Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

NHỮNG THÀNH TỰU NỖI BẬT CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986-2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.13 KB, 32 trang )

Tiểu luận
NHỮNG THÀNH TỰU NỖI BẬT
CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986-2012
1
DANH SÁCH NHÓM 3
1. Võ Quỳnh Nguyệt ( tìm tài liệu, lập dàn ý, đọc và chình sửa bài)
2. Cáp Thị Kiều Oanh (tìm tài liệu)
3. Trần Nam ( tìm tài liệu)
4. Trần Thị Tuyền( tìm tài liệu)
5. Phạm Văn Phong ( tìm tài liệu)
6. Nguyễn Thị Hà Xuyên ( tìm tài liệu)
7. Huỳnh Thị Kim Ngọc ( tìm tài liệu)
8. Đinh Thị Trang ( tìm tài liệu)
9. Chung Nguyễn Quỳnh Nhi ( tìm tài liệu)
2
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước đang phát triển với dân số đông, trong hơn 30 năm qua đang
phải phục hồi khỏi sự tàn phá của chiến tranh, sự mất mát chỗ dựa về tài chính sau khi
Liên bang Xô viết tan rã và sự cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Sau
nhiều năm với các cuộc chiến tranh kéo dài, trong hoàn cảnh bị cô lập về chính trị và
trì trệ về kinh tế, Việt Nam đang nhanh chóng hòa mình vào dòng chảy chung của
kinh tế và chính trị thế giới. Từ năm 1986, nước ta bắt đầu thực hiện chính sách Đổi
Mới (cải cách kinh tế), hướng tới một nền kinh tế thị trường. Trong môi trường tự do
đầu tư, những nhà đầu tư từ khắp nơi trên thế giới đang thể hiện rõ sự quan tâm chưa
từng có đối với Việt Nam. Quan hệ kinh tế của Việt Nam đã được đa dạng hóa một
cách rõ rệt và trao đổi kinh tế của Việt Nam với các nước láng giềng trong ASEAN,
với Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Hàn Quốc, Australia và Singapore đã được mở rộng
và tăng trưởng nhanh chóng. Một số ngân hàng nước ngoài đã được cấp giấy phép mở
chi nhánh tại Việt Nam và rất nhiều trong số đó đã bắt đầu hoạt động ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Singapore, Đài Loan, Nhật Bản và Hàn Quốc chính là những


nhà đầu tư lớn nhất vào nước ta
Từ sau công cuộc đổi mới tháng 12 năm 1986 cho đến nay nước ta đã đạt được những
thành tựu nhất định.Trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã tổng kết, đánh giá và đè ra
những mục tiêu chiến lược cho từng thời kỳ,từng giai đoạn. Nó vừa phản ánh thực
trạng của nền kinh tế trong nước đồng thời phù hợp với xu hướng chung của nền kinh
tế thế giới thông qua việc nắm bắt kịp thời những thành tựu mới nhất.Với đường lối
chiến lược đó,trong thời gia qua nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến với
những mức son chói lọi.Trong giới hạn đề tài,chúng em xin giới thiệu khái quát
“ NHỮNG THÀNH TỰU NỖI BẬT CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1986-2012”
Vì trình độ và thời gian có hạn nên bài tiểu luận của nhóm chúng em còn nhiều
sai sót, nhóm chúng em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy( cô) và các
bạn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
3
I/ TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Sau ngày giải phóng đất nước, nhân dân Việt Nam đứng trước một cơ hội để phát
triển kinh tế vì có thuận lợi cơ bản là tièm năng kinh tế của hai miền có thể bổ xung
cho nhau và quý báu hơn là có hòa bình.Tuy nhiên,do xuất phát điểm của nền kinh tế
thấp kém lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cùng với những vấp váp, sai làm trong
các chính sách kinh tế nên năm 1895, kinh tế Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào khủng
hoảng và vòng xoáy của lạm phát,biểu hiện:
1. Kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển.
Nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985 tổng sản phẩm XH tăng 50%,tức là bình
quân mỗi năm trong giai đoạn 1976 – 1985 chỉ tăng 4,6%.Sản xuất kinh doanh kém
hiệu quả nên chi phí vật chất cao và không ngừng tăng lên.Năm 1980 chi phí vật chất
chiếm 44,1%,do vậy thu hập quốc dân hai kế hoạch 5 năm tăng 38.8%
2. Làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng lớn.
Năm 1985, dân số cả nước gần 59,9 triệu người ,tăng 25,7% so với năm 1975,trung
bình mỗi năm tăng 2,3%.Để đảm bảo đầy đủ việc làm và thu nhâp của dân cư thì ít
nhất nền kih tế phải tăng 7% mỗ năm

Thu nhập quốc dân sẩn xuất trong nước chỉ bằng 80 -90% thu nhập quốc dân sử
dụng.Tích lũy tuy nhỏ bé, nhưng toàn bộ tích lũy và một phần quỹ tiêu dùng phải
dựa vào nguồn nước ngoài.Trong những năm 1976 -1986, thu vay nợ và viện trợ nước
ngoài bằng 38,2% tổng ngân sách và bằng 62,9% tổng số thu trong nước.
Nếu so với tổng số chi ngân sách thì bằng 37.3%.3 chỉ tiêu tương ứng của thời kỳ
1981 – 1985 lần lược là 22,4%;28,9%;18,6%.tính đến năm 1985 nợ nước ngoài đã lên
tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Tuy nguồn từ nước ngoài là lớn như vậy nhưng ngân
sách vẫn trong tình trạng thâm hụt và phải bù đắp.
Trị giá xuất khẩu hàng năm có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với giá trị xuất khẩu.
Tỷ lệ xuất khẩu thường bằng 20 -40% nhập khẩu.Hầu hết các loại hang hóa thiết yếu
phục vụ cho sản xuất và đời sống đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản
xuất trong nước không đảm bảo được tiêu dung.trong những năm 1976 -1980 phải
nhập 60 triệu mát vải các loại và 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo. Sau 10 năm thống
4
nhất,việc xây dựng và phát triển kinh tế cơ bản trong bối cảnh hòa bình mà cái gì cũng
thiếu nên cái gì cũng quý.
Siêu lạm phát hoành hành và giá cả đuổi bắt cấp số nhân.
Năm 1985, cuộc cải cách giá – lương – tiền theo giải pháp sốc đã thất bại làm cho cơn
sốt lạm phát vụt lớn nhanh,hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống KT –XH.Giá cả
leo thang từng ngày đã vô hiệu hóa tác dụng đổi tiền chỉ mới tiến hành vài tháng trước
đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô.Giá cả không chỉ tăng ở kinh tế thị trường mà
còn tăng rất nhanh trong thị trường tổ chức.Siêu lạm phát đạt đỉnh cao vào năm 1986
với mức 774,4%.
II/ THÀNH TỰU NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 1986-2012
1.Các giai đoạn của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế
1.1 Giai đoạn 1986-1990 thời kỳ bắt đầu công cuộc đổi mới
1.1.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm (1986-1990) của CP
Tháng 12 năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã họp và thông qua chương trình
đổi mới kinh tế toàn diện theo ba hướng chính: Một là, chuyển đổi từ chính sách đơn thành
phần sở hữu sang nền kinh tế nhiều thành phần với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu

nhằm phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế; Hai là, chuyển từ cơ chế
Nhà nước trực tiếp điều khiển các hoạt động của nền kinh tế bằng kế hoạch pháp lệnh, gắn
với cơ chế bao cấp, sang cơ chế kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước ở tầm vĩ
mô, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của từng doanh nghiệp; Ba là, chuyển từ kinh tế
mang nặng tính tự cung, tự cấp sang kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài. Nhà nước đã
triển khai cụ thể hóa thành các kế hoạch và chương trình hành động, trong đó nổi bật là ba
chương trình kinh tế lớn: chương trình lương thực, chương trình hàng tiêu dùng và chương
trình xuất khẩu. Nền kinh tế đã thu được một số thành tựu đáng khích lệ, các mặt xã hội và
đời sống dân cư có nhiều tiến bộ. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước đã thực hiện tốt chức năng
tham mưu cho Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới tư duy kinh tế, góp phần thực
hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 1986-1990,
1.1.2Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1986-1990
1.1.2.1Chương trình lương thực thực phẩm
5
Sản xuất lương thực đã có bước phát triển đáng kể, từ mức trên dưới 18 triệu tấn quy thóc
mỗi năm trong những năm 1984-1987 đã tăng lên đạt 21,5 triệu tấn trong năm 1989 va
1990. Từ chỗ lương thực sản xuất không đủ tiêu dùng, nước ta đã trở thành quốc gia xuất
khẩu lương thực với mức tương đối khá (năm 1989 xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, trị giá 290
triệu USD; năm 1990 xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo, trị giá 304,6 triệu USD).
Chăn nuôi gia súc, gia cầm và nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản được phát triển
khá; mô hình VAC (vườn –ao-chuồng) lần đầu được nhắc đến với ý nghĩa khuyến
khích kinh tế gia đình trong các hộ nông dân và các nơi có điều kiện trồng trọt, chăn
nuôi…Sản lượng thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn, trong đó thịt lợn hơi là 73 vạn tấn
vào năm 1990.Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 3,8-4%/năm.
1.1.2.2 Chương trình sản xuất hàng tiêu dùng
Đã được tổ chức triển khai thực hiện trên diện rộng; được sự chỉ đạo sát sao của các
ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương. Các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu phát
triển tương đối khá. Năm 1990, sản lượng vải đạt 380 triệu mét so với mục tiêu là
430-450 triệu mét; giấy các loại đạt 78.000 tấn so với mục tiêu là 12.000 tấn; các mặt
hàng tiêu dùng thông thường như xà phòng, thuốc chữa bệnh, đồ dùng sành sứ, thủy

tinh, xe đạp, quạt điện, máy thu thanh, thu hình …đều vượt kế hoạch. Tổng giá trị sản
xuất công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu dùng tăng 13-
14%/năm.
1.1.2.3 Chương trình sản xuất hàng háo xuất khẩu
Đã được triển khai thực hiện với những đổi mới cơ bản về cơ chế, chính sách khuyến
khích xuất khẩu, khai thác nguồn hàng, mở rộng, tìm kiếm thị trường…nhờ vậy đã
khơi dậy khả năng xuất khẩu của đất nước; giải quyết được phần nào khó khăn về
ngoại tệ cho nền kinh tế do bị Mỹ bao vây, cấm vận. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
trong năm năm (1986-1990) tăng 28%/năm. Thị trường dần dần được mở rộng.Kế
hoạch năm năm 1986-1990 phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát…mà quan trọng là đã chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lí cũ sang cơ chế quản lí
mới, thực hiện đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức lao động.
6
Tuy một số chỉ tiêu định lượng đạt thấp so với mục tiêu đề ra, nhung nền kinh tế đã
bắt đầu có những chuyển biến tích cực; đã tạo ra một số nhân tố mới thúc đẩy sự
chuyển biến bước đầu rất có ý nghĩa trong những năm 1989-1990; mở đầu một thời kỳ
phát triển mới trong những kế hoạch năm năm sau.
1.1.3 Hạn chế và yếu kém:
Bên cạnh những thành tích đạt được trong quá trình đổi mới còn bộc lộ những hạn chế
yếu kém và đứng trước những khó khăn thử thách cần được khắc phục:
- Nước ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế XH nhiều vấn đề kinh tế XH nóng
bỏng vẫn chưa đưọc giải quyết
- Nền kinh tế vẫn còn mất cân đối giữa cung và cầu giưuã tích luỹ và tiêu dùng, giữa
công nghiệp và nông nghiệp, dao động thiếu việc làm, năng xuất lao động và hiệu quả
SX kinh doanh còn thấp , chưa tạo được tích luỹ từ nội bộ kinh tế
- Đời sống của người ăn lương lực lượng vũ trang và1 bộ phận nông dân bị giảm sút
- Trên lĩnh vực văn hoá chính trị tư tưởng còn nhiều thiếu sót bất lợi lớn quyền làm
chủ của nhân dân lao động chưa được phát huy đầy đủ : Mất dân chủ, luật pháp bị vi
phạm kỷ cương kỷ luật còn buông lỏng
- Những khó khăn do thiên tai đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng đối với đời sống

kinh tế của nhân dân . Sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch đối với VN
trên tất cả các lĩnh vực , ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng XHCN như : Liên
xô, Đông âu và hệ thống XHCN giảm sút đã tác động tiêu cực đến tâm lý và tình cảm
của nhân dân ta
- Những sai lầm thiếu sót này cần được khắc phục kịp thời và triệt để nếu không sẽ
dẫn đến việc làm tăng thêm
1.2 Giai đoạn 1991-1995
1.2.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm(1991-1995) của Chính Phủ
Đại hội VII (1987-1992) đã đề ra mục tiêu tổng quát cho 5 năm 1991-1995 là: vượt
qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường ổn định chính
trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa Việt Nam cơ bản ra khỏi tình trạng khủng
hoảng.
7
Trên cơ sở phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu tổng quát đó, kế hoạch 5 năm 1991-
1995 được xây dựng với các chỉ tiêu chủ yếu sau:
1- Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân mỗi năm 5,5-6,5%.
2- Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng bình quân mỗi năm 7,5-8,5%.
3- Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng bình quân mỗi năm 3,7-4,5%.
4- Kim ngạch xuất khẩu 5 năm (1991-1995): 12-15 tỉ USD.
5- Kim ngạch nhập khẩu 5 năm (1991-1995): 16 tỉ USD.
6- Đến năm 1995:- Tỷ lệ tăng dân số chỉ còn ở mức 1,87%.Sản lượng lương
thực quy thóc 24-25 triệu tấn, sản lượng điện 15-16 tỷ kWh, sản lượng dầu thô 7-8
triệu tấn, sản lượng thép 270-300 nghìn tấn, sản lượng xi măng 4,0-4,5 triệu tấn.
1.2.2 Những thành tựu đạt được trong giai đoạn (1991-1995)
1.2.2.1 Nền kinh tế đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái
Kinh tế đạt mức tăng trưởng khá cao, liên tục và tương đối toàn diện; thực hiện vượt
mức hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995.Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) tăng bình quân hằng năm 8,2% (kế hoạch là 5,5 - 6,5%)
Nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,5% (mức đề ra 3,7 - 4,5%). Sản lượng lương
thực 5 năm qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời

sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản tăng khá nhanh; kim ngạch xuất khẩu
thuỷ, hải sản năm 1995 gấp 3 lần năm 1990. Tỉ lệ đất có rừng che phủ bắt đầu tăng
nhờ đẩy mạnh trồng, khoanh nuôi và bảo vệ rừng, hạn chế khai thác gỗ.Các ngành
dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990 (bình quân hàng năm tăng 12%). Giao
thông vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa tăng 62%; viễn thông phát triển
nhanh, doanh thu bưu điện và doanh thu du lịch đều gấp 10 lần; thị trường hàng hoá
trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội .
Lĩnh vực tài chính, tiền tệ đạt tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã chặn được nạn lạm
phát cao, từng bước đẩy lùi lạm phát. Chỉ số giá hàng tiêu dùng và dịch vụ giảm từ
8
67,4% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992; 5,2% năm 1993; 14,4% năm 1994 và
12,7% năm 1995.
Trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, đã phân định những chức năng quản lý Nhà nước của
ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh của ngân hàng thương mại. Việc điều
hoà lưu thông tiền tệ, ổn đinh giá trị đồng tiền Việt Nam, quản lý ngoại hối, xây dựng
thị trường hối đoái hợp pháp và các hoạt động tín dụng, thanh toán .
Quy mô đầu tư phát triển toàn xã hội tăng khá. Trong 5 năm, ước tính vốn đầu tư toàn
xã hội khoảng 18 tỉ USD (theo mặt bằng giá 1995), trong đó phần của Nhà nước
chiếm 43% (bao gồm cả đầu tư qua ngân sách, tín dụng Nhà nước và doanh nghiệp
Nhà nước tự đầu tư), đầu tư của nhân dân chiếm trên 30%, đầu tư trực tiếp của nước
ngoài chiếm 27%. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, đã chuyển mạnh từ hình thức
ngân sách cấp phát có tính chất bao cấp sang hình thức tín dụng đầu tư, mở rộng liên
doanh liên kết, vay vốn trong nước và ngoài nước Đã tập trung nhiều hơn vốn đầu tư
của ngân sách Nhà nước cho hạ tầng kinh tế, xã hội. Vốn đầu tư của dân phát triển ở
cả nông thôn và thành thị. Tốc độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5
năm qua tăng bình quân hằng năm 50%; phần vốn được thực hiện đạt khoảng 1/3 tổng
số vốn đăng ký theo dự án
NĂM TỔNG SỐ KV NÔNG – LÂM –
NGƯ NGHIỆP

KV CÔNG NGHIỆP KV DỊCH VỤ
1985 106176 36832 26396 42948
1986 109189 37932 29284 41973
1988 119960 38867 33349 47744
1990 131968 42003 33221 56744
1992 151782 45869 40359 65554
1995 195567 51319 58550 85698
1999 256269 60892 88047 107330
9
Những kết quả về đầu tư phát triển đã làm tăng năng lực sản xuất trong nông thôn,
lâm, ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, đưa vào hoạt động một số công trình quan
trọng của nền kinh tế, nhất là giao thông, thuỷ lợi, dầu khí, thép, xi măng và các cơ sở
du lịch, dịch vụ.
1.2.2.2Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hoá; hình thành nền kinh tế nhiều thành phần.
TỔNG SẢN PHẨM TRONG NƯỚC 1985 – 1999 THEO GIÁ SO SÁNH
PHÂN THEO KHU VỰC KINH TẾ(USD)
Cơ cấu ngành:
Trong GDP, nông, lâm, ngư nghiệp tăng khá về số tuyệt đối, nhưng tỉ trọng giảm từ
38,7% năm 1990 xuống 29% năm 1995; công nghiệp và xây dựng từ 22,6% tăng lên
29,1%; dịch vụ từ 38,6% tăng lên 41,9%. Cơ cấu sản xuất của nông nghiệp, công
nghiệp cũng có những thay đổi theo hướng hiệu quả hơn; các ngành dịch vụ phát triển
đa dạng.
Cơ cấu vùng kinh tế:Cơ cấu vùng đang hình thành từng bước theo quy hoạch kinh tế
- xã hội của các địa phương, các đô thị, các địa bàn lãnh thổ, đặc biệt là các vùng kinh
tế trọng điểm. Các khu công nghiệp, khu chế xuất đang được xây dựng. Một số địa
bàn kinh tế, đặc biệt là một số thành phố lớn, phát huy lợi thế của mình đã đẩy mạnh
đầu tư, đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số vùng nông thôn đã có bước phát triển
nhanh nhờ chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng khai thác lợi thế so sánh, gắn với
thị trường.

Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế, đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu, nhất là trong công
nghiệp, cơ sở hạ tầng và tài chính, tín dụng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã tiếp cận
thị trường, đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, hoạt động có hiệu quả hơn trước.
Các hợp tác xã trong các lĩnh vực nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín
dụng .Đến nay một số ít đã đổi mới tổ chức, quy mô và phương thức hoạt động, khôi
10
phục và phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất hiện các hình thức kinh tế hợp tác kiểu
mới, tuy chưa phổ biến.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển nhanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và thương mại, dịch vụ, đã góp phần quan trọng vào cá thành tựu kinh tế - XH
Kinh tế tư bản tư nhân trong các nước bước đầu phát triển, tập trung phần lớn vào lĩnh
vực thương mại, dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít. Các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, có một số doanh nghiệp quy mô
tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động.
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức liên doanh giữa kinh tế nhà nước với
tư bản tư nhân trong nước và với tư bản nước ngoài đang phát triển. Các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, tăng thêm
kim ngạch xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp.
1.2.2.3. Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều mặt; thị trường xuất, nhập khẩu
được củng cố và mở rộng; nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh.
Trong 5 năm (1991 - 1995) tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ USD (kế hoạch là
12 - 15 tỉ USD), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hoá đáp ứng nhu cầu
của sản xuất và đời sống, góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại. Trong cơ
cấu hàng xuất khẩu đã có thêm một số mặt hàng chế biến và tăng số mặt hàng có khối
lượng xuất khẩu lớn như dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc
Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ USD, kể cả phần nhập khẩu của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; tỉ trọng nhập khẩu vật tư, thiết bị tăng lên, đáp ứng
được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100 nước, tiếp cận
nhiều thị trường mới. Mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các

thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) tăng nhanh, đến cuối năm 1995, các dự án
được cấp giấy phép đạt trên 19 tỉ USD vốn đăng ký. Tỉ trọng đầu tư vào công nghiệp
chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu khí thì chiếm trên 60%), trong đó
11
hơn 60% là đầu tư chiều sâu. Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh, chiến
trên 65% tổng số vốn; xí nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm gần 18%; hợp đồng hợp
tác kinh doanh chiếm gần 17%.
Mối quan hệ hợp tác phát triển đã được khôi phục, khai thông và mở rộng với nhiều
nước và các tổ chức tài chính quốc tế; cơ chế thu hút nguồn tài trợ phát triển song
phương và đa phương đã được thiết lập. Nguồn tài trợ phát triển chính thức (ODA)
tăng dần lên trong những năm gần đây và được tập trung chủ yếu cho việc xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội.
1.2.3 Hạn chế
Chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, nước ta vẫn còn là một trong những
nước nghèo trên thế giới, trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ còn thấp, nguy cơ
tụt hậu xa hơn còn lớn. Việc xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng,
vừa buông lỏng. Tài chính, tiền tệ chưa ổn định và thiếu lành mạnh. Các mặt văn hoá-
xã hội còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững
chắc như: tình trạng tham nhũng, lãnh phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp cũng như hiện
tượng tiêu cực trong bộ máy nhà nước chưa được ngăn chặn triệt để; sự phân hóa giàu
nghèo, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn…
1.3 Giai đoạn 1996-2000
1.3.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế hteo kế hoạch 5 năm (1996-2000) của Chính Phủ
Kế hoạch 5 năm (1996 – 2000) được xác định là thời kỳ rất quan trọng của thời kỳ
phát triển mới, đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Thực hiện đồng thời 3 mục tiêu: tăng
trưởng cao, bền vững và có hiệu quả. Ổn định kinh tế vĩ mô, chuẩn bị tiền đè cho
bước phát triển cao hơn năm 2000, chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực,khoaa học –
công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế,…kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế

và phát triển văn hóa – xã hội, tập trung giải quyết hững vấn đè bức xúc nhằm tạo
được chuyển biến rõ nét về thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
Mục tiêu và các chỉ tiêu phát triển kế hoạch 5 năm (1996 – 2000) đã được xây dựng
với mức phấn đấu rất cao, cả về tốc độ phát triển và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh
12
tế .Qua 5 năm đàu thực hiện chiến lược 1991 -2000 chúng ta đã hoàn thành vượt mức
nhiều chỉ tiêu.Tại Đại hội VIII đưa ra nhận định” nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh
tế xã hội nhưng vẫn còn một số chưa vững chắc.Nhiệm vụ đè ra cho chặn đường đầu
thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho
phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH – HĐH. Theo đó phương hướng nhiệm
vụ kế hoạch 5 năm 1996 -2000 được Đại hội VIII quyết định với mức phấn đấu cao
hơn 5 năm trước.
Giữa năm 1997, tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực
cùng với thiên tai nghiêm trọng liên tiếp xảy ra đã đặt nền kinh tế nước ta trước những
thử thách quyết liệt. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng toàn dân ta đã nỗ lực phấn đấu,
duy trì được nhịp độ tăng trưởng bình quân 6.7% trong 5 năm , tiếp tục đạt được
những thành tựu quan trọng.
1.3.2 Những thành tựu đạt được trong giai đoạn 1996-2000
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi, giá trị sản lượng của các
ngành sản xuất đều đạt về chỉ tiêu phấn đấu, đặc biệt trong nông nghiệp cả 2 kỳ kế
hoạch 5 năm 1990 – 1995 và 1996 – 2000, đều tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu đề ra, sản
lượng lương thực bình quân đầu người từ 300 kg(1990) tăng 370kg (1995) và 435kg
(2000), nhiều loại hang tiêu dung, có dự trữ và xuất khẩu nagỳ càng tăng.
Tích lũy nội bộ kinh tế của nề kinh tế từ mức không đáng kể đã đạt 25% GDP,đầu tư
phát triển tăng từ 1,2%(1990) lên 2,8% (2000) trong GDP.
Kết cấu hạ tầng xã hội được phát triển ngày càng rõ rệt. Năng lực của hầu hết các
ngành sản xuất dịch vụ đều tăng.Cơ cấu sản xuất hang hóa trên hầu khắp các vùng
trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm còn 25%,công nghiệp tăng từ 22,7%
lên 34,5%; dịch vụ tăng từ 38,6% lên 40,5%.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, doanh nghiệp nhà nước đã có bước sắp xếp, đổi

mới vầ phát triển, hình thàng các tổng công ty lớn trong nhiều lĩnh vực then chốt, các
thành phố kinh tế khác phát triển khá nhanh.Thể chế quản lý và phân và phân phối
được chuyển đổi phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
13
Từ chổ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ, từng bước hội nhạp
có hiệu quả với nền kinh tế thế giới, bình thường hóa và mở rộng quan hệ với các tổ
chức tài chính quốc tế.
Kim ngạch xuất khẩu sau 10 năm tăng gấp 6 lần, nhanh gấp 3 tốc độ tăng trưởng
GDP, một số sản phẩm như gạo, cà phê, thủy sản đã giành được thị phần đáng kể trên
thị trường thế giới, đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã thực hiện trong 10 năm khoảng
15tỷ USD, chiếm ¼ tổng đầu tư trong xã hội, thu hút trên 30 vạn lao đọng trực tiếp,
năm 200 tạo 22% kim ngạch xuât khẩu.Trong 5 năm nguồn tài trợ của chính phủ các
nước và các tổ chức quốc tế được giải ngân 6,1 tỷ, tập tung chủ yếu cho việc xây dựng
kết cấu hạ tầng xã hội
1.3.2.1Nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam, thường tạo ra trên 40% tổng
sản phẩm xã hội và khoảng 50% thu nhập quốc dân.
Sự phát triển của ngành nông nghiệp tương đối vững chắc, đặc biệt là sản xuất lương
thực. Giá trị sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng qua các năm:
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
2,9% 8,4% 6,7% 4,9% 6,6% 5,1% 7,0% 3,9% 7,1%
Kết quả quan trọng nhất trong nông nghiệp lá sản xuất lương thực, vấn đề an toàn
lương thực mới được khẳng định và sản lượng hang năm không chỉ cao hơn 21,0 triệu
tấn đề ra từ năm 1980 mà còn thường xuyên tăng lên với mức bình quân mỗi năm
trên 1,2 triệu tấn trong suốt 9 năm 1991 – 1999.day là thời kỳ sản lượng lương thực
tăng ổn định nhất có mức tăng bình quân/ năm và tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ
1975 đến nay.
Năm 1999, cả nước có khoảng 113000 trang trại, khai thác gần 30000000 ha đất trống
đồi trọc và hoang hóa.Số vốn các trang trại đầu tư lên đến 20000tỷ đồng, giải quyết
việc làm hơn 40.000 lao động, kinh tế trang trại hàng năm tạo ra giá trị tổng sản phẩm

gần 12000 tỷ đồng, chiếm 10% sản lượng nông nghiệp.
Tốc độ phát triển chung nông – lâm – ngư nghiệp tăng 4,1% trong đó nông nghiệp
5,6%; lâm nghiệp 0,4% , ngư nghiệp 8,4%.
1.3.2.2 Công nghiệp.
14
Thành tựu đạt được trong công nghiệp, xây dựng đã đạt được nhiều tiến bộ. Giá trị sản
xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,5% trong đó: công nghiệp quốc doanh
tăng 9,5%; ngoài quốc doanh tăng 11,5%; khu vực vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,8%.
Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển góp phần tích cực cho tăng trưởng kinh tế và
phục vụ đời sống. Thương mại tăng trưởng khá, đảm bảo lưu chuyển cung ứng vật tư
hang hóa trong cả nước và trên từng vùng.
1.3.2.3 Thương mại
Những năm qua nhờ chính sách đổi mới, hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào, nguồn
hàng nhập khẩu cũng rất phong phú, nhiều thành phần kinh tế đã được nhà nước
khuyến khích phát triển, nên ngành thương mại có mức tăng trưởng khá cao, giá cả
bình ổn hơn.
Thời kỳ đổi mới nhà nước thực hiên chính sách mở cửa đa phương hóa đa dạng hóa
quan hệ kinh tế đối ngoại, Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với hơn 100 nước và
lãnh thổ trên thế giới, Việt Nam ký hiệp định hợp tác thương mại EU, bình thường
hóa quan hệ với Hoa Kỳ(12 – 07 – 1995), trở thành thành viên chính thức của
ASEAN(1995). Đến năm 2000, hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết. Nét đặc
trưng nổi bật là quá trình mở cửa hoạt đông thương mại được đẩy mạnh. Đến năm
1997, tổng kim ngạch ngoại thương vượt 21 tỷ USD, hệ số mở cửa của nền kinh tế
nước ta phát triển nhanh. Sự đẩy mạnh hoạt động ngoại thương, nhất là xuất khẩu đã
trở thành một động lực quan trọng để đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.Năm 1995,
GDP tăng 9,5% thì tốc độ xuất nhập khẩu là 47%( xuất khẩu 50%)
Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991-1995 gấp 2-2,5 lần so với 5 năm trước, nhưng
đến năm 2000 tăng 5,4 lần.
Đã thực hiện được nhiệm vụ “ Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tốc mặt hang
chế biến, tạo ra một sồ mặt hang có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định”.

Trong kim ngạch xuất khẩu, tỉ trọng sản phẩm qua chế biến từ 8%(1991) lên đến 40%
(2000) và đã có 12 mặt hàng khối lượng và kim ngạch lớn, trong đó mặt hàng có trị
giá trên 1 tỷ USD là gạo, giày dép, may mặc và dầu thô. Đặc biệt một số sản phẩm
Việt Nam có vị thế cao trên thế giới như gạo, cà phê
15
Nhập khẩu đã phục vụ có hiệu quả cho phát triển sản xuất và đổi mơi công nghệ, thúc
đẩy nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của đời sống.
Tình trạng nhập siêu đã gảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối, trong 5 năm( 1991-
1995), nhập siêu chiếm 33% kim ngạch nhập khẩu thì 5 năm sau (1996-2000) chỉ còn
khoảng 18%, riêng năm 1999 là 0,7% đã vượt qua khủng hoảng thị trường vào đầu
những năm 90 do Liên Xô và Đông Âu tan rã, và đẩy lùi được chính sách bao vây
cấm vận nước ta, về mặt cơ bản thực hiện được chủ trương “ đa dạng hóa thị trường,
đa phương hóa quan hệ kinh tế”. Nước ta đã có quan hệ thương mại với 105 nước và
vùng lãnh thổ, kí trên 60 hiệp định thương mại với các nước trong đó có Hoa Kì, gia
nhập ASEAN, APEC, và đang đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO, là thành viên của
IMF,WB,ADB.
Đã đổi mới một cách cơ bản cơ chế xuất nhập khẩu thoe hướng cho phép mọi doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinnh tế được trực tiếp xuất nhập khẩu, xóa bỏ hầu hết
các thủ tục phiền hà và các looại giấy phép không cần thiết, nên đến 2000 có trên
1200 doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp
1.3.3 Những hạn chế và khó khăn
Kinh tế Việt Nam còn phát triển chưa vững chắc, lạc hậu, trình độ kém, thu nhập quốc
dân, năng suất tuy tăng cao nhiều lần so với các năm trước nhưng vẫn còn thấp, đời
sống nhân dân khó khăn, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao.
Xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực tham nhũng, lãng phí, buôn lậu và nhiều
tiêu cực còn tồn tại trong nhà nước.
Trình độ khoa học kĩ thuật kém không đáp ứng nhu cầu đất nước. Tình trạng chảy
máu chất xám xuất hiện
1.4 Giai đoạn 2001-2005

1.4.1 Các chỉ tiêu pát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm của Chính Phủ
Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH.
Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại.
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy
nhân tố con người. Tạo nhiều việc làm, cơ bản xóa đói giảm hộ nghèo; đẩy lùi các tệ
16
nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; hình thành một bước
quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Giữ vững ổn định chính trị
và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia.
Một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 2001 - 2005:
- Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm tăng 7,5%.
- Tỷ trọng ngành trong GDP năm 2005 dự kiến: Nông - lâm - ngư nghiệp 20-21%,
công nghiệp và xây dựng 38-39%, dịch vụ 41-42%.Xuất khẩu tăng 14-16%.
- Giảm tỷ lệ sinh BQ hàng năm 0,05%, tốc độ tăng dân số năm 2005 khoảng 1,2%.
- Giải quyết việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động (bình quân 1,5 triệu lao
động/năm), nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005.
- Cơ bản xóa đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% năm 2005 Nâng tuổi thọ bình
quân năm 2005 lên 70 tuổi,cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn.
1.4.2. Những thành tựu đạt được giai đoạn 2001-2005
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) (2001-2005) tăng bình quân7,5%/năm đạt mục tiêu
đề ra. Trong đó: Nông nghiệp tăng 3,8%, Công nghiêp và xây dựng tăng 10,2%, dịch
vụ tăng7%
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước 5 năm 2001-2005
2001 2002 2003 2004
Ước tính
2005
BQ mỗi
năm 2001-

2005
Tổng số 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43 7,51
Nông lâm nghiệp và thuỷ
sản
2,98 4,17 3,62 4,36 4,04 3,83
- Công nghiệp và xây dựng 10,39 9,48 10,48 10,22 10,65 10,24
- Dịch vụ 6,1 6,54 6,45 7,26 8,48 6,96
17
Biều đồ: Tỷ trọng cơ cấu ngành năm 2005
Quy mô tổng sản phẩm trong nước 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đổng, gấp đôi so với năm
1995.
GDP bình quân đầu người: 640 USD/ người, vượt mức bình quân cảu các nước phát
triển có thu nhập thấp (500 USD/ người)
1.4.2.1 Công nghiệp
Liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao. Cơ cấu sản xuất và chất lượng sản phẩm có bước
chuyển biến tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,9%/ năm cao
hơn 2%/năm so với năm trước.
Đến 2005, cả nước đã có 125 khu công nghiệp, khu chế xuất, tỷ lệ công nghiệp chế
tác, công nghiệp cơ khí chế tạo tăng lên. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh
được với thị trường thế giới, cơ cấu sản phẩm công nghiệp xuất khẩu phong phú hơn,
đadạng hơn, đã có chỗ đứng ở một vài thị trường trên thế giới.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển, ngành nghề đa dạng đã góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp. Các địa phương
có tỷ trọng sản xuất công nghiệp lớn: Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng,…
Giá trị xuất khẩu công nghiệp trong 5 năm đạt 82 tỷ USD, chiếm 74% gia1 trị kim
ngạch xuất khẩu cả nước.
Sự tham gia của các thành phần kinh tế trog sản xuất công ngiệp đã góp phần làm cho
sản xuất công nghiệp mang tính đa dạng cả về quy mô lẫn sản xuất, cả về trình độ
công nghệ, chủng loại và chất lượng sản phẩm, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
các thi trường tiêu thụ

1.4.2.2 Nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 5,5%/năm. Sản lượng
lương thực tăng bình quân hằng nắm triệu tấn. Năm 2005 đạt 39,5% triệu tấn. Ngành
chăn nuôi phát triển với tốc độ 6,4%/Năm. Độ che phủ rừng từ 33,7% năm 2000-2005
là 37,4%. Ngành thủy sản phát triển nhanh nhất là nuôi trồng. Sản lượng thủy sản
18
2005: 3,43 triệu tấn tăng 1,5 lần so với năm 2000.Tỷ trọng xuất khẩu thủy sản năm
2000 là 15,6%- 2005 là 21,2%
Kinh tế nơng thôn phát triển theo hướng đa dạng hóa ngành nghề, tăng tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ. Kinh tế trang trại được hình thành và phát triển với quy mô đa dạng,
phù hợp với đặc điểm từng vùng.
1.4.2.3 Dịch vụ
Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 7,6%/năm. Tổng mức lưu chuyển
hàng hóa lẻ tăng bìn quân 15%/năm
Ngành du lịch có bước phát triển khá, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam tăng
đáng kể
Dịch vụ vận tải, bưu chính viễn thông đã mở cửa thị trường, tăng cường khả năng
cạnh tranh để phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng hiện đại. Trogn 5 năm 2000-
2005, phát triển trên 11 triệu máy điện thoại, đến 2005 hầu hết các xã đều có điện
thoai, 83% số xã trên toàn quốc có điểm bưu điện văn hóa xã, 2,8 triệu thuê bao
internet. Mật độ điện thoại 17,1 máy/ 100 dân
Kết quả thực hiện một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu trong kế hoạch 5 năm
2001 – 2005
19
1.4.3 Những khó khăn và hạn chế
Nền kinh tế vẫn trong tình trạng kém phát triển, sức cạnh tranh thấp và chứa đựng nhiều
mặt mất cân đối.
Những năm 2001-2005 vừa qua nền kinh tế nước ta tăng trưởng bình quân mỗi năm
7,51% là một thành công, do xuất phát điểm thấp nên quy mô của nền kinh tế còn nhỏ
bé, giá trị tăng thêm của 1% tăng lên không cao và do vậy đến nay nước ta vẫn chưa

ra khỏi danh sách các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Theo phân loại của Ngân
hàng Thế giới năm 2003 về thu nhập, các quốc gia và vùng lãnh thổ được chia thành 4
nhóm: (1) Thu nhập thấp tổng sản phẩm trong nước bình quân từ 765 USD/người/năm
trở xuống; (2) Thu nhập trung bình thấp 766-3035 USD/người/năm; (3) Thu nhập
bình quân cao 3036-9385 USD/người/năm; (4) Thu nhập cao từ 9386 USD người/năm
trở lên, bình quân đầu người của nước ta năm 2005 chỉ đạt 638 USD, tuy tăng 58,7%
so với năm 2000 nhưng mới bằng 83,4% cận trên của nhóm thu nhập thấp.
Tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người tính bằng đô la Mỹ theo tỷ giá hối
đoái năm 2004 của nước ta chỉ bằng 53,2% của Phi-li-pin; 46,4% của In-đô-nê-xi-a;
43,6% của Trung Quốc; 21,8% của Thái Lan và bằng 12% của Ma-lai-xi-a. Nếu tính
20
theo sức mua tương đương thì cũng có tình trạng thấp thua tương tự. Chính do tổng
sản phẩm trong nước bình quân đầu người thấp nên mặc dù chỉ số tuổi thọ trung bình
và chỉ số giáo dục tương đối cao nhưng chỉ số HDI vẫn rất thấp.
Một hạn chế lớn khác của nền kinh tế nước ta là đang chứa đựng nhiều mặt mất cân
đối. Quan hệ tích luỹ, tiêu dùng ít được cải thiện. Tích luỹ trong tổng sản phẩm trong
nước chiếm tỷ trọng thấp và gần như không tăng qua các năm. Trong quan hệ thương
mại, nhập siêu tuy vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng ở mức tương đối cao.
Đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chậm được
khắc phục.Tỷ lệ hộ nghèo của nước ta đã giảm đáng kể, nhưng đến nay vẫn còn tương
đối cao. Một bộ phận dân cư, nhất là bộ phận dân cư sinh sống ở vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào các dân tộc ít người đời sống vẫn rất khó khăn.
1.5. Giai đoạn 2006-2010
1.5.1 Các chỉ tiêu phát triển kinh tế theo kế hoạch 5 năm( 2006-2010) của Chính
Phủ
GDP bình quân đạt 7,5 – 8%, phấn đấu đạt trên 8% (theo so sánh GDP năm 2010 gấp
2,1 lần so với 2000) GDP bình quân đầu người đến 2010: 1.050 – 1.100 USD (năm
2005 đạt khoảng 600 USD)
Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010:
-Nông, lâm nghiệp và thủy sản khoảng 15 -16%, công nghiệp và xây dựng: 43 – 44%,

các ngành dịch vụ: 40 – 41%
Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước đạt khoảng 21 – 22% GDP
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm
Tổng đầu tư xã hội chiếm 40%GDP (vốn trong nước chiếm 65%, vốn bên ngoài 35%
1.5.2. Những Thành tựu đạt được trong giai đoạn
Trong hai năm đầu (2006 – 2007) Việt Nam được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Từ
Quý II năm 2007 mặc dù lạm phát trong nước bắt đầu tăng cao, tiếp đến là cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động không thuận đến nền kinh tế
nước ta, nhưng Việt Nam đã sớm vượt qua và vẫn giữ vững được ổn định kinh tế vĩ
21
mô, duy trì tốc độ tăng trưởng khá với mức tăng trưởng bình quân trong cả thời kì
2006 – 2010 khoảng 7%; mặt bằng kinh tế - xã hội được nâng lên đáng kể. Điều này
được chứng minh qua những chỉ tiêu trong một số lĩnh vực lớn như sau:
Quy mô và năng lực sản xuất của các ngành đều tăng. GDP năm 2010 gấp 2 lần so với
năm 2000; ước đạt trên 101 tỉ USD, gấp hơn 3,2 lần năm 2000 (31,2 tỉ USD); (theo
giá thực tế bình quân đầu người) ước khoảng 1.160 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề
ra là 1.050 – 1.100 USD, vượt qua ngư›ng nước đang phát triển có thu nhập thấp và
trở thành nước có mức thu nhập trung bình.
Cấu trúc kinh tế đã có thay đổi tích cực. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu thời kỳ 2006-
2010 đạt 56 tỉ USD/năm, bằng 2,5 lần thời kỳ 2001-2005 và tăng 17,2%/năm.Thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn ODA ngày càng tăng và có nhiều thuận lợi.
Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỉ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỉ, năm 2008 đạt 11,5
tỉ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so với năm
trước. Thời kỳ 2006-2010, FDI thực hiện tăng bình quân 25,7%/năm.
Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế trong những năm
cuối kỳ kế hoạch. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước bình quân 5 năm ở mức
khoảng 28% GDP, bội chi ngân sách bình quân chỉ 5,7%. An ninh tài chính quốc gia
được bảo đảm, ước tính đến cuối năm 2010 dư nợ chính phủ chiếm khoảng 44,5%
GDP. Dư nợ ngoài nước của quốc gia so GDP ở mức an toàn cho phép. Chính sách
tiền tệ điều hành linh hoạt theo nguyên tắc thị trường, góp phần tích cực vào việc

kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng
thương mại có sự phát triển cả về quy mô và chất lượng tín dụng; tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu của hầu hết các ngân hàng đều đạt chuẩn mực quốc tế trên 8%. Cán cân thanh
toán quốc tế thặng dư khá cao trong những năm đầu của kỳ kế hoạch, còn 2 năm cuối
(2009-2010) tuy có mức thiếu hụt, nhưng không bị phá v› cân đối.
Tổng vốn đầu tư được huy động đưa vào phát triển kinh tế - xã hội 5 năm qua theo giá
hiện hành đạt khoảng 3.062 nghìn tỉ đồng (tăng 14,4% so với kế hoạch) bằng 42,7%
GDP, gấp hơn 2,5 lần so với 5 năm trước đó (2001 – 2005). Hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội được cải thiện đáng kể tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Nhiều nhà máy công nghiệp lớn, kỹ thuật cao,
22
cụm công nghiệp,… được ra đời và đi vào hoạt động hiệu quả, góp phần xóa đói, giảm
nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở tất cả các
vùng, miền trong cả nước.
1.5.3 Những hạn chế và yếu kém:
Nhìn một cách tổng thể so với yêu cầu thì chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kinh tế phát triển chưa bền vững vẫn ở
dưới mức tiềm năng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu, các cân đối vĩ mô
còn hạn hẹp, lợi ích mang lại từ tăng trưởng kinh tế không cao. Thể hiện:
Một là, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác
động đầu vào (vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp
(TFP), chủ yếu là nhân tố khoa học, công nghệ thì rất thấp.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và
thủy sản trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005
(mục tiêu đặt ra là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Mặt khác, trình độ công
nghệ ở nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng
lượng, giá thành cao Trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế cũng còn khoảng
cách quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa tạo được sức lan tỏa thúc đẩy những
vùng khác cùng phát triển.
Ba là, nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng, đang là vật

cản kìm hãm chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất, kinh doanh chậm phát triển và chưa
theo kịp yêu cầu của nền kinh tế, dẫn đến hậu quả tăng chi phí trung gian và các yếu
tố đầu vào, năng lực cạnh tranh thấp.
Bốn là, tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp ứng
nhu cầu chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các
khoản vay trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy
động vốn để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục.
Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế cho
các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước
23
ngoài .Cụ thể, chất lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là
giao thông, cấp thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn vừa thiếu, vừa
kém chất lượng đang gây ách tắc cho sự phát triển.
1.6 Giai đoạn 2011- 2012
1.6.1 Các chỉ tiêu của Chinh Phủ đặt ra năm 2011
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7 - 7,5% so với năm 2010; GDP bình
quân đầu người khoảng 1.300 USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu là 74,8 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2010. Giảm nhập
siêu xuống dưới 20%.
Tổng thu ngân sách nhà nước 590,5 nghìn tỷ đồng; Tổng chi ngân sách nhà nước
725,6 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5,5%.
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 40% GDP.Tăng giá tiêu
dùng khoảng 7%.
Năm 2012- Chỉ tiêu lạm phát: Năm 2012 phấn đấu kiềm chế lạm phát dưới 10%, các
năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5 - 7% Chỉ tiêu tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP): Năm 2012 tăng GDP khoảng 6 - 6,5%. Để chủ động ứng
phó với diễn biến phức tạp của tình hình và tập trung cho nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ
mô, Chính phủ đề nghị điều hành theo phương án tăng trưởng khoảng 6%, khi có điều
kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức 6,5%.Trong giai đoạn 5 năm 2011 - 2015, tăng

trưởng GDP bình quân khoảng 6,5 - 7%. Phấn đấu đạt 7% Các chỉ tiêu về bội chi
ngân sách nhà nước và nợ công: Năm 2012, bội chi ngân sách nhà nước bằng 4,8%
GDP, các năm sau giảm dần để đến năm 2015 giảm xuống còn 4,5%.
Đến năm 2015, nợ công khoảng 60 - 65% GDP.
24
- Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 dự kiến tăng khoảng 12 - 13% so với năm
2011; nhập siêu 11,5 - 12% tổng kim ngạch xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2015, nhập
siêu khoảng 10%.
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: Năm 2012 bằng khoảng 33,5 - 34% GDP.
Bình quân 5 năm khoảng 33,5 - 35% GDP.
1.6.2 Những thành tựu đạt được trong giai đoạn này.
Lạm phát giảm dần, kinh tế vĩ mô có bước chuyển biến tích cực kiềm chế lạm phát
và nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp để kiểm soát giá cả, điều tiết cung cầu, bình
ổn thị trường nên từ tháng 5 năm 2011 mức tăng giá tiêu dùng đã giảm dần, 9 tháng
tăng 16,63%, ước cả năm tăng khoảng 18%. Điều hành chính sách tài khoá thắt chặt,
tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, đồng thời rà soát, cắt
giảm và sắp xếp lại đầu tư công, tập trung vốn cho các công trình quan trọng , sắp
hoàn thành; miễn, giảm nhiều loại thuế cho doanh nghiệp và cá nhân. Kết quả là, bội
chi ngân sách nhà nước cả năm 2011 giảm xuống còn 4,9% GDP (kế hoạch là 5,3%),
thu ngân sách tăng, đáp ứng nhu cầu chi và dành một phần để tăng chi trả nợ.Chính
phủ đã chỉ đạo thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt. Vốn tín dụng được ưu
tiên cho sản xuất nông nghiệp, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và
vừa. Thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực, tỷ giá dần ổn định, trạng thái ngoại
hối của hệ thống ngân hàng, dự trữ ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế được cải
thiện. Mua bán ngoại tệ và kinh doanh vàng được kiểm soát có kết quả bước đầu. Nợ
công được giữ ở mức an toàn. An ninh năng lượng và lương thực được bảo đảm.
Sản xuất kinh doanh được duy trì và tiếp tục phát triển nông nghiệp phát triển khá
toàn diện, đạt mức kỷ lục về sản xuất lương thực và xuất khẩu gạo, thu nhập và đời
sống của nông dân được cải thiện, giá trị sản xuất nông nghiệp 9 tháng tăng 4,1%,
ước cả năm tăng 3,6%; chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng tăng khá, đạt 7,8%,

ước cả năm tăng khoảng 7%; khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển, 9 tháng tăng 6,24%,
dự báo cả năm tăng 6,4%.Xuất khẩu tăng cao, nhập khẩu được kiểm soát. Nhập siêu
giảm mạnh, dự kiến khoảng 10 tỷ USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp
hơn chỉ tiêu kế hoạch (không quá 18%), đã góp phần tích cực cải thiện cán cân thanh
toán và ổn định tỷ giá.Trong điều kiện phải tập trung kiềm chế lạm phát, giảm mạnh
25

×