quả sản xuất, các yếu
tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
 Địa điểm nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các trang trại
trong phạm vi thị xã Bỉm Sơn.
 Thời gian nghiên cứu: Thu thập thông tin và số liệu về tình hình
phát triển kinh tế trang trại từ năm 2005 - 2007 và dự báo đến năm 2010.
4
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
2.1.1 Khái niệm trang trại, kinh tế trang trại
Đến nay, đã có nhiều nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm khác nhau
về trang trại và kinh tế trang trại. Tuy nhiên, đều có quan điểm chung, phát
triển kinh tế trang trại là sản xuất hàng hoá, khác với nền kinh tế tiểu nông tự
cấp, tự túc. Marx đã phân biệt chủ trang trại với người tiểu nông ở hai khía cạnh
đó là: người chủ trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra; còn người
tiểu nông dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt.
Theo những tư liệu nước ngoài có thể hiểu “kinh tế trang trại” hay
“trang trại” hoặc “kinh tế nông trại” hay “nông trại”, là một mô hình mà ở đó

sản xuất nông nghiệp được tiến hành có tổ chức dưới sự điều hành của một
người và ở đây phần đông là chủ hộ gia đình nông dân theo hướng sản xuất
hàng hoá gắn liền với thị trường.
Hai thuật ngữ “trang trại” hay “kinh tế trang trại”, trong nhiều trường
hợp được sử dụng như là những thuật ngữ đồng nghĩa. Về thực chất, trang trại
và kinh tế trang trại là những khái niệm không đồng nhất. Bởi vì, ”Kinh tế trang
trại là tổng thể các yếu tố vật chất của sản xuất và các quan hệ kinh tế nảy sinh
trong quá trình tồn tại và hoạt động của trang trại, còn trang trại là nơi kết hợp các
yếu tố vật chất của sản xuất và là chủ thể của các quan hệ kinh tế đó” [18].
Khi chúng ta nói về “trang trại” tức là nói đến những cơ sở SXKD nông
nghiệp của một loại hình tổ chức sản xuất nhất định theo nghĩa rộng bao gồm
cả hoạt động xã hội kinh doanh trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm
5
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) Bản thân cụm từ “trang trại” là đề cập
đến tổng thể những mối quan hệ KT- XH, môi trường nảy sinh trong quá trình
hoạt động SXKD của các trang trại, quan hệ giữa các trang trại với nhau, giữa
các trang trại với các tổ chức kinh tế khác, với Nhà nước, với thị trường, với
môi trường sinh thái tự nhiên [18].
Khi nói về ”kinh tế trang trại” tức là nói đến mặt ”kinh tế” của trang
trại. Ngoài mặt kinh tế còn có thể nhìn nhận trang trại từ phía xã hội và môi
trường. Tuy nhiên, trong nghiên cứu và quản lý người ta thường chú trọng
đến kinh tế của trang trại mà ít chú ý đến nội dung xã hội và môi trường của
trang trại. Cho nên, khi nói kinh tế trang trại người ta thường gọi tắt là trang
trại, vì mặt kinh tế là là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi. Do
vậy, trong văn phong khẩu ngữ tiếng Việt, ở một số trường hợp cụ thể, cụm từ
“trang trại” và “kinh tế trang trại” có thể được dùng thay thế cho nhau, mà ý nghĩa
của câu văn, câu nói không bị thay đổi và coi chúng như những cụm từ đồng
nghĩa [25].
Ở Việt Nam, trước năm 2000 do có nhiều cách tiếp cận, phân tích đánh
giá khác nhau nên có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm trang trại

và kinh tế trang trại.
Có quan điểm cho rằng, "trang trại là một tổ chức sản xuất cơ sở trong
nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) có mục đích là sản xuất hàng
hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người
chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản
xuất tập trung đủ lớn với phương thức tổ chức quản lý sản xuất tiến bộ và
trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường" [27].
PGS.TS. Hoàng Việt đã đưa ra khái niệm "Trang trại là một hình thức
tổ chức sản xuất sản phẩm hàng hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc
6
quyền sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui
mô diện tích ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn, với cách
thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn
gắn với thị trường" [32].
Khi nghiên cứu về trang trại, tác giả Trần Trác viết "Kinh tế trang trại
là hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản của
một hộ gia đình theo cơ chế thị trường" [21].
Theo GS.TS Nguyễn Đình Hương, "kinh tế trang trại là một hình thức
tổ chức cơ sở trong nông, lâm, ngư nghiệp, mục đích chủ yếu là sản xuất hàng
hoá, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một người
chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản
xuất được tập trung đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ và trình độ
kỹ thuật cao, hoạt động tự chủ và luôn gắn với thị trường” [18].
Đề tài nghiên cứu kinh tế trang trại ở Nam Bộ đã đưa ra khái niệm như
sau "Kinh tế trang trại là một loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh trong
nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ
và về cơ bản mang bản chất của kinh tế hộ. Quá trình hình thành và phát triển
kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản xuất dựa trên cơ sở tích tụ
tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác và nhờ đó tạo ra sản phẩm hàng hoá
với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao" [26].

Trong nghiên cứu kinh tế, chính sách và thị trường mới đây đã đưa ra
khái niệm "Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh
trong nông nghiệp, được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ gia
đình nông dân có mức độ tích tụ và tập trung cao hơn về đất đai, vốn, lao
động, kỹ thuật nhằm tạo ra khối lượng hàng hoá nông sản lớn hơn, với lợi
7
nhuận cao hơn theo yêu cầu của kinh tế thị trường, có sự điều tiết của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [31].
Nhìn chung, quan niệm và nhận thức về bản chất, đặc trưng của kinh tế
trang trại đã gần gũi, thống nhất về cơ bản. Tuy nhiên, về mặt nhận thức cũng
còn những ý kiến khác nhau về tích tụ vốn, qui mô hạn điền, các doanh
nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ, các loại hình công ty có phải là trang trại hay
không đang được các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu.
Từ những khái niệm trên chúng tôi thấy mỗi quan điểm đều có cách
nhìn nhận đánh giá khác nhau, nhưng chung qui “kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản
với qui mô về đất đai, vốn, lao động, đầu con gia súc, gia cầm, giá trị sản xuất
nông, lâm, thuỷ sản phải lớn, hiệu quả sản xuất cao và có thu nhập vượt trội
so với kinh tế hộ”.
Kinh tế trang trại là tổng hợp các yếu tố sản xuất kinh doanh và các mối
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động của trang trại. Còn trang
trại là nơi diễn ra các hoạt động và các mối quan hệ đó.
2.1.2 Vị trí, vai trò của kinh tế trang trại
Trong những năm gần đây, kinh tế trang trại phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về ngành sản xuất ở tất cả các vùng, địa phương trong cả
nước. Mặc dù mới được phát triển trong những năm gần đây nhưng kinh tế
trang trại đã thể hiện rõ vai trò quan trọng và tích cực không những về kinh tế
mà còn cả về xã hội và môi trường.
Về mặt kinh tế, KTTT là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong
nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô

và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng
thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, nông, lâm, thuỷ
8
sản. Các trang trại phát triển sẽ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát
triển các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, khắc phục dần tình
trạng sản xuất phân tán, manh mún tạo nên những vùng chuyên môn hóa, tập
trung hàng hóa và thâm canh cao [17, tr 18].
Về mặt xã hội, phát triển KTTT, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, tạo
việc làm tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo,
phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng lại nông thôn mới. Bên cạnh đó phát
triển kinh tế trang trại còn góp phần quan trọng trong việc làm tăng số hộ giàu
trong nông thôn; điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong giải quyết vấn đề
lao động và việc làm, một trong những vấn đề bức xúc trong nông nghiệp và
nông thôn ở nước ta hiện nay.
Về vấn đề môi trường, do sản xuất kinh doanh tự chủ và vì lợi ích thiết
thực, lâu dài của mình mà các chủ trang trại đã luôn có ý thức khai thác hợp
lý và quan tâm bảo vệ các yếu tố môi trường, trước hết là trong phạm vi
không gian sinh thái trang trại và sau nữa là trong phạm vi từng vùng. Đặc
biệt, các trang trại trung du miền núi đã góp phần tích cực vào việc phủ xanh
đất trống, đồi núi trọc bảo vệ môi trường sinh thái.
2.1.3 Đặc trưng của kinh tế trang trại
Thi hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 của Chính phủ
về kinh tế trang trại; Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT và Tổng cục Thống kê
đã có Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000 về
hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại; theo Thông tư này thì kinh
tế trang trại so với kinh tế hộ có những đặc trưng chủ yếu sau:
- Mục đích chủ yếu của KTTT là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá
với quy mô lớn.
9

- Mức độ tập trung và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao
hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như
đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá.
- Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản
xuất, biết áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công
nghệ mới vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài
sản xuất hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ [10].
2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại
 Các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào (nguồn lực sản
xuất) theo các cách thức nhất định để tạo ra các đầu ra theo nhu cầu xã hội.
- Đất đai là yếu tố sản xuất, không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với
nông nghiệp mà còn quan trọng đối với sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Đất
đai là yếu tố cố định, lại bị giới hạn bởi qui mô, nên người ta phải đầu tư thêm
vốn, lao động trên một đơn vị diện tích nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
đai [30]. Do vậy, để hình thành trang trại cần phải có quĩ đất cần thiết để phát triển
trang trại. Để làm được điều này, Nhà nước phải đưa ra được những chính sách về
đất đai phù hợp để chủ trang trại yên tâm sản xuất trên thửa đất được giao.
Theo Nghị quyết số 03/CP ngày 02/02/2000 thì hộ gia đình có nhu cầu
và khả năng sử dụng đất để phát triển trang trại được nhà nước giao đất hoặc
cho thuê đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (CNQSDĐ)
[10]. Thẩm quyền giao đất cho thuê, được áp dụng theo quy định tại Nghị
định số 85/NĐ-CP ngày 28/08/1999 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số
quy định về giao đất nông nghiệp cho một số hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài và Nghị định số 163/1999/ NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính
phủ về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp [9].
10
Mặt khác, theo điều 82 Luật Đất đai năm 2003, đất sử dụng cho kinh tế
trang trại còn được quy định "Nhà nước khuyến khích hình thức KTTT của hộ

gia đình, cá nhân nhằm khai thác có hiệu quả đất đai để phát triển sản xuất,
mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong sản xuất nông, lâm
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối gắn với dịch vụ chế biến và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp Nghiêm cấm việc lợi dụng hình thức KTTT để bao
chiếm, tích tụ đất đai không vì mục đích sản xuất" [20].
- Lực lượng lao động là yếu tố đặc biệt quan trọng của quá trình sản
xuất. Mọi hoạt động sản xuất đều do lao động của con người quyết định, nhất
là người lao động có kỹ thuật, kinh nghiệm và kỹ năng lao động. Do đó, chất
lượng lao động quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất [30]. Bởi vậy, để phát
triển trang trại, trước hết chủ trang trại phải là người có khát khao, ý chí làm
giàu, có kinh nghiệm từ sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và là người sử
dụng có hiệu quả từ nguồn lao động gia đình cũng như lao động thuê mướn
bên ngoài. Bên cạnh đó, Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ
để các chủ trang trại mở rộng quy mô SXKD, tạo được nhiều việc làm cho
người lao động trong nông thôn. Ưu tiên sử dụng lao động của hộ nông dân
không đất, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo thiếu việc làm. Chủ trang
trại được thuê lao động không hạn chế số lượng, trả công lao động trên cơ sở
thoả thuận với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
Để kinh tế trang trại phát triển một cách bền vững, ngoài việc giao đất
lâu năm cho các hộ yên tâm sản xuất thì Nhà nước cũng như các địa phương
cần phải mở các lớp đào tạo ngắn hạn hoặc trung hạn cho các chủ trang trại
nhằm nâng cao trình độ kiến thức.
- Vốn sản xuất là những tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị, phương
tiện vận tải, kho tàng, kết cấu hạ tầng và kỹ thuật Vốn là yếu tố vô cùng quan
trọng. Trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng tổng số vốn sẽ
11
dẫn đến tăng thêm giá trị sản lượng hàng hoá. Tất nhiên, trong thực tế sự tăng
thêm giá trị sản lượng hàng hoá còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa,
chẳng hạn chất lượng lao động, trình độ kỹ thuật [30]. Đặc biệt, đối với phát
triển trang trại, vốn là nhân tố có tính quyết định tới việc hình thành và phát

triển KTTT, bởi trang trại cần nhiều vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, mua con
giống
- Khoa học và công nghệ, là yếu tố sản xuất quan trọng, nó quyết định
sự thay đổi năng suất lao động và chất lượng sản phẩm; đây là một trong
những yếu tố có vai trò quan trọng và đối với một nền sản xuất hàng hoá với
quy mô lớn trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Bới vì, chỉ có ứng dụng
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào sản xuất mới giảm được giá thành
để cạnh tranh với hàng hoá của các nước trên thế giới.
- Ngoài bốn yếu tố cơ bản của sản xuất nêu trên, còn rất nhiều yếu tố
khác tác động tới phát triển kinh tế trang trại như qui mô sản xuất, các hình
thức tổ chức tổ chức tối ưu, mối quan hệ cân đối tác động qua lại lẫn nhau
giữa các ngành, các thành phần kinh tế, quan hệ cung cầu và thị trường tiêu
thụ sản phẩm Đối với phát triển trang trại, để sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ
được, ngoài việc phải nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã thì vấn đề cơ sở
hạ tầng giao thông nông thôn cũng phải được nâng lên, bên cạnh đó Nhà nước
cũng cần hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp mở rộng và xây dựng mới các cơ sở
công nghiệp chế biến ở các vùng tập trung, chuyên canh: hướng dẫn việc ký
kết hợp đồng cung ứng vật tư và tiêu thụ nông sản. Kinh tế trang trại phát
triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng lớn và gắn với thị trường. Tuy
nhiên, sản phẩm hàng hoá của các trang trại chủ yếu tiêu thụ ở dạng thô, giá
cả bấp bênh, không ổn định
 Các yếu tố phi kinh tế
12
Ngoài các yếu tố kể trên, để phát triển kinh tế trang trại thì yếu tố thể
chế chính trị, đường lối phát triển kinh tế; đặc điểm dân tộc, tôn giáo, văn hoá
ở mỗi vùng sẽ có tác động không nhỏ đến tập quán sản xuất hướng đến phát
triển sản xuất hàng hoá có sự khác nhau.
2.1.5 Phân loại trang trại
Hiện nay có nhiều cách phân loại khác nhau đối với trang trại, mỗi tác
giả dựa vào những tiêu chí khác nhau để phân loại và tùy vào đặc điểm, điều

kiện cụ thể từng địa phương mà trang trại chia thành các loại khác nhau. Nhìn
chung trang trại được chia thành các loại sau:
- Theo quy mô đất đai: bao gồm trang trại quy mô nhỏ (2 - 5 ha), trang
trại quy mô vừa (5 - 10 ha), trang trại có quy mô lớn (10 - 30 ha) và trang trại
có quy mô vượt hạn điền lớn hơn 30 ha.
- Theo cơ cấu sản xuất các loại trang trại: + Trang trại chuyên môn
hóa: là loại trang trại chỉ tạo ra một hoặc hai sản phẩm chính như: trang trại
chuyên trồng cây hàng năm như mía, sắn , trang trại chuyên trồng cây lâu
năm như cao su, quế, vải, nhãn, cam , trang trại chuyên chăn nuôi như lợn thịt,
lợn sinh sản, bò sinh sản, gà, vịt , trang trại chuyên trồng cây lâm nghiệp như
luồng, keo, bạch đàn , trang trại chuyên nuôi trồng thuỷ sản như tôm, cá
+ Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: là loại trang trại kết hợp
giữa một trong ba ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, với nhau hoặc
với tiểu thủ công nghiệp. Tuy nhiên, để thống nhất theo hướng dẫn của Tổng
Cục Thống kê và Bộ nông nghiệp & PTNT, trong nghiên cứu của đề tài trang
trại SXKD tổng hợp là loại hình chỉ kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi,
hoặc nuôi trồng thủy sản với ngành nghề khác khi mà nó không đạt một
trong các tiêu chí về trang trại chuyên môn hoá.
13
- Phân theo hình thức quản lý: + Trang trại gia đình: là trang trại độc lập sản
xuất kinh doanh do chủ hộ đứng ra quản lý, thường 1 trang trại là của 1 hộ gia đình.
+ Trang trại liên danh: do 2-3 trang trại gia đình kết hợp lại thành 1 trang
trại có quy mô và năng lực sản xuất lớn, đủ sức cạnh tranh với trang trại khác.
+ Trang trại hợp doanh: được tổ chức theo nguyên tắc như công ty cổ
phần hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản.
Loại này thường có quy mô lớn, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, sử
dụng lao động làm thuê là chủ yếu.
- Phân theo cơ cấu thu nhập: + Trang trại thuần nông, nguồn thu nhập
chủ yếu hoàn toàn hay phần lớn từ nông nghiệp. Số trang trại này đang có xu
hướng giảm đi ở các nước công nghiệp phát triển.

+ Trang trại có thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp, loại này tập trung
chủ yếu ở những nước có nền công nghiệp phát triển.
- Phân loại theo hình thức sở hữu tư liệu sản xuất
+ Chủ trang trại sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai, công cụ, máy
móc, chuồng trại, kho bãi.
+ Chủ trang trại chỉ sở hữu một phần tư liệu sản xuất, một phần phải đi
thuê bên ngoài (có đất đai nhưng phải thuê máy móc, công cụ, kho tàng )
+ Chủ trang trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất mà phải đi thuê
toàn bộ từ đất đai, máy móc, thiết bị, kho tàng…
- Phân loại theo phương thức điều hành sản xuất
+ Chủ trang trại sống cùng gia đình ở nông thôn, trực tiếp điều hành
sản xuất và trực tiếp lao động.
+ Trang trại uỷ thác: uỷ nhiệm cho anh em họ hàng, bạn bè thân thiết
còn ở tại quê để canh tác.
14
Chủ trang trại uỷ nhiệm cho người thân quen làm một hoặc nhiều công
việc như làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch trên một phần hoặc toàn bộ
ruộng đất của mình trong thời gian nhất định theo giá thoả thuận [16].
2.1.6 Tiêu chí nhận dạng trang trại
Thông tư số 74/2003/ TT- BNN ngày 04/7/2003 (Thông tư này sữa đổi,
bổ sung mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN - TCTK ngày
23/06/2000) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn còn giải thích rõ:
Đối tượng và ngành sản xuất được xem xét để xác định là KTTT đó là hộ
nông dân, hộ công nhân viên nhà nước và lực lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các
loại hộ thành thị và cá nhân chuyên sản xuất (bao gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản) hoặc sản xuất nông nghiệp là chính có kiêm
nhiệm các hoạt động dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn.
Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng
hoá với quy mô lớn.
Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản

xuất cao hơn hẳn (vượt trội) so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở qui mô sản
xuất như đất đai, đầu con gia súc, lao động, giá trị nông lâm thuỷ sản hàng hoá
Chủ trang trại có kiến thức và kinh nghiệm trực tiếp điều hành sản xuất,
biết áp dụng tiến bộ KHKT tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản
xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất hiệu quả
cao có thu nhập vượt trội so với kinh tế nông hộ.
 Tiêu chí định lượng của trang trại
Đối với hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác
định là trang trại phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và
dịch vụ bình quân một năm hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây:
15
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở
lên.
- Đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên từ 50 triệu đồng trở lên.
2. Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông
hộ tương ứng với từng ngành sản xuất và từng vùng kinh tế.
- Đối với trang trại trồng trọt:
+ Trang trại trồng cây hàng năm: Từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và
Duyên hải miền Trung; từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên.
+ Trang trại trồng cây lâu năm: Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và
Duyên hải miền Trung; từ 5 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây nguyên;
trang trại trồng hồ tiêu 0,5 ha trở lên.
+ Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
- Đối với trang trại chăn nuôi: + Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,
ngựa… Đối với chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở
lên; chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
+ Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, cừu… Đối với chăn nuôi sinh sản có
thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên; đối với dê, cừu từ 100 con trở lên.
Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa); dê

thịt từ 200 con trở lên.
+ Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng… có thường xuyên từ 2000
con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
- Trang trại nuôi trồng thuỷ sản: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2
ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
- Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: Là những trang trại có từ
hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở
lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ
16
như qui định cho trang trại. Ví dụ: Trang trại nhà ông A có 3 ha chuyên trồng
lúa và có nuôi cá đạt mức bình quân 50 triệu sản phẩm hàng hoá một năm;
trường hợp này ghi trang trại nhà ông A là trang trại tổng hợp [8], [19].
2.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN VÀ PHÁT TRIỂN TRANG TRẠI
2.2.1 Quan điểm về tăng trưởng và phát triển
Tăng trưởng và phát triển là những vấn đề quan tâm hàng đầu đối với
xã hội loài người trên thế giới và trong từng quốc gia. Mục đích cuối cùng cần
đạt được của mọi hoạt động của con người là nhằm có được cuộc sống ấm no,
tự do và hạnh phúc.
Tăng trưởng và phát triển đôi khi được coi là đồng nghĩa, nhưng thực ra
chúng có liên quan với nhau và có những nội dung khác nhau. Theo nghĩa
chung nhất, tăng trưởng là nhiều sản phẩm hơn, còn phát triển không những
nhiều sản phẩm hơn mà còn phong phú hơn về chủng loại và chất lượng, phù
hợp hơn về cơ cấu và phân bố của cải [15].
Tăng trưởng được hiểu là sự gia tăng về mặt số lượng của một sự vật
nhất định. Trong kinh tế, tăng trưởng thể hiện sự gia tăng hơn trước về sản
phẩm hay lượng đầu ra của một quá trình sản xuất hay hoạt động [12].
Phát triển bao hàm ý nghĩa rộng hơn, được coi như tiến trình biến
chuyển của xã hội, là chuỗi những biến chuyển có mối quan hệ qua lại với
nhau. Phát triển theo khái niệm chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của
người dân, bao hàm nâng cao các chuẩn mực sống, cải thiện các điều kiện giáo

dục, sức khõe, sự bình đẳng về các cơ hội Trong kinh tế, phát triển là quá
trình chuyển biến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định,
trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về qui mô sản lượng sản phẩm, sự hoàn
thiện về cơ cấu nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng mọi mặt của cuộc sống
[12].
17
Qua đây chúng ta thấy, tăng trưởng là điều kiện, tiền đề cho phát triển.
Bởi vì, nền kinh tế có tăng trưởng thì mới có khả năng tăng ngân sách Nhà nước,
tăng thu nhập của dân cư. Tuy nhiên, tăng trưởng chỉ là điều kiện cần, nhưng nó
chưa phải là điều kiện đủ để phát triển. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn
đến mất cân đối trong nền kinh tế và phân hoá xã hội, ngày càng tăng lên. Ngược
lại, phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực tế [30].
2.2.2 Quan điểm về phát triển bền vững
Trong những năm gần đây, do dân số gia tăng mạnh mẽ, do nhu cầu nâng
cao mức sống, hoạt động của con người nhằm khai thác các nguồn lực, tài
nguyên thiên nhiên đã làm cho môi trường bị cạn kiệt. Loài người đã phải đương
đầu với những thách thức lớn do suy thoái về nguồn lực và giảm cấp môi trường.
Trước những vấn đề của phát triển, vào nửa cuối của thế kỷ 20, Liên Hợp Quốc
đã đưa ra ý tưởng về phát triển bền vững. Theo quan điểm của Liên Hiệp Quốc
thì một thế giới phát triển bền vững là thế giới không sử dụng các nguồn tài
nguyên có thể tái tạo (nước, đất đai, sinh vật) nhanh hơn khả năng tái tạo của
chúng. Phát triển ý tưởng của Liên Hiệp Quốc, ủy ban quốc tế về phát triển và
môi trường (1987) đã định nghĩa: Phát triển bền vững là một quá trình của sự
thay đổi, trong đó, việc khai thác và sử dụng tài nguyên, hướng đầu tư, hướng
phát triển của công nghệ và kỹ thuật, và sự thay đổi về tổ chức là thống nhất,
làm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của con người [12],
[30].
Hội nghị thượng đỉnh về trái đất năm 1992 tổ chức tại Riode Janeiro
năm 1992 đưa ra định nghĩa vắn tắt về phát triển bền vũng là: Phát triển
nhằm thoả mãn nhu cầu của thế hệ ngày nay mà không làm tổn hại đến khả

năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai [12], [30].
Ở Việt Nam, quan điểm về phát triển bền vững đã được khẳng định
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: ”Phát triển nhanh, hiệu
18
quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội và bảo vệ môi trường”. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Quyết định số
153/2004/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 về định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam” (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) nêu lên những
thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính
sách, công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên cần thực hiện để
phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Định hướng này bao gồm 5 nội dung:
Một là, phát triển bền vững – con đường tất yếu của Việt Nam.
Hai là, những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Ba là, những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Bốn là, những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường và kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Năm là, tổ chức thực hiện phát triển bền vững [30].
2.2.3 Quan điểm về phát triển trang trại
Chúng ta biết, phát triển kinh tế trang trại tức là phát triển sản xuất của
các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Đây là ngành kinh
tế đặc biệt, khác với công nghiệp và các ngành khác là vì, đối tượng sản xuất
là các sinh vật, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay
thế; được phân bố trên một không gian rộng lớn; sản phẩm làm ra vừa được
tiêu dùng tại chỗ lại vừa trao đổi trên thị trường; cung về nông sản hàng hoá
và cầu các yếu tố đầu vào mang tính thời vụ và nó có liên quan chặt chẽ đến
các ngành công nghiệp. Do vậy, để phát triển kinh tế trang trại cần phải
nghiên cứu các đặc tính trên từ đó để có hướng đầu tư sản xuất.
Phát triển trang trại thể hiện ở sự gia tăng về qui mô trang trại cả về bề
rộng và bề sâu.
19

Phát triển bề rộng, đó là sự gia tăng về số lượng trang trại ở một vùng,
một quốc gia hay một địa phương nào đó. Hiện nay, Bỉm Sơn còn khoảng
1.176 ha đất bằng, mặt nước có khả năng đưa vào sử dụng, dân số gần 6 vạn
người và nguồn lao động ở một số huyện lân cận đây là một trong những
thuận lợi cho phép phát triển trang trại theo bề rộng.
Phát triển bề sâu, cùng với phát triển bề rộng thì chúng ta phát triển
theo chiều sâu thể hiện thông qua về qui mô vốn đầu tư vốn, đào tạo lao đông,
ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất phát triển trang trại phải
gắn công nghiệp chế biến, cần có sự liên kết, hợp tác giữa các cấp các, ngành,
các doanh nghiệp với chủ trang trại nhằm đạt hiệu quả sản xuất cao nhất, đem
lại thu nhập ngày một tăng cho người lao động. Phát triển nhưng không làm
phá vỡ môi trường sinh thái
Quan điểm phát triển trang trại ở thị xã Bỉm Sơn cũng như của tỉnh là, phát
triển nhằm khai thác thế mạnh về điều kiện tự nhiên, lao động để chuyển từ nền sản
xuất truyền thống sang sản xuất hàng hoá và hướng đến một nền sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản công nghệ cao, sản phẩm sạch, an toàn và hướng đến xuất khẩu.
Phát triển trang trại hướng đến nhu cầu thị trường, phát huy lợi thế cây, con của
từng vùng để ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm đạt năng suất
cao, chất lượng tốt, sản phẩm có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Phát triển
trang trại phải gắn kết chặt chẽ với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, hình
thành các vùng nguyên liệu sản xuất hàng hoá tập trung. Phát triển trang trại nhằm
nâng cao giá trị trên một ha đất canh tác, tạo việc làm và tăng thu nhập cho một
phần không nhỏ lao động trang trại ở khu vực nông thôn góp phần tích cực
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
2.3 CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
20
2.3.1 Quá trình phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Trên thế giới, kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển hàng trăm
năm nay và đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp, trong ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và thúc đẩy nhanh quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá trong nền nông nghiệp hàng hoá. Sở dĩ như vậy bởi vì,
nó là đơn vị kinh tế phù hợp với nông nghiệp, nông thôn, rất cơ động và linh
hoạt, dễ dàng vượt qua những khó khăn khi giá cả thị trường không ổn định.
Ở Châu Âu, thế kỷ thứ XVIII, chủ nghĩa tư bản đã phát triển và xuất
hiện tình trạng dân số bắt đầu tăng nhanh hơn, đồng thời nhu cầu nông sản
cũng tăng, nhưng kỹ thuật nông nghiệp không cho phép tăng sản lượng nông
nghiệp, làm cho giá nông sản tăng. Dân số tăng cộng với tư hữu ruộng đất đã
dẫn đến người nghèo ở nông thôn tăng, giá thuê nhân công ở nông thôn giảm
xuống. Trong điều kiện nông nghiệp là ngành sản xuất có lãi, các trang trại lớn
tư bản chủ nghĩa có nhiều lao động làm thuê ưu thế hơn trang trại gia đình. Vì
thế, từ cuối thế kỷ XVIII đến khoảng những năm 1870, quy mô các trang trại
lớn lên.
Đến cuối thế kỷ XIX, do ngành đường sắt và tàu thuỷ chạy hơi nước
phát triển, làm cho giá vận tải hàng hoá giảm, xuất hiện luồng di dân từ Châu
Âu sang Châu Mỹ và Úc để mở rộng diện tích đất nông nghiệp, thời kỳ này
máy nông nghiệp và phân hoá học phát triển đã thúc đẩy sản lượng nông
nghiệp tăng nhanh. Từ đó làm giá nông sản giảm mạnh, các trang trại lớn mất
ưu thế và thúc đẩy trang trại gia đình phát triển.
Hiện nay, nhiều chủ trang trại không sống tại trang trại mà họ thuê
người quản lý và làm việc. Như ở Mỹ, trong số 1.946 nghìn trang trại gia đình
có đến 908 nghìn trang trại (47%) mà chủ trang trại hoạt động chủ yếu ngoài
nông nghiệp [16].
21
2.3.2 Kinh tế trang trại ở một số nước trên thế giới
* Trang trại ở Anh: vào cuối thể kỷ XVII, cuộc cách mạng tư sản đã
phá bỏ triệt để các bãi chăn thả gia súc công và các cơ chế có lợi cho nông
dân nghèo nên thúc đẩy quá trình tập trung ruộng đất và làm phá sản các nông
trại nhỏ. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, khi diện tích bình quân một nông trại
tăng lên 36 ha nhưng các nông trại nhỏ có diện tích dưới 5 ha vẫn chiếm đa
số.

* Trang trại ở Pháp: sau cách mạng 1789, ruộng đất của địa chủ phong
kiến được chuyển cho nông dân. Năm 1990, đã có tới 70% trang trại có ruộng
đất riêng, 30% trang trại phải lĩnh canh một phần hay toàn bộ. Số trang trại
thuần nông chiếm khoảng 30 ha, mỗi gia đình gồm 2 vợ chồng và 1-2 con, tự
canh tác bằng máy móc riêng. Số lượng trang trại có xu hướng giảm dần
nhưng quy mô trang trại có xu hướng tăng lên. Cụ thể năm 1082 có số lượng
gần 5,7 triệu trang trại, qui mô bình 5,9 ha/trang trại thì đến năm 1978 chỉ có
982 nghìn trang trại, qui mô bình quân tăng lên 24 ha/trang trại. Chứng tỏ
hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại ngày càng phát triển về qui mô
và có xu hướng hợp tác sảng xuất hàng hoá với qui mô lớn ngày càng gia
tăng.
* Trang trại ở Mỹ: ở Mỹ, trang trại phát triển chậm hơn các nước Châu
Âu từ 30- 40 năm, đến nay quy mô đất canh tác bình quân một trang trại là
180 ha. Ở đây, có 85% chủ trang trại canh tác trên đất của mình, chỉ có 15%
số trang trại thuộc các tập đoàn nông công nghiệp, các trang trại gia đình
chiếm đa số gồm 2 vợ chồng và 1-2 con. Thời gian gần đây, xuất hiện hình
thức trang trại hợp tác xã, loại này chiếm 10-12% đất canh tác.
Từ những năm 1900 đến năm 1935, số lượng trang trại không ngừng
tăng lên, nhưng từ năm 1940 trở đi, số lượng trang trại có xu hướng giảm dần,
22
trong đó từ năm 1940 đến năm 1960 giảm tới 3701 nghìn trang trại, nhưng xu
hướng tăng về quy mô trang trại ở Mỹ phát triển khá nhanh.
* Trang trại ở Thái Lan: trang trại đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo
ra nông sản phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Số lượng trang trại
gia đình có 4,5 triệu trang trại, quy mô đất canh tác bình quân một trang trại là
5,6 ha, trong đó: trang trại có diện tích từ 5 - 10 ha chiếm 28%; trang trại có
diện tích lớn hơn 10 ha chiếm 14%. Năm 1980, tổng số máy kéo của trang trại
có khoảng 460 nghìn chiếc, bảo đảm cơ giới khâu làm đất 60%, cơ giới hoá
trong khâu chế biến cũng được phát triển mạnh, 84% làng xã có điện phục vụ
sản xuất và sinh hoạt.

* Trang trại ở Hàn Quốc: là nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, năm
1954 thực hiện cải cách ruộng đất, Nhà nước mua lại đất của chủ hộ có trên 3
ha để bán lại cho nông hộ thiếu đất với phương thức trả dần để tạo điều kiện
cho kinh tế hộ phát triển. Từ năm 1965 - 1971, tốc độ nông nghiệp tăng 2,5%;
từ năm 1971 - 1978, tốc độ nông nghiệp tăng 6,9%; có đến 60% diện tích đất
hoang được nông hộ khai thác sử dụng có hiệu quả kinh tế cao. Đến năm
1975 đã tự túc được nhiều lương thực và nông sản khác, chăn nuôi tăng 8-
10%. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá với hệ thống
cây con, ngành nghề có giá trị kinh tế cao.
 Kết luận
Từ nghiên cứu kinh tế trang trại gia đình ở các nước có điều kiện địa lý,
chế độ xã hội, tình hình chính trị và điều kiện kinh tế khác nhau cho thấy:
- Đa số các nước có quy mô nông trại gia đình không lớn nhưng đã tạo
ra số lượng nông sản lớn và có tỷ suất hàng hoá cao.
23
- Ở các nước đang phát triển, kinh tế tự cấp, tự túc còn chiếm tỷ lệ đáng
kể đồng thời có một bộ phận trong kinh tế nông hộ đã và đang chuyển sang
kinh tế trang trại sản xuất hàng hoá ngày một tăng lên.
- Ở các nước phát triển, thường ở giai đoạn đầu có số trang trại nhiều
và quy mô trang trại nhỏ. Nhưng cùng với sự phát triển của công nghiệp, số
lượng trang trại giảm dần và quy mô của trang trại tăng lên, khối lượng nông
sản tăng nhanh.
- Cơ cấu sản xuất kinh doanh trong các hộ rất phong phú và đa dạng ,
gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp, chế biến, phi nông nghiệp.
- Phần lớn các trang trại đều sử dụng lao động gia đình là chính, số lao
động thuê không nhiều mà chỉ thuê mang tính thời vụ. Đất canh tác của các
nông trại đa số thuộc sở hữu riêng, đất đi thuê rất ít. Máy móc, nông cụ cũng
chủ yếu do trang trại bỏ vốn ra hoặc chung nhau mua.
- Chủ trang trại là người quản lý, người trực tiếp lao động và là người
kinh doanh nên có nhiều ưu thế trong sản xuất của trang trại.

Trong quá trình phát triển trang trại phải tự hợp tác với nhau để giải quyết
dịch vụ đầu vào, đầu ra cho trang trại nếu không muốn để tư bản bóc lột. Đồng
thời, Nhà nước phải hỗ trợ nông dân bằng các chính sách ruộng đất, lao động,
đầu tư tín dụng, bảo hộ đầu vào và đầu ra cho sản xuất và trợ cấp ngày càng cao
để nông dân có điều kiện và yên tâm phát triển sản xuất nông nghiệp [16].
2.3.3 Kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại trên thế giới và khả năng
ứng dụng ở Việt Nam
Từ thực tiễn phát triển kinh tế trang trại trên thế giới chúng ta có thể
đưa ra một số nhận xét sau:
Kinh tế trang trại phát triển là tất yếu của nền nông nghiệp trong quá
trình công nghiệp hoá; quá trình này đã tác động mạnh mẽ vào nông nghiệp,
24
phá vỡ từng mảng kết cấu nông nghiệp truyền thống, bắt nông nghiệp phải
từng bước chuyển dần sang SXKD hàng hoá phù hợp với nhịp độ phát triển
của công nghiệp.
KTTT là một trong những hình thức tổ chức sản xuất trong nông
nghiệp tỏ ra phù hợp với điều kiện và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, đáp
ứng được yêu cầu của công nghiệp hoá, có nhiều lợi thế trong tổ chức sản
xuất và kinh doanh trên thương trường đã nhanh chóng phát triển trên khắp
các lục địa ở các nước công nghiệp phát triển, KTTT đã trở thành lực lượng
chủ đạo trong sản xuất nông nghiệp.
KTTT ở các nước trên thế giới phát triển rất đa dạng, có nhiều hình
thức khác nhau, nhưng loại hình trang trại gia đình là hình thức phổ biến nhất
và đem lại hiệu quả cao nhất. Hiệu quả SXKD không hoàn toàn phụ thuộc
vào qui mô đất đai, lao động. Bên cạnh đó phải gắn trang trại với công nghiệp
chế biến và dịch vụ ngay tại nông thôn; bồi dưỡng, đào tạo chủ trang trại là
một trong những nhân tố quan trọng nhất đối với sự thành công của trang trại.
Thực hiện đường lối đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nhà
nước đã có những chính sách cải cách làm thay đổi tận gốc rễ cơ chế quản lý
cũ, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển

như khuyến khích kinh tế hộ phát triển, làm giàu từ SXKD. Một loạt chính
sách giao quyền tự chủ cho kinh tế hộ tất yếu sẽ kích thích hướng dẫn kinh tế
hộ chuyển từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá. KTTT được hình thành và
từng bước phát triển trước hết ở những hộ sản xuất, quản lý, kinh doanh giỏi.
Để thực hiện CNH - HĐH trong nông nghiệp và nông thôn, không thể
thiếu được sự hiện diện của các loại hình công ty, xí nghiệp, các doanh nghiệp
có thể có quy mô vừa, lớn hoặc nhỏ nhưng đều có những thế mạnh của mình
về nhiều mặt như khoa học kỹ thuật & công nghệ, bộ máy tổ chức quản lý…
25

×