Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.69 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THỊ BAN

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Dung

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô cùng các bạn đã giúp tôi trong thời
gian học tập và nghiên cứu tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Đặc biệt, chi phép tôi gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới cô giáo – TS.
Nguyễn Thị Dung – giảng viên bộ môn pháp luật Thương mại, khoa Pháp luật
Kinh tế trường Đại học Luật Hà Nội, người đã tận tình, giúp đỡ, chỉ bảo tôi hoàn
thành luận văn thạc sĩ này.
Kính chúc các thầy cô mạnh khỏe, thành công trong sự nghiệp.



Học viên

Phạm Thị Ban


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

NQ

Nghị quyết

TW

Trung ương

BLDS

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

VKHXX

Viện khoa học xét xử

KDTM

Kinh doanh thương mại

QĐST

Quyết định sơ thẩm

QĐPT

Quyết định phúc thẩm

HĐTD

Hợp đồng tín dụng

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn



MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Những vấn đề chung về tranh chấp kinh doanh, thương

7

mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
nhân dân
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại

7

1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại

11

1.3. Bản chất và nguyên tắc của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương

14

mại tại Tòa án nhân dân
Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương

20


mại tại Tòa án nhân dân
2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa

20

án nhân dân
2.2. Một số quy định về thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp kinh doanh,

27

thương mại tại Tòa án nhân dân
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh,

34

thương mại tại Tòa án nhân dân và một số đánh giá
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải

52

quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân
3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật vào

52

giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại

55



3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,

58

thương mại
KẾT LUẬN

66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

67


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vấn đề nâng cao
hiệu quả xét xử của Toà án luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Chủ trương
này được thể hiện rất rõ trong Nghị quyết 08/NQ-TW, Nghị quyết 48/NQ-TW, và
được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 49/NQ-TW: “Xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục
vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Với
việc nền kinh tế nước ta bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế, các tranh chấp về
kinh doanh, thương mại đang diễn ra với chiều hướng gia tăng, nội dung tranh
chấp đa dạng, phức tạp. Nên các tranh chấp cần được giải quyết nhanh chóng, kịp

thời. Nhà nước luôn khuyến khích các chủ thể có mâu thuẫn tự giải quyết với nhau,
nếu không giải quyết được có thể thông qua trọng tài thương mại, việc giải quyết
bằng con đường Tòa án chỉ là giải pháp cuối cùng. Nhưng chính việc giải quyết
bằng con đường Tòa án mới chỉ có thể đảm bảo tối đa quyền lợi các bên, bởi chỉ có
Tòa án mới có được các công cụ bảo đảm cho các bên thực hiện nghĩa vụ của mình
thông qua các biện pháp cưỡng chế thi hành các phán quyết của tòa án.
Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có ý nghĩa
quan trọng đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như sự phát triển lành
mạnh của nền kinh tế. Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại hiệu quả,
công minh và đáng tin cậy là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng một môi
trường kinh doanh lành mạnh cho sự phát triển của nền kinh tế.
Từ năm 2005 trở lại đây, tòa án áp dụng chủ yếu là BLTTDS 2004, Luật
Thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2005 …cùng với những văn bản hướng dẫn
của ngành, và mới nhất là BLTTDS 2004 được sửa đổi, bổ sung một số điều có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Tuy nhiên, thực tiễn trong việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề vướng mắc cần


2

phải nghiên cứu do hệ thống các văn bản hướng dẫn còn thiếu đồng bộ, chậm được
ban hành, chưa phù hợp, chưa thống nhất dẫn đến cách hiểu không thống nhất và
việc vận dụng không đạt được tính thuyết phục. Điều đó làm cho hoạt động xét xử
của Tòa án mà ở đây là Tòa Kinh tế gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, dẫn đến tình
trạng có những vụ án kinh tế bị giải quyết kéo dài qua nhiều cấp giải quyết, hướng
dẫn của ngành không thống nhất, quan điểm giải quyết không thống nhất giữa các
cấp giải quyết dẫn đến tình trạng án bị sửa, bị hủy. Hậu quả là khi bản án có hiệu
lực thì bên buộc phải thi hành đã mất khả năng thanh toán hoặc tẩu tán hết tài sản
rồi tuyên bố phá sản….
Do đó, trong điều kiện hiện nay, nghiên cứu về giải quyết tranh chấp kinh

doanh, thương mại tại Tòa án sẽ có ý nghĩa về lý luận cũng như thực tiễn. Nhận
thức đúng vai trò của Tòa án, nắm vững các quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại và tìm ra những biện pháp thúc đẩy hình thức tài
phán này phát triển là một việc làm thiết thực góp phần hoàn thiện khung pháp luật
kinh tế. Pháp luật kinh tế không thể hoàn thiện nếu không có một chế định pháp
luật hoàn chỉnh về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn, yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ hội nhập.
Xuất phát từ những yêu cầu trên và với vị trí của một cán bộ ngành Tòa án,
tôi chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân
dân– Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động” để thực hiện luận văn
thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại luôn thu hút được sự quan tâm không chỉ giới
kinh doanh mà còn của giới nghiên cứu. Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại thông qua Tòa án không phải là một vấn đề mới lạ trong khoa học
pháp lý Việt Nam. Ngay từ đầu những năm 90 đã hình thành những đề tài nghiên
cứu của các cơ quan Nhà nước như: Trọng tài Kinh tế Nhà nước, Bộ Tư


3

pháp…Tiếp theo đó, nhiều cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật học (như Đại học
Luật, Khoa luật Đại học Quốc gia) đã cập nhật vấn đề này vào các giáo trình của
mình nhằm giới thiệu loại hình tài phán kinh tế. Đáng kể đến là đã có nhiều công
trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau và ở nhiều khía cạnh khác nhau, cả về
khía cạnh pháp lý, cả về cơ chế thực hiện. Ví dụ như khóa luận tốt nghiệp đại học
với đề tài “Pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án và thực tiễn áp dụng
của Lê Thị Huyền (2004), Giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong kinh doanh
thương mại tại Toà án - những vấn đề lý luận và thực tiễn của Bùi Thái Hà; luận

văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Vân Anh “Giải quyết tranh chấp công ty bằng
Tòa án ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ của Cung Mỹ Anh với đề tài “Giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Những vướng mắc và giải pháp khắc phục” (2008), đến luận án tiến sỹ: “Giải
quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam” của Đào
Văn Hội (2003)….
Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành về pháp luật cũng đã có không ít các
bài viết về loại đề tài này như: “Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế ở
Việt Nam” của TS Phan Chí Hiếu (2005), “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004” của Viên Thế Giang (2005)…
Nhìn chung, các công trình đã nhìn thấy sự cần thiết và giới thiệu khái quát về
loại hình tài phán Tòa án kinh tế ở Việt Nam. Các công trình đã đề cập đến thủ tục
tố tụng giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại dưới góc độ và những khía
cạnh khá chi tiết và đầy đủ. Tuy nhiên, những công trình được nghiên cứu cách đây
nhiều năm nên không tránh khỏi nhiều hạn chế, chưa có điều kiện để đánh giá một
cách đầy đủ, sâu sắc thực trạng việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
khi mà Việt nam đã là thành viên của WTO, sự ra đời của BLTTDS 2004 và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2004 (sau đây gọi là Luật sửa đổi, bổ
sung BLTTDS) có hiệu lực tháng 01 năm 2012, Luật Thương mại 2005…thì hầu


4

như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn tiếp tục đặt ra và có nhu cầu được giải quyết. Đó cũng chính là cơ hội để
luận văn này có thể góp phần đóng góp cho khoa học pháp lý hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Khi tiếp cận, nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề “Giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân– Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động”, người viết mạnh dạn phân tích đánh giá các quy định của pháp

luật và trên cơ sở tổng hợp các ý kiến khác nhau thì bàn về vấn đề này nhằm mục
đích chỉ ra những ưu điểm, cũng như những nhược điểm còn chưa phù hợp, những
vướng mắc khi áp dụng pháp luật vào giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại tại Tòa án. Thông qua quá trình nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn việc
giải quyết tranh chấp này tại Tòa án, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm định
hướng phát triển và khắc phục những điểm chưa phù hợp đó. Mong rằng qua việc
nghiên cứu, phân tích của đề tài góp phần làm sáng rõ hơn các quy định của pháp
luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.
Để luận văn đạt được những mục đích đã đề ra thì khi nghiên cứu phải thực
hiện những nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu những vấn đề những vấn đề lý luận về tranh
chấp kinh doanh, thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Thứ hai, đánh giá một cách toàn diện và khách quan thực trạng pháp luật và
áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
tại Tòa án.
Thứ ba, từ việc phân tích đánh giá trên đây luận văn sẽ chỉ ra các phương
hướng cụ thể, đề xuất các phương án giải quyết thích hợp nhằm góp phần giúp các
cơ quan chức năng tháo gỡ khó khăn nói chung, cũng như hoàn thiện các quy định
của pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân.


5

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài này chủ yếu tập trung vào việc phân tích đánh giá các quy định của
pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
nhân dân. Luận văn sẽ đi sâu vào phân tích thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại của Tòa án, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại qua số liệu thống kê các vụ án tranh chấp
thương mại được giải quyết tại Tòa án trong năm năm qua (từ 2007 đến 2011), để

từ đó thấy được những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp này tại Tòa án
thông qua các vụ án cụ thể trong thực tiễn. Qua đó đưa ra những đề xuất, phương
hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển kinh tế
về giải quyết tranh chấp để các quy định đó có thể đáp ứng yêu cầu giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại hiện nay.
Luận văn vận dụng các phương pháp luận của triết học Mác – Lê Nin, của Lý
luận Nhà nước và Pháp luật trong điều kiện thực tế hiện nay. Bên cạnh đó, luận
văn còn sử dụng các phương pháp như phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp,
khảo sát thực tiễn…để giải quyết vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Tác giả của luận văn với một mong muốn là công trình nghiên cứu có ít nhiều
gia trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn để làm tài liệu tham khảo cho các hoạt
động giảng dạy pháp lý cũng như tạo những gợi ý có giá trị cho các nhà lập pháp
hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Cụ thể luận văn có những đóng góp cho khoa học pháp lý như sau:


6

- Làm rõ được những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án nhân dân, về khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
và những đặc điểm, bản chất, nguyên tắc của tranh chấp này tại Tòa án.
- Hệ thống pháp luật nước ta có những bước tiến rõ rệt với sự ra đời của Luật
Thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, BLTTDS 2004 và đã được sửa đổi,
bổ sung một số điều năm 2011. BLTTDS là sự phát triển quan trọng của nền tư
pháp – thống nhất thủ tục tố tụng dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại. Để

tiếp tục cho sự phát triển trong tương lại, luận văn kịp thời tổng kết và nhìn nhận
những vấn đề thực tiễn nảy sinh khi áp dụng bộ luật này. Với sự phân tích những
quy định của pháp luật và thông qua các số liệu cụ thể, các ví dụ thực tiễn để đánh
giá thực trạng pháp luật và quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong
việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
- Căn cứ vào thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật, trên cơ sở nghiên cứu
các nhu cầu hoàn thiện pháp luật, luận văn có đưa ra một số kiến nghị, đề xuất,
phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại tại Tòa án Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tranh chấp kinh doanh, thương mại và giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng về giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án nhân dân.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án nhân dân


7

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1 Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Hiện nay, chúng ta được nghe đề cập đến nhiều khái niệm như: tranh chấp kinh
tế, tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh, thương mại. Mỗi khái niệm đều
có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Nhìn chung, chúng đều được hiểu là những xung đột,

bất đồng về lợi ích, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thương mại.
Ở góc độ ngôn ngữ phổ thông, “kinh doanh” là tổ chức, sản xuất, buôn bán sao
cho sinh lời”, “kinh tế” là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định, “thương mại” là thực hiện lưu thông hàng hóa bằng mua bán.
Theo cách hiểu này, nội hàm tranh chấp kinh tế rộng hơn, bao gồm cả tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Có thể bao quát tranh chấp kinh tế gồm các tranh
chấp kinh doanh, thương mại: Tranh chấp phát sinh trong các khoản đầu tư, sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích
sinh lợi, tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với quốc gia tiếp nhận đầu tư, tranh
chấp giữa quốc gia trong việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại song
phương và đa phương, tranh chấp giữa các quốc gia với các thiết chế kinh tế quốc
tế trong việc thực hiện điều ước quốc tế về thương mại đa phương. Kinh tế có sự
bao hàm yếu tố quản lý và yếu tố chính trị khác.
Ở góc độ pháp lý, hiện nay hầu hết quan điểm lại đồng nhất “tranh chấp kinh
tế” với “tranh chấp kinh doanh, thương mại”.
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban Luật Thương mại
quốc tế (UNCITRAL) đưa ra khái niệm “thương mại” với nội hàm rất rộng liên
quan đến tất cả các quan hệ mang bản chất thương mại. Xuất phát từ đó mà tranh


8

chấp thương mại cũng được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các tranh chấp
phát sinh từ các giao dịch thương mại.
Ở Việt Nam, quan niệm về tranh chấp kinh tế có những điểm khác nhau qua
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung,
nền kinh tế được quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chi
tiêu, kế hoạch do Nhà nước giao. Hợp đồng kinh tế thời kỳ này không chỉ là một
hình thức pháp lý để triển khai các hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị
kinh tế, mà còn được sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước. Do

vậy việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc chứ không
hoàn toàn từ lợi ích kinh tế của các bên tham gia hợp đồng. Vì vậy, trách nhiệm
thực hiện hợp đồng giữa các bên tham gia quan hệ với nhau bị coi nhẹ hơn so với
trách nhiệm của các bên đối với cơ quan chủ quản. Trách nhiệm phát sinh do vi
phạm hợp đồng kinh tế nhẹ về yếu tố vật chất mà nặng về tính chất hành chính.
Có thể nói trong giai đoạn này, các quan hệ kinh tế vốn khá đơn giản về nội
dung và thành phần chủ thể, lại được điều chỉnh bởi kinh tế Nhà nước. Vì vậy, các
tranh chấp kinh tế phát sinh không nhiều và chủ yếu là các tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa với nhau để
triển khai kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê duyệt từ trước. Các tranh
chấp kinh tế trong giai đoạn này không thể hiện rõ bản chất của tranh chấp kinh
doanh, thương mại, tranh chấp phát sinh do xung đột lợi ích của các bên và việc
giải quyết tranh chấp cũng không xuất phát từ quyền lợi thiết thực của các bên mà
chủ yếu vì sự ổn định, hài hòa chung cho cả nền kinh tế.
Trong quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế
giới, với việc nước ta trở thành thành viên thứ 150 của WTO năm 2007, ngày càng
xuất hiện nhiều hơn các chủ thể kinh doanh, bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước
và hợp tác xã, xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, các loại hình công ty và hộ kinh doanh cá thể. Các quan hệ kinh tế xuất hiện


9

ngày càng nhiều với hình thức phong phú và tính chất phức tạp. Trong điều kiện đó,
Nhà nước phải tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, để các quan hệ kinh tế
được xây dựng và thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình đẳng, cùng có lợi và
tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trong giai đoạn này, kinh
doanh đúng pháp luật để đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu của các doanh nghiệp. Môi
trường đó phát sinh ngày càng nhiều các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện

quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ kinh tế. Đồng thời cũng đặt
ra nhu cầu cần phải nghiên cứu, mở rộng nội hàm của khái niệm tranh chấp kinh tế.
Trong Luật Thương mại 2005 không đưa ra khái niệm về tranh chấp thương mại,
mà đưa ra khái niệm hoạt động thương mại là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hang hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).
Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại cũng đã được mở
rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của Luật
Thương mại 2005 cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã được mở rộng
tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 2005 “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi” (Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005)
Theo Điều 29 BLTTDS 2004 thì tranh chấp kinh doanh, thương mại được
hiểu là những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu rằng, tranh chấp kinh doanh, thương mại
theo quy định của BLTTDS 2004 thực chất là tranh chấp kinh tế đã được mở rộng
nội hàm cho phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế. Nội dung của tranh chấp kinh doanh, thương mại được liệt kê tại Điều 29
BLTTDS 2004, thực chất cũng là những tranh chấp thương mại theo hướng tiếp
cận của Luật Thương mại năm 2005. Tuy có nhiều quan điểm, nhiều cách hiểu


10

khác nhau và có sự thay đổi trong thuật ngữ pháp lý, nhưng thực tế đều nhìn nhận
những xung đột về lợi ích kinh tế trong quan hệ kinh doanh, thương mại là tranh
chấp kinh doanh, thương mại. Nhìn chung quan niệm về hoạt động thương mại và
tranh chấp kinh doanh, thương mại được thể hiện qua các quy định trong văn bản

pháp luật thời gian gần đây là khá nhất quán.
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp kinh doanh, thương mại
Mỗi loại tranh chấp đều mang những đặc điểm riêng, phụ thuộc vào tính chất
của mối quan hệ pháp luật vào chủ thể của các mối quan hệ đó cũng như lợi ích
của mối quan hệ đó mang lại. Tranh chấp kinh doanh, thương mại, dù là tranh chấp
hợp đồng kinh tế, tranh chấp trong nội bộ công ty hay các tranh chấp nào khác đều
mang những nét đặc trưng cơ bản sau đây:
- Về nội dung: Là những tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại như: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý,
ký gửi, thuê và cho thuê, thuê mua, xây dựng…Các tranh chấp kinh tế luôn gắn liền
với các hoạt động kinh tế, gắn liền với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ kinh tế.
- Về chủ thể: Các bên tranh chấp có đăng ký kinh doanh. Chủ thể trong tranh
chấp kinh doanh, thương mại chủ yếu là các thương nhân. Trong một số trường hợp
chủ thể của tranh chấp kinh doanh, thương mại còn có thể là các cá nhân, tổ chức
không phải là thương nhân. Ví dụ như tranh chấp giữa công ty và thành viên của công
ty là tranh chấp giữa một bên chủ thể là thương nhân (công ty) và một bên là cá nhân
không phải là thương nhân (thành viên công ty).
- Về cách thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là do các bên
tranh chấp tự định đoạt. Điều này thể hiện ở các bên trong tranh chấp có nhiều hơn
một cách để giải quyết tranh chấp như: hòa giải, thương lượng, trọng tài, tòa án.
Việc chọn phương pháp giải quyết nào là quyền của các bên nhưng vẫn trên cơ
sở tôn trọng lợi ích của nhau và lợi ích của Nhà nước.
- Về tính chất: Tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính tài sản. Tranh
chấp kinh doanh, thương mại là tranh chấp mang yếu tố vật chất và thường có giá


11

trị lớn. Các tranh chấp này đều chủ yếu tranh chấp về những lợi ích vật chất có ảnh
hưởng lớn và liên quan trực tiếp đến lợi ích khác của các bên. Mức độ tranh chấp

thường gay gắt, tính chất phức tạp do đó các tranh chấp kinh doanh, thương mại
nếu không được giải quyết thì không những sẽ để lại hậu quả xấu cho các bên
tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến các chủ thể khác, thậm chí ảnh hưởng đến nền
kinh tế cuả đất nước.
1.2. Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
Sự phát triển đa dạng của các tranh chấp kinh doanh, thương mại và yêu cầu
linh hoạt để giải quyết tranh chấp này là tất yếu khách quan hình thành sự đa dạng
về các hình thức, biện pháp để giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại. Theo
quy định của pháp luật hiện nay có các phương thức cơ bản thường được áp dụng:
1.2.1. Thương lượng
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò của
người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày
quan điểm, tìm ra các biện pháp thích hợp, trên cơ sở đó đi đến thống nhất để giải
quyết các bất đồng. Thương lượng là biện pháp khá phổ biến và thích hợp cho việc
giải quyết các tranh chấp. Đây là hình thức có tính chất đơn giản, ít tốn kém không
làm phương hại đến các quan hệ hợp tác vốn có của các bên, giữ được bí mật kinh
doanh lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý.
Thương lượng đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực và hợp tác, phải
có những kiến thức cần thiết về chuyên môn pháp luật. Đối với các vụ việc phức
tạp, mỗi bên có thể chỉ định những chuyên gia có trình độ chuyên môn và kinh
nghiệm nghề nghiệp thay mặt mình để tiến hành thương lượng. Kết quả của
thương lượng thường là những cam kết, thỏa thuận về những giải pháp cụ thể
nhằm tháo gỡ những bất đồng phát sinh trước đó.
Tuy nhiên, hình thức thương lượng cũng còn một số nhược điểm: Khó thực
hiện nếu các bên đã mâu thuẫn trong vấn đề tranh chấp và không có thiện chí. Giá


12

trị pháp lý của biên bản thương lượng chưa được quy định cụ thể và không có giá

trị cưỡng chế thi hành.
1.2.2. Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại có sự
tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định, đóng vai
trò trung gian nhằm hỗ trợ các bên tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc
giải quyết xung đột. Nếu hòa giải thành công sẽ đạt được giải pháp là tự thỏa thuận
giữa các bên để giải quyết tranh chấp. So với hình thức giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng, hòa giải có điểm khác là sự có mặt của bên thứ ba với tư cách là
người trung gian để giúp đỡ các bên tìm ra giải pháp. Giống như thương lượng,
hòa giải là một biện pháp mang tính truyền thống không phải chỉ mới xuất hiện
trong giai đoạn hiện nay mà đã được hình thành từ lâu đời. Mặc dù hòa giải cũng là
biện pháp mang tính hiệu quả và được nhà kinh doanh ưa chuộng để giải quyết
tranh chấp nhưng hạn chế là quá trình hòa giải các bên tranh chấp cũng không chịu
sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục
hòa giải. Kết quả hòa giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự
nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi
hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải.
1.2.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến và được nhiều nước
trên thế giới áp dụng. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là một hình thức giải
quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường và ngày càng được
các nhà kinh doanh ưa chuộng. Đó là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua
hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc
lập nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị
bắt buộc các bên phải thi hành.
Ưu điểm của phương thức này là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho
các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng


13


trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên
tắc xét xử không công khai hoặc xử kín. Theo nguyên tắc này các bên có thể giữ
được bí mật kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết trọng tài
không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm
trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính
chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên không có
quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào.
Nhược điểm của việc giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí
tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao. Việc thi
hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi
hành bản án, quyết định của Tòa án.
1.2.4. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án
Việc đưa tranh chấp ra xét xử tại Tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có
những nhược điểm nhất định. Ưu điểm của hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua Tòa án là: Do là cơ quan xét xử của Nhà nước nên phán quyết của Tòa án có
tính cưỡng chế cao. Nếu không chấp hành sẽ bị cưỡng chế, do đó khi đã đưa ra
Tòa án thì quyền lợi của người thắng kiện sẽ được đảm bảo nếu như bên thua
kiện có tài sản để thi hành án. So với phương thức giải quyết tranh chấp bằng con
đường trọng tài thì việc giải quyết tranh chấp tại Toà án đã bộc lộ nhiều ưu thế
hơn hẳn về trình tự tố tụng chặt chẽ, tính khả thi của hiệu lực phán quyết. Tuy
nhiên, nhược điểm của phương thức này là thủ tục tại Tòa án thiếu linh hoạt do
đã được pháp luật quy định trước đó. Bên cạnh đó, nguyên tắc xét xử công khai
của Tòa án tuy là nguyên tắc được xem là tiến bộ, mang tính răn đe nhưng đôi khi
lại là cản trở đối với doanh nhân khi những bí mật kinh doanh bị tiết lộ, thủ tục
giải quyết phức tạp dài, chi phí cao.
Có thể nói rằng, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh,
thương mại đều có những đặc điểm và hạn chế nhất định, chỉ có các đương sự và



14

các luật sư của họ mới hiểu rõ họ cần đến hình thức giải quyết tranh chấp nào trong
những vụ việc cụ thể. Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
hiện nay ở các nước trên thế giới như Anh – Mỹ, Đức, Pháp… thì các hình thức
như thương lượng, hòa giải, trọng tài chiếm ưu thế, còn ở Việt Nam thì việc giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường Tòa án đóng vai trò
quan trọng nhất, được các chủ thể tranh chấp lựa chọn.
1.3. Bản chất và nguyên tắc của giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án nhân dân
1.3.1. Bản chất của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
nhân dân
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là việc các bên tranh chấp
thông qua hình thức, thủ tục thích hợp tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những
mâu thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của họ.
Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án là hình thức giải
quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực
Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải chấp hành, kể cả bằng sức mạnh
cưỡng chế.
- Việc giải quyết tranh chấp của Toà án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng.
- Toà án giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc xét xử công khai.
Xét xử công khai là nguyên tắc đặc thù trong hoạt động của tòa án, xuất phát
từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ công lý, lẽ công bằng được Nhà nước ghi
nhận bằng pháp luật, xã hội thừa nhận bằng sự tự nguyện, tuân thủ vô điều kiện.
Nguyên tắc xét xử công khai của Tòa án có tác dụng giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật của người dân và răn đe, cảnh báo những hành vi vi phạm pháp luật.
- Việc giải quyết tranh chấp thông qua quyết định của Toà án có thể qua nhiều

cấp độ xét xử. Hoạt động xét xử của Tòa án thông qua hai cấp xét xử: sơ thẩm, phúc


15

thẩm. Trong một số trường hợp cụ thể, các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật còn có thể xét xử theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Nguyên tắc
nhiều cấp xét xử đảm bảo cho quyết định của Toà án được chính xác, công khai,
khách quan và đúng pháp luật. Việc có nhiều cấp xét xử với những Hội đồng xét xử
khác nhau là nhằm loại trừ sự thiên vị, thiếu khách quan của những người tham gia
xét xử và tạo điều kiện cho các đương sự có đủ thời gian, cơ hội chuẩn bị hồ sơ,
chứng cứ, bổ sung chứng cứ vào bất kỳ giai đoạn tố tụng nào. Tuy nhiên, nguyên tắc
nhiều cấp xét xử cũng bộc lộ hạn chế là vụ việc có thể bị xem xét kéo dài, xử đi xử
lại nhiều lần gây bất lợi cho các đương sự, nhất là các doanh nghiệp tham gia hoạt
động kinh tế.
- Các phán quyết của Toà án được bảo đảm thi hành bằnh sức mạnh cưỡng
chế của Nhà nước.
- Toà án giải quyết các tranh chấp theo nguyên tắc xét xử tập thể và theo
nguyên tắc đa số.
Việc Tòa án xét xử các tranh chấp kinh doanh, thương mại góp phần ổn định
các quan hệ kinh tế thị trường mà còn tác động tích cực vào các quan hệ đó, đảm
bảo cho các quan hệ kinh tế này tồn tại và phát triển phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế chung của đất nước. Khi Tòa án đưa ra một phán quyết giải quyết
tranh chấp, có nghĩa là Nhà nước đã gián tiếp tuyên bố lợi ích hợp pháp, quyền
bình đẳng và tự do kinh doanh theo pháp luật của các tổ chức, cá nhân được Nhà
nước tôn trọng và bảo vệ. Các quan hệ kinh tế diễn ra trong khuôn khổ pháp luật,
luôn được sự bảo hộ về mặt pháp lý từ phía Nhà nước.
1.3.2. Nguyên tắc của giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án nhân dân
Trong kinh doanh, giữa các cá nhân, đơn vị kinh doanh luôn phải có sự liên kết

với nhau để cùng nhau mang lại lợi nhuận. Thông thường cá nhân, đơn vị kinh doanh
ký kết với nhau hợp đồng kinh tế nhằm xác định quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh,
thương mại. Theo quy định pháp luật thì các bên phải thực hiện đúng và đủ các nghĩa


16

vụ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh, thương mại khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện
hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần được giải quyết kịp
thời, đúng đắn. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng phải
tuân thủ những nguyên tắc đặc trưng riêng như: Nguyên tắc đảm bảo quyền tự định
đoạt của đương sự, Nguyên tắc hòa giải, Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng
minh, Nguyên tắc giải quyết nhanh chóng, kịp thời, Nguyên tắc trách nhiệm của cơ
quan, người tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, còn có một số nguyên tắc chung thể hiện
tính dân chủ và pháp chế XHCN như: Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ,
nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng, nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật…
Trong luận văn này, tác giả không trình bày toàn bộ các nguyên tắc của tố
tụng kinh tế mà chỉ xin trình bày các nguyên tắc đặc trưng của quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường tòa án.
a. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS, nguyên tắc quyền quyết định và tự định
đoạt của đương sự được quy định như sau:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm
quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu đó.

2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Về nguyên tắc các quan hệ kinh tế là những quan hệ được xác lập một cách tự
nguyện, xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà không có bất cứ sự cưỡng


17

ép, đe dọa nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Nói cách khác, sự xác lập các quan hệ
kinh tế hoàn toàn do các bên tự quyết định, và được Nhà nước bảo đảm nếu không trái
với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội . Chính vì thế, khi phát sinh tranh
chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình; nhưng ngược lại, họ cũng có quyền từ bỏ quyền lợi của mình đã bị xâm phạm
cho dù đã có yêu cầu Nhà nước bảo vệ. Nhà nước không can thiệp vào các hoạt động
kinh doanh đúng pháp luật. Nhà nước chỉ tham gia giải quyết khi các đương sự có yêu
cầu. Cơ quan tài phán không tự đưa các tranh chấp kinh doanh, thương mại của các bên
ra xét xử, mà phải có đơn khởi kiện của một trong các bên tranh chấp.
Đương sự có quyền tự hòa giải ở tòa án, quyền rút đơn kiện, quyền thay đổi
nội dung đơn kiện, quyền tự do lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp
khác nhau. Nguyên tắc này được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố
tụng: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc,
các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận
với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực
hiện quyền này của đương sự không chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ
thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá
trình thi hành bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Quyền tự định đoạt còn được thể hiện các bên có thể ủy quyền cho luật sư
hoặc người khác thay mặt mình mà không cần trực tiếp phải tham gia tố tụng.
b. Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền
Để đảm bảo cho đương sự thực hiện được nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng
minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ và Tòa án có đầy đủ chứng cứ để
giải quyết nhanh chóng và đúng đắn thì phải quy định trách nhiệm của các cá nhân,
cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ cho đương sự và tòa án. Vì vậy,
Điều 7 BLTTDS đã quy định rất rõ về nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.


18

Hiện nay, khoản 1 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS có sửa đổi, bổ sung
Điều 7 BLTTDS như sau: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự, Tòa án,
Viện kiểm sát tài liệu, chứng cứ mà mình đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của
đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
cung cấp tài liệu, chứng cứ đó, trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông
báo bằng văn bản cho đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát biết và nêu rõ lý do của việc
không cung cấp được tài liệu, chứng cứ”. Sửa đổi, bổ sung như trên của Luật sửa đổi,
bổ sung BLTTDS chủ yếu là bổ sung chủ thể “Viện kiểm sát” để phù hợp với việc
sửa đổi, bổ sung nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
c. Nguyên tắc hòa giải
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng kinh tế được quy định tại Điều 10 BLTTDS
2004, theo đó: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận
lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy
định của Bộ luật này”.
Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự
định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan
hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một biện
pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc. Hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng,

được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ giữa các
bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết các tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại. Đồng thời làm tốt hòa giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền
bạc, thời gian của Nhà nước, công sức của cán bộ Nhà nước cũng như của công dân,
hạn chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS cũng quy định cụ
thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi
chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa, trừ những vụ án không được
hòa giải như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước, hoặc những
vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.


19

Việc hòa giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các vụ án kinh tế. Việc hòa
giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Xu hướng chung của các
Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ đúng sai giữa các doanh nghiệp; chưa hoặc
chưa biết quan tâm đúng mức đến vấn đề mà các đương sự hướng tới là lợi nhuận
(nhiều hay ít nhưng phải có lợi) đó là điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân
nhượng hợp tác trong kinh doanh của các bên đương sự. Tòa án chỉ đưa vụ án ra
xét xử khi hòa giải không thành.
d. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Về nguyên tắc khi giải quyết các vụ việc thương mại phải nhanh chóng, kịp
thời đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm. Trong BLTTDS quy định cụ
thể thời hạn ở các giai đoạn tố tụng, như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng
cứ và đưa vụ việc ra xét xử, thời hạn phát hành quyết định, bản án, thời hạn kháng
cáo, khiếu nại và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm... Phần lớn Toà
án các cấp đều giải quyết vụ việc trong thời hạn luật định.
Để thực hiện được nguyên tắc này, bản thân tòa án phải được tổ chức và hoạt
động sao cho có hiệu quả, đặc biệt là trình độ của Thẩm phán được nâng cao không chỉ
trong lĩnh vực pháp luật nói chung mà còn cả trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại.

đ. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng
Đây là nguyên tắc quan trọng để nâng cao chất lượng xét xử. BLTTDS ra đời
đã có những quy định rõ ràng về nguyên tắc này, tạo cơ chế phân định trách nhiệm
cá nhân Thẩm phán, Thư ký và những người tiến hành tố tụng khác.
Trên đây là những nguyên tắc chỉ đạo chi phối hoạt động tố tụng của Tòa án
kinh tế trong các giai đoạn tiến hành tố tụng, đảm bảo xét xử được thống nhất từ
trên xuống dưới đáp ứng được các yêu cầu của việc xét xử các vụ án kinh tế ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc tuân thủ các nguyên tắc giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại đóng vai trò quan trọng, nó là cơ sở để tòa án giải
quyết tranh chấp khách quan, công bằng, đúng pháp luật và đảm bảo pháp chế.


20

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
2.1. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án
nhân dân
Theo quy định của pháp luật, thẩm quyền của Toà án về giải quyết các tranh
chấp kinh doanh, thương mại được pháp luật phân định theo cấp toà án, theo lãnh
thổ và theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
2.1.1. Thẩm quyền theo cấp Toà án
Theo Điều 33 Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS, Toà án nhân dân cấp huyện có
thẩm quyền sơ thẩm các tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định khoản 1
Điều 29 BLTTDS năm 2004: “1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều
có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;

c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội
địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;


×