Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Thực trạng giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân
tỉnh Quảng Nam
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
MỤC LỤC
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Các hoạt động kinh tế luôn có vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Khi những hoạt động này diễn ra sẽ không thể
tránh khỏi những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh do nhiều nguyên nhân.
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, số
lượng các tranh chấp trong kinh doanh ngày càng tăng với mức độ ngày càng
phức tạp. Vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp phát sinh là điều cần thiết để
đảm bảo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các chủ thể kinh doanh.
Để thực hiện chức năng kinh tế của mình, nhà nước ta đã ban hành Hệ thống
quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Nhà nước thông
qua các cơ quan chức năng hoặc các tổ chức được pháp luật thừa nhận để giải
quyết các tranh chấp, mâu thuẫn.
Hiện nay, có thể nói, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp quan trọng và
phổ biến nhất ở Việt Nam. Trong hệ thống Tòa án nhân dân thì giải quyết các
tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc chức năng của Tòa kinh tế, là một
Toà chuyên trách thành lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 và có
hiệu lực ngày 01/07/1994.
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được thực hiện đúng
đắn, kịp thời; góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh và an ninh quốc gia.
Đây là mối quan tâm của nhiều người trong điều kiện kinh tế ngày càng phát
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
triển như hiện nay. Chính từ thực tiễn này, trong quá trình thực tập tại Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam, tôi lựa chọn vấn đề “Thực trạng giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Các hoạt động kinh doanh, thương mại trong thời kỳ hội nhập quá phong
phú, đa dạng làm cho số lượng tranh chấp phát sinh trong hoạt động này ngày
càng nhiều và ngày càng phức tạp. Nếu trước đây, các tranh chấp kinh doanh,
thương mại thường là tranh chấp về mua bán hàng hóa và một phần về cung
ứng dịch vụ; thì hiện nay, nhiều loại tranh chấp mới đã phát sinh như tranh
chấp về mua bán licence, nhượng quyền thương mại, …Trong bối cảnh nền
kinh tế thị trường phát triển, cùng với mục tiêu lợi nhuận được đặt lên hàng
đầu, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại thu hút rất nhiều các
chủ thể; và cũng chính trong mối quan hệ kinh tế này luôn tìm ẩn các nguy cơ
phát sinh tranh chấp nhằm tranh giành lợi ích giữa các bên tham gia. Do đó,
hiện nay các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại được
rất nhiều người quan tâm, bao gồm cả các phương thức giải quyết tranh chấp
khi nó phát sinh.
Trước tình hình chung đó, sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Nam trong
những năm trở lại đây đã kéo theo sự xuất hiện của hàng loạt các mô hình
doanh nghiệp với quy mô khác nhau, hoạt động trong nhiều lĩnh lực kinh tế.
Và điều này cũng làm cho các tranh chấp kinh doanh, thương mại trên địa
bàn Tỉnh gia tăng trong những năm vừa qua về cả số lượng và mức độ phức
tạp. Chính vì vậy, việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại phát
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
sinh là yêu cầu cấp thiết đối với tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả nước nói
chung.
Ở nước ta hiện nay, Tòa án là cơ quan giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại phổ biến nhất và việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh,
thương mại được quy định trong khá nhiều văn bản pháp lý. Theo điều 29,
BLTTDS thì các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế; và văn
bản pháp lý giải quyết các tranh chấp trên có thể là Bộ luật dân sự hay Luật
chuyên ngành như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doạnh nghiệp,
3. Phạm vi nghiên cứu
Tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại là vấn đề rộng lớn, có thể nhìn nhận đánh giá từ nhiều góc độ
khác nhau. Trong phạm vi của chuyên đề tốt nghiệp, tôi chỉ giới hạn nghiên
cứu về thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa Kinh
tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
4. Mục đích nghiên cứu
Thông qua chuyên đề, tôi muốn mô tả một “bức tranh” cụ thể về thực trạng
cũng như việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam. Và
với tình hình thực tiễn cùng với những kinh nghiệm, hiểu biết có được trong
quá trình thực tập, tôi xin đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
cao hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
kinh tế - Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
5. Bố cục của chuyên đề
Chuyên đề trình bày các nội dung chính sau: ngoài phần mở đầu, kết luận và
tài liệu tham khảo, nội dung được trình bày theo 3 chương:
Chương I: Pháp luật về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Tòa án
Chương II: Thực trạng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa Kinh tế - Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam
Chương III: Giải pháp và kiến nghị
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN
1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này
mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây
cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm
quen thuộc trong cơ chế kinh doanh kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức
và tư duy pháp lý của người Việt Nam.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương
mại ngày 10/5/1997; theo văn bản này thì tranh chấp thương mại là tranh
chấp phát sinh do do việc không thực hiện hoặc thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại. Nhưng thực tế, cùng với
sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường và sự phát triển
không ngừng của nền kinh tế, thì thuật ngữ tranh chấp kinh doanh, thương
mại không chỉ bó hẹp là những tranh chấp như Luật thương mại 1997 đã xác
định mà nó còn bao hàm nhiều loại tranh chấp khác phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, thương mại diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cùng
với thời kỳ hội nhập như hiện nay.
Nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế có chế
độ sở hữu khác nhau, đã tạo điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài nước,
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa nước ta phát triển. Tìm kiếm lợi nhuận trong
kinh doanh không những là động lực phát triển mà còn là lý do tồn tại của
hầu hết các chủ thể tham gia. Nhưng cũng chính sự đa dạng trong hoạt động
kinh doanh, đầu tư cùng với quy luật cạnh tranh mà các quan hệ kinh tế ngày
càng trở nên phức tạp hơn; những mâu thuẫn phát sinh ngày càng nhiều, cạnh
tranh ngày càng gay gắt, khốc liệt hơn. Biểu hiện cụ thể đó là các tranh chấp
kinh doanh, thương mại mà các bên không thể tự thỏa thuận được với nhau.
Do đó, việc có một tổ chức giúp các bên giải quyết các mâu thuẫn phát sinh
là điều quan trọng và cần thiết, để đảm bảo tâm lý và sự công bằng cho các
chủ thể khi tham gia kinh doanh.
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp biểu hiện những mâu thuẫn
hay xung đột về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Như
vậy, tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể phát sinh trong cả quá trình
sản xuất và tái sản xuất xã hội. Dù tồn tại dưới hình thức nào và bắt nguồn từ
nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì đặc trưng chung của tranh chấp
kinh doanh, thương mại là luôn gắn với hoạt động kinh doanh và chủ thể
tham gia chủ yếu là các cá nhân, đơn vị kinh doanh. Về bản chất, mỗi tranh
chấp xét cho cùng đều phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa các
bên tham gia vào quan hệ kinh tế đó.
Khoản 1 Điều 29 BLTTDS 2004 quy định rõ rằng những tranh chấp về kinh
doanh thương mại là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có
mục đích lợi nhuận.
Những tranh chấp đó bao gồm: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân
phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường
thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không,
đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục
đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty; các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy
định.
Trong nền kinh tế hiện nay, nhiều doanh nghiệp được thành lập với hình thức
khác nhau, trong những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau thì việc liên kết, hợp
tác thậm chí cạnh tranh với nhau cũng là điều dễ hiểu. Xung đột về quyền và
lợi ích giữa các chủ thể khi tham gia kinh doanh là không thể tránh khỏi. Một
số loại hình tranh chấp phổ biến hiện nay có thể kể đến là tranh chấp về hợp
đồng kinh doanh, thương mại; tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty
hay giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến thiết lập, giải thể
công ty … Trong điều kiện kinh tế thị trường với sự đa dạng về đối tượng
làm phát sinh nhiều tranh chấp mới như tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
mua bán cổ phiếu, … Một khi các tranh chấp xảy ra, có nghĩa là lợi ích kinh
tế của một bên chủ thể kinh doanh đã bị vi phạm. Điều này không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của chính chủ thể đó mà còn gián
tiếp tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. Đối với
một số tranh chấp xảy ra trong nội bộ đơn vị, chẳng hạn tranh chấp về quyền
quản lý và điều hành doanh nghiệp, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ
ảnh hưởng đến hoạt động chung của đơn vị đó. Trong một số trường hợp, các
bên hoặc một số bên tranh chấp không quan tâm quan tâm đến lợi ích và sự
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
phát triển của doanh nghiệp, mà vì lợi ích của mình một cách thái quá dẫn
đến đình trệ sản xuất. Các bên đều cố ý can thiệp, ngăn cản hoạt động bình
thường của doanh nghiệp dưới các hình thức khác nhau, gây thiệt hại thêm
cho chính họ và các bên liên quan. Tranh chấp kinh doanh, thương mại phát
sinh là điều tất yếu, vấn đề là phải có biện pháp giải quyết hợp lý những tranh
chấp đó để giúp cho các chủ thể kinh doanh có được sự tin tưởng trong cơ
chế điều hành, quản lý kinh tế của Nhà nước. Chính vì thế, việc đổi mới và
hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại phù hợp
với cơ chế thị trường không chỉ là đòi hỏi bức thiết của xã hội mà còn là yêu
cầu để đảm bảo thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta.
2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án
2.1. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Toà án
Tranh chấp kinh doanh, thương mại là một hệ quả tất yếu của quá trình vận
động các nguồn lực của các cá nhân, tổ chức vào hoạt động kinh doanh,
thương mại. Khi tranh chấp xảy ra, các bên cần có cơ chế giải quyết tranh
chấp để mở đường cho sự hợp tác và phát triển. Tòa án là một trong những
phương thức giải quyết tranh chấp như thế.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo nghĩa chung nhất có thể
hiểu là cách thức, phương pháp hay các hoạt động để điều chỉnh các bất
đồng, các xung đột, nhằm khắc phục và loại trừ các tranh chấp đã phát sinh,
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân và các chủ thể
kinh doanh khác, bảo vệ trật tự kỷ cương của xã hội.
Mọi công dân đều có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật
(Điều 57, Hiến pháp 1992). Đó là quyền tự do trong lựa chọn hình thức tổ
chức kinh tế, lựa chọn ngành nghề, quy mô và cả lựa chọn phương thức giải
quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh. Tùy vào
điều kiện kinh doanh cũng như mong muốn khác nhau của các chủ thể, họ sẽ
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất với mình. Hiện
nay, theo quy định của pháp luật thì các hình thức giải quyết tranh chấp trong
thương mại gồm: thương lượng, hòa giải, giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án
(Điều 317, Luật Thương mại 2005).
Ở Việt Nam hiện nay, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết
bằng con đường Tòa án chiếm tỷ lệ lớn. Mặc dù giải quyết tranh chấp bằng
phương thức trọng tài đã có từ khá lâu, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều cá
nhân và doanh nghiệp chưa quan tâm đến cơ chế giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài cũng như sự hiện diện của Trung tâm trọng tài thương mại. Trọng
tài thương mại không phải là điều quá mới mẻ nhưng vẫn còn mờ nhạt và khá
xa lạ trong vấn đề giải quyết tranh chấp ở môi trường kinh doanh của nước
ta.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực của Nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt,
chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có
sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế
của nhà nước. Ở Việt Nam, tranh chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án
nhân dân.
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại
Tòa án là cơ quan thực thi quyền tư pháp trong bộ máy nhà nước và việc thực
thi quyền lực này lại ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; tòa án là nơi thể hiện sâu
sắc nhất bản chất của Nhà nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện
chất lượng hoạt động và uy tín của cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm
vụ quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân cần phải tuân thủ theo các nguyên
tắc, thủ tục do luật pháp quy định để đảm bảo hiệu quả xét xử, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đảm bảo vai trò quan trọng trong
hoạt động quản lý xã hội.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý kinh tế bằng pháp luật của nhà nước ta, tòa kinh
tế ra đời thực hiện chức năng xét xử các tranh chấp trong hoạt động kinh
doanh, thương mại. Cũng như Tòa án nhân dân nói chung, Tòa kinh tế cũng
áp dụng và tuân theo các nguyên tắc đã được pháp luật quy định trong quá
trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Với mục đích giải
quyết các tranh chấp nhanh chóng, có hiệu quả và hợp pháp, tạo điều kiện
thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia; hoạt động của Tòa kinh tế
cần dựa trên các nguyên tắc, thủ tục tố tụng trong giải quyết các tranh chấp
kinh doanh, thương mại. Tất cả các hoạt động trong quá trình tố tụng như
khởi kiện, xét xử, ra quyết định hay bản án, …phải được thực hiện theo đúng
các nguyên tắc đã được quy định. Nếu có sự vi phạm các nguyên tắc này
trong quá trình thực hiện giải quyết các tranh chấp thì đều bị coi là bất hợp
pháp và phải loại bỏ.
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
Là một bộ phận của Tòa án nhân dân, Tòa kinh tế phải tuân thủ theo các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan tòa án nói chung được quy định
trong Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002. Bên
cạnh đó, với tư cách là một Tòa chuyên trách độc lập trong hệ thống Tòa án
nhân dân, Tòa kinh tế cũng phải tuân thủ những nguyên tắc riêng khi tiến
hành giải quyết các tranh chấp thuộc thẩm quyền của mình. Một số các
nguyên tắc chung được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1992 và Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 như: nguyên tắc khi xét xử, Thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Tòa án xét xử công
khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số; Tòa án đảm bảo cho đương sự
được dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa; … Trên cơ sở
các nguyên tắc chung này, thủ tục giải quyết các vụ án kinh doanh, thương
mại được xây dựng với những đặc thù riêng của mình.
Các nguyên tắc riêng mà Tòa kinh tế phải tuân thủ trong hoạt động giải quyết
các tranh chấp kinh doanh, thương mại đó là: nguyên tắc tôn trọng quyền tự
định đoạt của các đương sự; nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; nguyên
tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ;
nguyên tắc hòa giải; nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng kịp thời;
nguyên tắc xét xử công khai.
3.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Trong pháp luật tố tụng, quyền tự định đoạt của đương sự biểu hiện ở khả
năng khi tham gia tố tụng, các đương sự tự do định đoạt các quyền, phương
tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước các xâm hại.
Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 5, BLTTDS 2004. Theo đó, các
đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án có thẩm quyền
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó;
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền định đoạt của đương sự được
thể hiện qua nội dung của một số quyền khác như: quyền thay đổi, bổ sung
hoặc rút các yêu cầu; quyền hòa giải, thương lượng; quyền đưa ra chứng cứ
và chứng minh; quyền kháng cáo.
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nguyên tắc cơ bản
nhất trong tố tụng vụ án kinh doanh thương mại. Nguyên tắc này xuất phát từ
nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể. Quyền tự do
kinh doanh không có nghĩa là các cá nhân, tổ chức khi tham gia kinh doanh
có thể làm bất cứ điều gì cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của mình; mà khi
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, các bên đều phải tuân theo
những quy tắc nhất định của pháp luật. Và khi có tranh chấp xảy ra, trình tự
cũng như thủ tục giải quyết phải tuân theo pháp luật. Với nguyên tắc tôn
trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá trình tố tụng, pháp luật
đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn cách giải quyết tranh chấp cho
các bên, tạo ra sự chủ động của đương sự trong quá trình giải quyết tranh
chấp.
Các chủ thể khi tham gia vào mối quan hệ kinh doanh với các đối tác của
mình, không ai mong muốn tranh chấp xảy ra, gây thiệt hại cho lợi ích kinh
tế của các bên. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi xảy ra tranh
chấp, việc giải quyết tranh chấp một cách thấu tình đạt lý nhưng vẫn đảm bảo
uy tín kinh doanh, không làm ảnh hưởng đến quan hệ “bạn hàng” là điều mà
các bên đều mong muốn. Chính vì vậy, trong nguyên tắc tôn trọng quyền tự
định đoạt của đương sự, quyền khởi kiện có thể coi là quan trọng nhất. Bởi
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
lẽ, theo quy định thì Tòa án chỉ thụ lý, giải quyết các tranh chấp này nếu có
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các đương sự; nếu đương sự không khởi kiện
ra tòa thì tòa án không có thẩm quyền giải quyết. Có thể thấy rằng, việc tranh
chấp có được đưa ra tòa án giải quyết hau không là sự lựa chọn của các chủ
thể. Trên thực tế, khi phát sinh các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thì
các bên sẽ cố gắng tự giải quyết vì như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều thời
gian và chi phí, đặc biệt là không ảnh hưởng đến quan hệ làm ăn cũng như uy
tín của họ được bảo đảm; việc nhờ đến cơ quan luật pháp là sự lựa chọn cuối
cùng nếu các bên không thống nhất được với nhau.
3.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc pháp lý
cơ bản của luật pháp nước ta. Điều 52, Hiến pháp 1992 có ghi rõ mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật; còn quy định cụ thể đối với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế thì được ghi nhận tại Điều 22,
Hiến pháp 1992.
Các chủ thể khi tham gia quan hệ sản xuất kinh doanh đều được pháp luật
thừa nhận quyền bình đẳng. Bình đẳng trong kinh doanh nghĩa là mọi cá
nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, từ việc lựa chọn ngành
nghề, địa điểm kinh doanh, lựa chọn hình thức kinh doanh cho đến việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ trong quá trình sản xuất kinh doanh đều bình đẳng
theo quy định của pháp luật. Quyền bình đẳng không chỉ thể hiện khi các bên
tham gia vào quan hệ kinh doanh mà còn thể hiện khi họ tham gia vào quan
hệ tố tụng tại Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho các đương sự
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng (Điều 8,
BLTTDS 2004).
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
Có thể nói nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật có ý nghĩa quan trọng vì nó
không chỉ thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế mà còn góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Khi có tranh chấp xảy ra thì trước tòa án
sẽ không phân biệt các bên thuộc loại hình doanh nghiệp nào, thuộc thành
phần kinh tế gì; các bên đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật tố tụng. Với nguyên tắc này, các tổ chức, các nhân sẽ yên tâm và mạnh
dạn hơn trong đầu tư, sản xuất kinh doanh; từ đó khuyến khích, tạo động lực
thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; góp
phần không nhỏ tạo sự tăng trưởng kinh tế - xã hội.
3.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu
thập chứng cứ
Chứng minh và chứng cứ là yếu tố cốt lõi của pháp luật tố tụng; mọi hoạt
động tố tụng đều tập trung làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh bằng
việc thu thập và đánh giá chứng cứ. Về bản chất, chứng cứ là những thông
tin, tài liệu hay những gì có thật được cơ thu thập, kiểm tra và đánh giá theo
quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn các vụ án,
tranh chấp.
Nếu trong Tố tụng hình sự, khi có tội phạm xảy ra, việc thu thập chứng cứ
thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra hoặc các cơ quan, đơn vị khác có liên
quan theo quy định của pháp luật; thì trong Tố tụng dân sự nói chung và
trong Tố tụng án kinh doanh thương mại nói riêng thì khi cần khởi kiện ra
Tòa để giải quyết tranh chấp, các đương sự phải tự mình thu thập và cung cấp
chứng cứ, chuyển gia chứng cứ, tài liệu cho Tòa kinh tế.
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng
mình cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp (Điều 6, BLTTDS).
Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức khởi kiện, yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người khác thì cũng có quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và
chứng minh như đương sự. Quyền và nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng
cứ của đương sự được pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng trong Bộ luật dân
sự 2004 (Điều 58, 79, 80, 81). Trong trường hợp đương sự không cung cấp
được chứng cứ hoặc không đưa ra đầy đủ chứng cứ thì đương sự phải chịu
hậu quả về việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ. Cụ
thể, khi giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại, Tòa án chủ yếu chỉ căn
cứ vào những chứng cứ mà đương sự đưa ra; Tòa sẽ nghe các bên trình bày
và xác minh chứng cứ; các bên có quyền và nghĩa vụ trình bày những gì mà
họ cho là đúng và cần thiết. Nếu các chứng cứ cung cấp chưa đầy đủ hoặc
chưa chính xác, thì Tòa án sẽ yêu cầu đương sự thu thập thêm chứng cứ hoặc
xác minh sự chính xác đó. Tòa án không nhất thiết phải thu thập thêm chứng
cứ mà chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ khi thấy cần thiết để là rõ
thên yêu cầu của các bên, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
Như vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi xảy ra tranh
chấp, các đương sự cần tự mình thu thập đầy đủ các chứng cứ để xác nhận và
chứng minh cho yêu cầu của mình, phản đối yêu cầu của người khác là có
căn cứ hợp pháp.
Việc chứng minh và cung cấp đầy đủ chứng cứ của các đương sự góp phần
giúp cho hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án được nhanh chóng và
chính xác. Tuy nhiên, trong các vụ án kinh doanh, thương mại thì các đương
sự là những người tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chính vì thế
thời gian, có thể nói là một “vấn đề” của họ. Do đó, khi “vướng” vào một vụ
tranh chấp, liệu các đương sự có thời gian thu thập đầy đủ các bằng chứng
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
hay không là một điều cần quan tâm. Việc giải quyết án một cách nhanh
chóng và đúng đắn là cấp thiết không chỉ đối với các đương sự mà còn đối
với các cơ quan chức năng có liên quan. Nhận thấy rằng việc thu thập chứng
cứ có thể mất nhiều thời gian, chi phí của các đương sự; đó là chưa kể đến
việc có những chứng cứ mà đương sự không thể tự mình thu thập được, hoặc
áp dụng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ nhưng không có kết quả. Trong
những trường hợp như vậy, đương sự phải làm đơn yêu cầu Tòa án tiến hành
thu thập chứng cứ, trong đơn phải ghi rõ vấn đề cần chứng minh, chứng cứ
cần thu thập, lý do không thu thập được chứng cứ, tên cơ quan, tổ chức lưu
giữ chứng cứ đó.
Nguyên tắc này tạo cơ sở giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ tranh
chấp, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đương sự trong hoạt
động tố tụng dân sự, cụ thể là trong tố tụng án kinh doanh, thương mại. Đây
là một nguyên tắc đặc thù của tố tụng kinh doanh, thương mại, tạo điều kiện
cho các đương sự tham gia trong việc bảo vệ lợi ích của chính mình trước các
xâm hại.
3.4. Nguyên tắc hòa giải
Trong hoạt động thương mại ngày nay, vấn đề xảy ra tranh chấp là điều
không mong muốn của cả cá nhân, tổ chức tham gia kinh doanh và của cả xã
hội. Việc kiện nhau ra tòa do không giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột
một cách ổn thỏa sẽ không đem lại sự thuận lợi cho quá trình hoạt động, kinh
doanh của các bên, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế -
xã hội. Tranh chấp gây ra sự căng thẳng, mất đoàn kết, làm giảm uy tín của
các chủ thể trong môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, nguyên tắc hòa giải
theo quy định của pháp luật nước ta là một nguyên tắc quan trọng của pháp
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
luật tố tụng, xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự và trách nhiệm của
Tòa án trong việc bảo vệ quyền lợi của công dân; giúp các bên giải quyết
mâu thuẫn một cách ổn thỏa; góp phần hạn chế thiệt hại không đáng có do
hậu quả của các tranh chấp gây ra.
Hòa giải là sự thỏa thuận của các đương sự trong việc giải quyết vụ án. Việc
các đương sự thỏa thuận giải quyết tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng
luôn được Nhà nước khuyến khích; bởi vì, khi các đương sự thỏa thuận với
nhau về giải quyết vụ án không chỉ có nội dung tranh chấp mà mâu thuẫn của
các đương sự cũng được giải quyết triệt để, nhanh chóng, tiết kiệm nhất và
thường Nhà nước không phải sử dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thỏa
thuận đó. Hòa giải là quyền tố tụng của đương sự và chỉ có đương sự mới có
quyền hòa giải vì đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung nên có
quyền tự mình quyết định những vấn đề của vụ tranh chấp.
Do đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại là phản ánh về vấn đề
lợi ích kinh tế của chủ thể kinh doanh nên hòa giải là biện pháp được ưu tiên
áp dụng trước khi các bên tranh chấp phải nhờ tới cơ quan có thẩm quyền tài
phán. Đây là nguyên tắc được xây dựng trước tiên do yêu cầu của chính đơn
vị kinh doanh.
Theo nguyên tắc này, khi có tranh chấp kinh doanh, thương mại xảy ra, trước
hết các bên tự tiến hành hòa giải với nhau. Khi không tự hòa giải được, các
bên mới yêu cầu cơ quan tòa án can thiệp. Nhưng khi đã yêu cầu cơ quan tòa
án can thiệp, các đương sự vẫn có thể tiến hành hòa giải dưới sự hướng dẫn,
công nhận của Tòa án. Chỉ khi hòa giải không thành, Tòa án mới đưa vụ việc
ra xét xử. Hơn nữa, tại phiên tòa, thẩm phán cũng tạo điều kiện để cho các
bên tranh chấp hòa giải được với nhau ( Điều 10, BLTTDS). Khi hòa giải,
Tòa án phải tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận
không phù hợp với ý chí của mình. Ngoài ra, trong BLTTDS 2004 cũng quy
định những vụ án dân sự không được hòa giải và những vụ án dân sự không
tiến hành hòa giải được (Điều 181, 182 BLTTDS).
3.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, việc giải quyết tranh chấp không những
phải đảm bảo đúng pháp luật mà còn phải nhanh chóng, dứt điểm, tránh dây
dưa, kéo dài. Hoạt động kinh doanh, thương mại là một quá trình diễn ra liên
tục với mục đích sinh lời của người tham gia kinh doanh. Đối với các chủ thể
kinh doanh, dường như yếu tố thời gian có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong
công việc của họ; sự linh hoạt và năng động của môi trường kinh doanh
không cho phép họ lãng phí thời gian. Nhưng khi những tranh chấp ngoài ý
muốn phát sinh thì việc bỏ thời gian để giải quyết chúng để bảo vệ lợi ích của
mình là điều đương nhiên. Do đó, việc giải quyết các vụ án một cách đúng
đắn, nhanh chóng, kịp thời là mối quan tâm của hầu hết những người tham
gia kinh doanh, đặc biệt là các đương sự trong các vụ tranh chấp kinh doanh,
thương mại.
Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời được thể hiện trong một
số quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong tố tụng kinh doanh, thương mại
quy định thời gian tố tụng ngắn hơn so với các tố tụng dân sự khác; các quy
định rút ngắn thời hiệu, thời hạn; trong quá trình giải quyết vụ án, tòa không
cần thực hiện việc chứng minh và thu thập chứng cứ; hạn chế việc giao vụ án
cho tòa cấp dưới xét xử lại; hạn chế thấp nhất việc quay vòng vụ án để xét xử
lại nhiều lần …Việc quy định như vậy nhằm rút ngắn thời gian cho việc giải
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
quyết các tranh chấp, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ thể, phù hợp
với tính chất của hoạt động kinh doanh.
3.6. Nguyên tắc xét xử công khai
Xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động xét
xử. Điều 131, Hiến pháp 1992 có ghi rõ “ Tòa án nhân dân xét xử công khai,
trừ trường hợp do luật định”. Công khai là thuộc tính quan trọng của xã hội
dân chủ. Trong xã hội dân chủ, công khai được coi là tư tưởng xuyên suốt
quá trình tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, không phải vụ án
nào đưa xét xử công khai cũng đểu đem lại những tác động tích cực, đặc biệt
là trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đó, Điều 15, BLTTDS quy định
“Trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục của
dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân
theo yêu cầu chính đáng của đương sự”. Trong kinh doanh, thương mại, bí
mật kinh doanh có thể là những phát minh, sáng chế,… có ảnh hưởng đáng
kể đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Những bí mật kinh
doanh của doanh nghiệp là những điều không thể tiết lộ, không thể chia sẻ
cho tất cả các doanh nghiệp khác biết; nếu không sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hoạt động kinh doanh của chính doanh nghiệp, thậm chí là doanh nghiệp
bị phá sản. Do đó, các cá nhân, tổ chức có thể yêu cầu Tòa án xét xử kín để
cho các bí mật kinh doanh được đảm bảo.
Ngoài ra, nguyên tắc này tạo điều kiện cho nhân dân có thể giám sát hoạt
động của Tòa án, cơ quan điều tra; điều này sẽ làm cho các chủ thể tham gia
tố tụng nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình; đồng thời nó
mang ý nghĩa giáo dục mọi công dân trong việc chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật.
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
2.3. Chức năng và nhiệm vụ của Tòa Kinh tế
Tòa kinh tế là một tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân, được thành lập theo
lập theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức tòa án nhân dân
ngày 28/12/1993. Tòa kinh tế được tổ chức ở hai cấp. Ở trung ương, Tòa kinh
tế được thành lập trong Tòa án nhân dân tối cao; ở địa phương, Tòa kinh tế
chỉ được tổ chức ở cấp tỉnh.
2.3.1. Chức năng của Tòa Kinh tế
Tòa kinh tế thuộc cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án nhân dân ra đời đáp
ứng yêu cầu xây dựng thiết chế tài phán kinh tế trong nền kinh tế thị trường
và yêu cầu giải quyết nhiều loại tranh chấp khác nhau. Tòa kinh tế nói riêng
và Tòa án nhân dân nói chung đều là cơ quan xét xử của nhà nước, nằm trong
hệ thống cấu trúc, hoạt động từ nguồn kinh phí được cung cấp từ ngân sách
nhà nước. Tòa kinh tế nhân danh nhà nước giải quyết các vụ tranh chấp kinh
doanh, thương mại; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia kinh doanh. Theo quy định của pháp luật thì Tòa kinh tế có hai chức năng
cơ bản là chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại và chức năng
tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
• Chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại
Đây là chức năng cơ bản của tòa án nói chung được quy định tại Điều 127,
Hiến pháp năm 1992 “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Theo đó, pháp
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
luật nước ta khẳng định, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất có chức năng
xét xử nhân danh nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định
về chức năng của Tòa án được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân
được Quốc hội thông qua ngày 2 tháng 4 năm 2002. Theo đó, Tòa kinh tế
được gắn với chức năng giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Theo BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2005, Tòa kinh tế
không chỉ giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh tế mà còn giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận,
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh chấp giữa công ty với thành viên
công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập,
hoạt động, giải thể công ty, tranh chấp liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu,
tranh chấp trong hoạt động đầu tư Phạm vi giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại mở rộng hơn nhiều so với quy định của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án kinh tế.
Tòa kinh tế dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp. Các
quy định được áp dụng tuân thủ cả về mặt nội dung và mặt tố tụng để đảm
bảo tính hợp pháp và hợp lý cho quá trình xét xử. Kết thúc việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại sau các phiên tòa xét xử, Tòa kinh tế sẽ ra
bản án hoặc quyết định để giải quyết tranh chấp đó. Bản án hay quyết định
của Tòa kinh tế có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên chủ thể có liên
quan.
• Chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Phá sản là hiện tượng kinh tế khách quan trong nền kinh tế thị trường mà hậu
quả của nó là sự xung đột lợi ích của các bên tham gia quan hệ kinh doanh.
Phá sản không chỉ là xung đột lợi ích giữa doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
năng thanh toán với các chủ nợ của nó mà còn dẫn đến sự xung đột với lợi
ích tập thể của người lao động làm việc cho doanh nghiệp, hợp tác xã, đến lợi
ích chung của xã hội. Phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh
tế thị trường, để giải quyết hiện tượng này, cần có sự can thiệp của nhà nước
để hạn chế tác động tiêu cực của nó đến môi trường hoạt động kinh doanh
lành mạnh.
Ngoài chức năng xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại thì Tòa kinh tế
còn có chức năng tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Chức năng này được được
thừa nhận với sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp được Quốc hội thông
qua ngày 30 tháng 12 năm 1993, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm
1994. Hiện nay, để thực hiện chức năng này, Tòa kinh tế dựa vào các quy
định của Luật phá sản 2004 là chủ yếu và một số quy định khác liên quan của
pháp luật.
2.3.2. Nhiệm vụ của Tòa Kinh tế
Điều 1, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 2
tháng 4 năm 2002 có quy định cụ thể về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân nói
chung và Tòa kinh tế nói riêng. Theo đó, “ trong phạm vi chức năng của
mình, tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của nhà nước,
của tập thể; bảo về tính mạng, tài sản tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân”.
Ngoài ra, Tòa án nói chung có nhiệm vụ trong việc góp phần giáo dục, củng
cố việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những nguyên tắc của
Thực trạng giải quyết tranh chấp KD - TM tại Tòa Kinh tế - TAND tỉnh Quảng Nam
xã hội; nâng cao ý thức đấu tranh chống các vi phạm pháp luật của các doanh
nghiệp cũng như các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại.
2.4. Thẩm quyền của Tòa kinh tế trong việc giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại
Việc xác định đúng thẩm quyền của cơ quan giải quyết là điều cần thiết trong
hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng kinh doanh, thương mại nói riêng. Khi
có tranh chấp phát sinh, cần xác định rõ cơ quan nào có thẩm quyền giải
quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo việc giải quyết được đúng đắn,
chính xác và hợp pháp. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại của Tòa kinh tế là quyền hạn và nghĩa vụ của Tòa kinh tế trong
lĩnh vực giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại. Việc xác định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý,
chuẩn bị hồ sơ và giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại, cũng
như thi hành quyết định, bản án của Tòa kinh tế. Tòa cần phải cẩn trọng xem
xét cáo trạng, yêu cầu khởi kiện hoặc nội dung kháng cáo, kháng nghị, cân
nhắc thật kỹ các yêu cầu mới phát sinh trong quá trình giải quyết các tranh
chấp. Pháp luật đã quy định khá rõ phạm vi, giới hạn xét xử của Tòa; vì vậy
khi tham gia giải quyết các tranh chấp, Tòa cần phải thực hiện đầy đủ và
đúng thẩm quyền của mình, tránh trường hợp Tòa trốn tránh nhiệm vụ hay
Tòa xử “quá dài tay” dẫn đến hậu quả phải hủy bản án; gây tốn kém, lãng phí
thời gian, công sức, tiền bạc của cả cơ quan chức năng lân người tham gia tố
tụng. Đối với các vụ án mà sau khi thụ lý thì Tòa phát hiện không thuộc thẩm
quyền của mình thì Tòa phải chuyển vụ việc đó cho tòa án có thẩm quyền và
xóa sổ thụ lý (Điều 37, BLTTDS 2004). Theo quy định tại BLTTDS 2004 thì
thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa kinh tế