Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC KHOA HOC VA CONG NGHE LUC LUONG SAN XUAT MOI TRONG THOI KY HIEN DAI HOA DAT NUOC HIEN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.38 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

   

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Tên đề tài:

KHOA HỌC – CÔNG NGHỆ - LỰC LƯỢNG
SẢN XUẤT MỚI TRONG SỰ NGHIỆP CƠNG
NGHIỆP HĨA – HIỆN ĐẠI HĨA HIỆN NAY


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài ………......................................................................... 2
II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu……….............................................. 3
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn………............................................................. 4
1. Nội dung của Khoa học - Công nghệ - Lực lượng sản xuất mới ……... 4
2. Vai trò của Khoa học - Công nghệ - Lực lượng sản xuất mới……….... 5
3. Tính tất yếu phải tiến hành Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta 6
II. Thực trạng và giải pháp………............................................................... 9
1. Thực trạng………................................................................................... 9
2. Một số giải pháp………........................................................................ 20
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA GIẢNG VIÊN

2



A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Năm 1963, tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên Hiệp Quốc đã đưa
ra định nghĩa về cơng nghiệp hóa là: “Cơng nghiệp hóa là một q trình phát
triển kinh tế”; cơng nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa và là hai q
trình nối tiếp, đan xen lẫn nhau; cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình
trang bị cơng nghiệp hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế, nhất là các ngành
chiếm vị trí trọng yếu.
Lịch sử cơng nghiệp hóa trên thế giới cho thấy rằng, q trình cơng
nghiệp hóa gắn liền với cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ. Đến
giữa thế kỉ XX, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại lại tạo ra
những bước đột phá mới trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, đem lại
tính chất hiện đại cho các tư liệu sản xuất, cho kĩ thuật, trình độ tổ chức và
quản lí tiên tiến,… Đó là những yếu tố cấu thành nội dung công nghiệp mà sự
phát triển của nó là vấn đề cốt lõi của Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
Kế thừa kinh nghiệm phát triển từ các nước trên thế giới và rút kinh
nghiệm từ quá trình xây dựng đất nước, Đảng ta đã khẳng định: “Cơng nghiệp
hóa - Hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, tồn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao”(1).
So với các nước trong khu vực có cùng điểm xuất phát tương tự như
nước ta thì chúng ta đang ở tình trạng tụt hậu xa hơn. Vì vậy, chúng ta cần tiến
(1)

Văn kiện hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII


3


hành “cơng nghiệp hóa đuổi kịp”. Cơng nghiệp hóa đi đơi với hiện đại hóa kết
hợp những bước tiến tuần tự về khoa học – công nghệ và lực lượng sản xuất
mới.
Nước ta là một đất nước đang phát triển, cịn nghèo nàn, lạc hậu, việc
thực hiện Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa là một điều khơng hề đơn giản và
dễ dàng. Chúng ta cần nghiên cứu về vấn đề này một cách chính xác và để đề
ra giải pháp hợp lí, góp phần đưa sự nghiệp Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay ngày càng đi lên, đi đúng hướng, phù hợp với sự phát triển
trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy em quyết định chọn đề tài “Khoa học –
Công nghệ - Lực lượng sản xuất mới trong sự nghiệp Công nghiệp hóa –
Hiện đại hóa hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo – TS. Nguyễn Thị Ngọc Thùy – đã nhiệt
tình giảng dạy và hướng dẫn em hoàn thành tốt bài tiểu luận này! Trong q
trình thực hiện có gì sơ sót mong cơ góp ý, sửa chữa để các đề tài nghiên cứu
tiếp theo của em sẽ hoàn thiện hơn.
II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục tiêu là làm rõ vai trò của Khoa học – Công nghệ - Lực lượng sản
xuất mới trong sự nghiệp Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay, thực trạng
và giải pháp.
Để hồn thành những mục tiêu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu và
giải quyết những các nội dung chủ yếu sau:
- Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của Khoa học – Công nghệ - Lực
lượng sản xuất mới trong sự nghiệp Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay.
- Thực trạng và giải pháp của sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay.

4



B. NỘI DUNG CHÍNH
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Nội dung của khoa học - công nghệ - lực lượng sản xuất mới
Hiện nay cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ có nhiều nội dung
phong phú, trong đó cụ thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
- Cách mạng về phương pháp sản xuất: đó là tự động hóa. Sử dụng ngày
càng nhiều máy tự động q trình, máy cơng cụ điều khiển bằng số, robot và
cũng bao gồm cả việc sử dụng rộng rãi người máy thay thế con người trong
quá trình vận hành sản xuất.
- Cách mạng về năng lượng: bên cạnh những năng lượng truyền thống
mà con người sử dụng trước kia như nhiệt điện, thuỷ điện thì ngày nay con
người đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử và các dạng
năng lượng sạch như năng lượng mặt trời.
- Cách mạng về vật liệu mới: ngày nay ngoài việc sử dụng các vật liệu
tự nhiên, con người ngày càng tạo ra nhiều vật liệu mới với nhiều chủng loại
rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên khơng có
được, như: composit, zincon, cacbuasilic,… Nhiều vật liệu nhân tạo mới thay
thế có hiệu quả cho các vật tự nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu
hướng ngày càng cạn dần .
- Cách mạng về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kĩ thuật gen,
công nghệ tế bào,… các thành tựu của cuộc cách mạng này đang được áp
dụng rộng rãi trong lĩnh vực cơng nghiệp, nơng nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ
môi trường sinh thái.

5


- Cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài người

đang đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử, diễn
ra theo bốn hướng: nhanh, nhỏ, trí tuệ nhân tạo, viễn tin học.
Khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó khơng chỉ
là các phương tiện, thiết bị do con người sáng tạo ra mà cịn là các bí quyết
biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Khoa học đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp do con người tạo ra.
Khái niệm lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành
nội dung vật chất, kỹ thuật, cơng nghệ,... của q trình sản xuất, tạo thành
năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu
đời sống của bản thân. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai
trị phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Các yếu tố tạo thành lực lượng sản xuất gồm có: tư liệu sản xuất (trong
đó, cơng cụ lao động là yếu tố phản ánh rõ ràng nhất trình độ chinh phục tự
nhiên của con người) và người lao động (trong đó năng lực sáng tạo là yếu tố
đặc biệt quan trọng). Trong hai nhóm yếu tố nói trên, người lao động là chủ
thể, là lực lượng sản xuất cơ bản, quyết định sự phát triển của xã hội như V.I.
Lênin đã nhận định: "lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là
cơng nhân, là người lao động".
Như vậy đề cập đến lực lượng sản xuất mới chính là đề cập đến những
con người lao động có tri thức, có sáng tạo, có sức khỏe, có năng lực phát
triển khoa học – cơng nghệ và biết ứng dụng thành thạo các thành tựu của
khoa học – công nghệ vào trong thực tiễn sản xuất.
2. Vai trị của khoa học - cơng nghệ - lực lượng sản xuất mới trong
sự nghiệp Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa hiện nay
Trong thời đại ngày nay, có lẽ khơng cịn ai khơng nhận thức được rằng
khoa học và cơng nghệ có vai trị rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát
6


triển. Khoa học là “văn hố biết”, cịn cơng nghệ là “văn hóa làm”. Chính vì

vậy, khoa học và cơng nghệ là cái không thể thiếu được trong đời sống kinh tế
– văn hố của một quốc gia. Vai trị này của khoa học và công nghệ càng trở
nên đặc biệt quan trọng đối với nước ta đang trên con đường rút ngắn giai
đoạn phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại.
Con người muốn tồn tại thì cần phải có những yếu tố cơ bản như: ăn,
uống, chỗ ở, giải trí,… muốn vậy con người cần sản xuất ra vật chất. Muốn
sản xuất ra của cải vật chất thì yếu tố cơ bản và tiền đề quan trọng chính là lực
lượng sản xuất. Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát
triển của mọi mặt đời sống, quyết định sự phát triển của xã hội. Do đó, lực
lượng sản xuất trở nên ý nghĩa và quan trọng, góp phần vào việc hình thành
nên một chế độ xã hội mới.
Đất nước muốn phát triển, luôn cần đến một hệ thống các nguồn lực
khác nhau, như: tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn lao động,… Trong
đó, con người là một nguồn tài nguyên quý giá nhất. Đặc biệt trong điều kiện
cách mạng khoa học và cơng nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ con
người được xem như một nguồn tài nguyên vô hạn, đồng thời lao động trí tuệ
của con người có ảnh hưởng quyết định đối với năng suất, chất lượng lao
động. Do vậy, nhân tố con người - lực lượng sản xuất mới - trở thành nguồn
lực nội sinh quan trọng nhất và có vai trị quyết định đến sự nghiệp Cơng
nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
3. Tính tất yếu phải tiến hành Cơng nghiệp hố – Hiện đại hố ở
nước ta
Xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế đã tạo ra sự trao đổi giữa các nền kinh
tế, sự chuyển giao công nghệ của các nước trên thế giới với nhau, điều này đã
buộc chúng ta phải đẩy nhanh việc thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để
chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của
7


nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào q trình cơng nghiệp

hóa, hiện đại hóa nước ta nhằm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào tình
trạng “bãi rác cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nghiệp” của thế giới, dẫn đến
cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước ngoài…v.v.
Đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng
định: Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là xu
hướng phát triển chung của tồn thế giới. Trình độ cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa biểu hiện trình độ phát triển của xã hội. Vì vậy mà Đảng ta đã coi q
trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa là “nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát
khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ “tụt hậu” xa hơn so với các nước khu vực.
Cách mạng khoa học - công nghệ đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các
nước phát triển. Tuy nhiên, nó khơng chỉ hạn chế trong ranh giới của các nước
phát triển mà ảnh hưởng của nó đang lan ra tất cả các nước trên thế giới . Có
thể nói cách mạng khoa học - cơng nghệ là một hiện tượng tồn cầu, hiện
tượng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả dân tộc và các quốc gia trên
trái đất. Nhưng, mỗi nước tiến hành cuộc cách mạng này trong những điều
kiện riêng của đất nước mình cho nên cách mạng khoa học - công nghệ ở
những nước khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc điểm khác
nhau. Do đó, khi xem xét cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ ở nước ta cần
phải đặt nó trong bối cảnh chung của cách mạng khoa học - công nghệ trên thế
giới.
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử
dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại,
muốn tiến hành cuộc cách mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và
kỹ thuật để đưa đất nước ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện
vọng đó là hồn tồn chính đáng.
8


Mục tiêu của cơng nghiệp hố, hiện đại hố là đến năm 2020 về cơ bản

nước ta trở thành nước cơng nghiệp, cơng nghiệp hố phải gắn liền với hiện
đại hố. Khác với các nước đi đầu, cơng nghiệp hố ở nước ta đòi hỏi phải
thực hiện rút ngắn. Chỉ có như thế, chúng ta mới có thể sớm rút ngắn được
khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước phát triển. Muốn phát triển nhanh
theo cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học - công
nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta khơng chỉ
bắt nguồn từ địi hỏi bức xúc của q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố và q trình phát triển kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hướng tổ chức nền kinh
tế - xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa
trên nguyên tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hướng này khơng chỉ
địi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao mà cịn địi hỏi phải xây dựng một
xã hội cơng bằng, dân chủ và văn minh. Ở đó, phát triển con người và phát
triển xã hội bền vững được coi là trung tâm. Muốn đạt tới đó, chúng ta phải có
nỗ lực và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của
nhân loại, tránh những sai lầm mà các nước khác đã vấp phải. Nếu không đủ
trình độ trí tuệ, khơng đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành cơng. Do vậy,
đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ - lực lượng sản xuất mới càng trở
nên rất quan trọng và bức thiết.

9


III. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
1. Thực trạng
a) Thành tựu
Khoa học - công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trị quan trọng
trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những thành tựu của khoa

học, công nghệ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu sản xuất,
trước hết là cải biến những công cụ lao động cả trong tất cả các lĩnh vực kinh
tế. Trong thời gian qua, với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập
quốc tế về khoa học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh
mẽ. Những công cụ lao động giản đơn mang tính chất tiểu thủ cơng nghiệp đã
được thay thế bằng những dây chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức
lao động của con người được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế
bởi lao động trí óc, lao động giản đơn dần được thay thế bằng sự chun mơn
hóa ngày càng cao. Những sự thay đổi lớn lao của công cụ sản xuất đã làm
cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khối lượng sản phẩm làm ra ngày càng
nhiều và có chất lượng cao. Cũng nhờ sự phát triển của công cụ sản xuất, nền
kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch lớn mạnh về cơ cấu kinh tế. Trong
những năm gần đây, tỉ trọng đóng góp của các ngành cơng nghiệp, xây dựng
và dịch vụ có xu hướng tăng mạnh hơn so với các ngành nông nghiệp. Từ một
nước thuần nông, Việt Nam đã xây dựng được nhiều nhà máy, xí nghiệp có
những dây chuyền cơng nghệ tiến tiến; nhiều khu chế xuất công nghệ cao. Tuy
nhiên, so với nhiều quốc gia khác trên khu vực và trên thế giới, là một nước đi
sau nên nhìn chung nền sản xuất cơng nghiệp của Việt Nam vẫn cịn nhiều hạn
chế, những ngành cơng nghiệp chế tạo chưa thực sự phát triển, mới phát triển
những ngành công nghiệp lắp ráp theo dây chuyền công nghệ của nước ngồi,
mức độ hiện đại hóa trong các ngành công nghiệp chưa đồng đều giữa các
10


ngành và giữa các địa phương trong cả nước, tính cạnh tranh của các mặt hàng
sản xuất cơng nghiệp nhìn chung cịn thấp nên giá thành khơng cao, nhất là
những ngành vốn là thế mạnh của nước ta như dệt may, da giày, khống sản…
Theo cơng bố Báo cáo về Xếp hạng Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm
2017, Việt Nam được xếp hạng 47 trên 127 quốc gia và nền kinh tế, tăng 12 vị
trí so với năm 2016. Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam từng đạt được từ

trước tới nay. Trong nhóm các nước thu nhập trung bình thấp (gồm 27 nước),
Việt Nam đã vươn lên xếp thứ nhất (từ vị trí số 3 năm 2016). Trong ASEAN,
Việt Nam đã đứng thứ ba, sau Singapore và Malaysia, trên Thái Lan. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản
xuất cịn nhiều hạn chế. Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa và tin học hóa của
nhiều ngành kinh tế nhìn chung cịn nhiều hạn chế. Trong khi các nước trong
khu vực đều có tỷ trọng đầu tư cao cho khoa học, cơng nghệ trong sản xuất thì
mức đầu tư của Việt Nam còn khá khiêm tốn: từ năm 2006 - 2016, tỷ lệ đầu tư
cho khoa học, công nghệ mới chỉ chiếm khoảng 0,6% GDP. Bởi vậy, qua hơn
40 năm đổi mới, nền công nghiệp Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở trình độ gia
cơng hoặc nhập thiết bị máy móc của nước ngồi về để lắp ráp.
Ngoài việc ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ hiện
đại vào sản xuất, cải tiến công cụ lao động và mở rộng đối tượng lao động; các
phương tiện lao động của nước ta cũng có những bước phát triển đáng kể.
Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua sự phát triển của kết cấu hạ tầng phục
vụ cho sản xuất. Kết cấu hạ tầng chính là cái “cốt vật chất” của các lĩnh vực
kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ
tầng không chỉ giúp cho việc lưu thơng hàng hóa, hiện đại hóa q trình sản
xuất mà cịn là động lực thúc đẩy q trình sản xuất phát triển. Hiện nay, ở
nước ta đã hình thành được hầu hết các trục đường bộ từ Bắc đến Nam, từ
Đông sang Tây, không chỉ nối liền các vùng kinh tế trong cả nước mà còn đảm
11


bảo thông thương với các nước láng giềng. Đặc biệt, trong những năm gần
đây, nhiều tuyến đường cao tốc từ các tỉnh, thành phố trung tâm đã được xây
dựng như Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh Vũng Tàu, Đà Nẵng - Dung Quất... làm giảm đáng kể thời gian vận chuyển,
lưu thơng hàng hóa từ 30-50%. Hơn nữa, nhiều cây cầu đã được xây dựng như
cầu Cần Thơ, cầu Nhật Tân, cầu Thanh Trì... góp phần quan trọng trong việc
hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Về giao thơng đường biển, nước ta có 49

cảng biển, 166 bến cảng, 350 cầu cảng, năng lực thông quan khoảng 350 - 370
triệu tấn/năm. Đặc biệt, quá trình vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa cũng đã được
hiện đại hóa đáng kể bằng việc thay thế sức lao động của con người thành
những máy móc, cẩu nâng tự động hóa. Về giao thơng đường không, Việt
Nam đang đưa vào khai thác 21 sân bay, trong đó có 10 cảng hàng khơng quốc
tế, số lượng hành khách tăng mạnh từ 4,9 triệu khách năm 2000 lên đến 56,8
triệu khách năm 2014. Về giao thông đường sắt, mạng lưới đường sắt của
nước ta có tổng chiều dài là 3.143 km, trong đó có 2.531 km tuyến chính, 612
km đường nhánh và đường ga. Giao thơng đường sắt nước ta góp phần quan
trọng trong việc vận chuyển hành khách và hàng hóa từ thủ độ Hà Nội đến các
vùng trong cả nước.
Tính đến năm 2017, Việt Nam có dân số trên 94 triệu người, đứng thứ
14 thế giới. Dân số phân bố không đều giữa các vùng miền trong cả nước và
có sự khác biệt lớn về trình độ theo vùng, có 34,70% dân số sống ở thành thị.
(1)

Hiện nay, Việt Nam là nước có cơ cấu dân số trẻ, đang ở thời kỳ dân số
vàng; Theo số liệu thống kê năm 2015, trong tổng số 53,7 triệu người từ 15
tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của nước ta, có 9,99 triệu người đã qua
đào tạo, chiếm 18,6% trong tổng số lao động trên cả nước, trong đó ở thành
(1)Nguồn: < >

12


thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nơng thơn là 11,2%, phân theo giới
tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ . Trong những năm
gần đây, tỉ lệ lao động có trình độ đại học của lực lượng lao động trực tiếp
không ngừng tăng lên. Trong số những người đang theo học ở các trường
chuyên nghiệp trên toàn quốc thì tỷ lệ người đang theo học trình độ sơ cấp là

1,7%, trung cấp 20,5, cao đẳng 24,5% và Đại học trở lên là 53,3%. Tỷ trọng
lao động đã qua đào tạo ở nước ta rất thấp, cụ thể là 86,7% dân số trong độ
tuổi lao động chưa được đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, đáng chú ý hơn là khu
vực nơng thơn, nơi phần lớn người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở
nước ngồi thì tỷ lệ lao động chưa được đào tạo chiếm 92%. Như vậy, đội ngũ
lao động của ta trẻ và dồi dào nhưng chưa được trang bị chuyên môn, kỹ thuật.
Hiện cả nước có hơn 41,8 triệu lao động, chiếm 85,1% lực lượng lao động
chưa được đào tạo để đạt một trình trình độ chun mơn, kỹ thuật nào đó.Sự
tăng lên khơng ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chun mơn đã bước
đầu đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc
ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản
xuất theo hướng hiện đại.
Một trong những đặc điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch
sử là sự cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Đó cũng chính là ưu điểm của người lao
động nước ta hiện nay. Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản
xuất những mặt hàng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Cũng với
tính cần cù, chăm chỉ, ngày nay số lượng lao động Việt Nam làm việc trong
các ngành công nghiệp lắp ráp công nghệ cao cũng chiếm tỉ lệ khá lớn. Do quá
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm gần đây, ở Việt Nam có
rất nhiều các cơng ty, nhà máy lớn được xây dựng do các tập đoàn kinh tế lớn
bỏ vốn như Sam Sung, Toyota, Deawoo... Các chủ đầu tư của những cơng ty
đó đã nhìn thấy ưu điểm nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự cần cù,
13


chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển
biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng
kể tỉ lệ lao động cơng nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm
cho lao động ở nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
lao động.

Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của sự phát triển lực
lượng sản xuất mới là tỉ lệ những người lao động đã qua đào tạo, lao động có
tay nghề, có trình độ chun mơn kỹ thuật chiếm đa số. Nhưng ở Việt Nam
hiện nay, mặc dù đã tăng lên đáng kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền
sản xuất, tỷ lệ đó còn khá thấp. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB),
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10),
xếp thứ 11 trong 12 nước ở châu Á được tham gia xếp hạng; thiếu nhiều
chun gia trình độ cao, thiếu cơng nhân lành nghề; chỉ số Kinh tế Tri thức
(KEI) của nước ta còn thấp, chỉ đạt 3,02 điểm, xếp thứ 102/133 quốc gia được
phân loại; lao động nông thôn chủ yếu chưa được đào tạo nghề, năng suất lao
động thấp. Đây là những thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình phát
triển lực lượng sản xuất nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển khoa học - cơng nghệ.
Sau hơn 40 năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở
Việt Nam đã có nhiều thay đổi đáng kể như trình độ của tư liệu sản xuất, nhất
là công cụ lao động được cải tiến; khoa học - công nghệ được ứng dụng nhiều
vào sản xuất; trình độ, kỹ năng của người lao động không ngừng tăng lên
nhưng so với yêu cầu của nền sản xuất hiện đại, trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, cần có những giải
pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát triển khoa học - công nghệ - lực lượng sản
xuất ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
14


b) Hạn chế
- Đầu tư cho khoa học - công nghệ cịn ở mức thấp
Việt Nam chưa có chính sách khoa học - công nghệ nhất quán thể hiện
bằng hệ thống pháp luật như các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà
nước đã có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu tư cho khoa học và công

nghệ nhưng chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê
từ năm 1996 đến nay, mức đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước dành cho
hoạt động nghiên cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc
dân. Trong nhiều năm đổi mới, nước ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng
mừng, tổng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được nâng lên dần,
nhưng do giá cả hàng hóa tăng cho nên giá trị thực tế của vốn đầu tư không
tăng. Theo số liệu của Bộ Khoa học Cơng nghệ và Mơi trường thì đầu tư tài
chính cho khoa học - công nghệ chưa vượt quá 1% ngân sách tiêu dùng hằng
năm. Chi phí bình qn hằng năm cho một cán bộ khoa học - công nghệ từ
ngân sách nhà nước khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức bình quân của thế
giới hiện là 55.324 USD và kém các nước trong khu vực châu Á . Mức đầu tư
thấp nhưng lại phân tán và khơng ít trường hợp sử dụng lãng phí. Tuy Đảng và
Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh vai trị của
khoa học - cơng nghệ và coi trọng nó khơng kém gì các quốc gia khác trên thế
giới. Có 2 khả năng lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn
cho nghiên cứu khoa học và cơng nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang
lại hiệu quả thiết thực hay khơng trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại
cịn yếu kém. Thứ hai, ngân sách nhà nước trong nhiều năm thâm hụt, phải
bảo đảm chi cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu tư kinh phí cho
khoa học nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của người lãnh đạo và các cơ
quan quản lý của Nhà nước. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của
15


Đảng dành 2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn
không thực hiện được.
Với mức đầu tư như vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu,
phịng thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu… cơ quan khoa học và cơng
nghệ chỉ có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trước mắt
mà không thể tạo ra được thành quả khoa học có tầm chiến lược. Nếu khơng

có các chính sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ
rơi vào tình trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia sẻ và giã
từ những công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.
- Lực lượng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành cịn thiếu lực lượng lao động
có trình độ khoa học – cơng nghệ. Trước tình hình mở cửa nhiều cơng ty có
vốn đầu tư nước ngồi, cơng ty tư nhân đã thu hút số lượng đáng kể lao động
có trình độ chun mơn cao từ các cơ quan khoa học - công nghệ của nhà
nước. Ở tất cả các đối tượng lao động, số trường hợp ra đi nhiều hơn số trường
hợp đến, đặc biệt với số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vượt hẳn số
đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình
quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáp sư là 56,4
tuổi. Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó
tuổi từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư
chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học cơng nghệ có học
hàm thì phần đơng giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ 56 đến 60.
Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có
khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi
dưỡng đào tạo.

16


- Sự phân bố lực lượng lao động khoa học khơng hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành,
các khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu
cho quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển
giữa các vùng, các ngành. Một điều mà nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong
nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị trường thì các ngành khoa

học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất
thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm
trọng. Khoa học công nghệ là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu
không có hạ tầng cơ sở tốt thì khơng thể phát triển được. Trong khoa học nếu
chỉ coi trọng những ngành ứng dụng có lợi nhuận mà coi nhẹ khoa học cơ bản
rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ bế tắc và khơng có đủ năng lực tiếp thu làm
chủ các lĩnh vực khoa học - công nghệ mới.
- Những bất cập giữa khoa học - công nghệ và hoạt động kinh tế ở Việt
Nam.
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học - công nghệ và hoạt
động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia.
Tuy nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động
kinh tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt.
Mặc dù tồn tại số lượng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học - công
nghệ và dưới nhiều dạng thực phong phú, nhưng các viện nghiên cứu, các
trường đại học thường mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ
chức kinh tế. Ngồi mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn
vị kinh tế, cịn một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn
thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. Ở đây đòi
hỏi sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện
của các khu vực sản xuất. Các hãng luôn được coi như nhân vật trung tâm của
17


đổi mới khoa học công nghệ… Đáng tiếc phương pháp này còn xa lạ đối với
Việt Nam. Thiếu những định hướng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chương
trình nghiên cứu khoa học công nghệ trở nên kém hiệu quả.
Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học - công nghệ hiện nay đang mất
cân đối đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên
tiến, việc khắc phục khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa

học cơ bản sang cũng chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi tối thiểu. Mặt khác,
sự phân bố của lực lượng khoa học - công nghệ không sát với địa bàn hoạt
động kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế cịn như vùng trắng của hoạt
động khoa học - công nghệ. Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch
lý và mở của mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của
các nhà khoa học trong nước giảm xuống tương đối. Một bộ phận không nhỏ
đội ngũ các nhà khoa học - công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi
hẳn nghề.
Chúng ta từng hy vọng có thể thơng qua hoạt động đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam để nhận được những cơng nghệ cần thiết tiến hành Cơng nghiệp
hóa – Hiện đại hóa. Tuy nhiên thực tế diễn ra khơng như mong muốn. Trước
hết, luồng đầu tư nước ngoài đang có xu hướng chững lại. Thứ hai, cơ cấu đầu
tư với 18,7% vào khách sạn du lịch… là một nhân tố góp phần hạn chế quy
mơ chuyển giao cơng nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân lĩnh vực
công nghiệp, các chủ đầu tư nước ngoài dường như chẳng hề sốt sắng du nhập
các công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các
công nghệ thế hệ cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, mơi
trường đầu tư dễ dãi và miền đất đầu tư mới mẻ.
c) Nguyên nhân
Do tỷ lệ cán bộ khoa học - công nghệ trong các doanh nghiệp còn thấp;
cấu trúc và phân bố đội ngũ chưa hợp lý; số cán bộ được đào tạo về các ngành
18


khoa học - công nghệ chỉ chiếm 15,4% trong tổng số đội ngũ cán bộ; sự phân
bố cán bộ khoa học - cơng nghệ theo vùng lãnh thổ cịn mất cân đối lớn. Đội
ngũ cán bộ khoa học - công nghệ đông nhưng chưa mạnh.
Chất lượng đào tạo cán bộ khoa học - cơng nghệ thấp. Về trình độ, chưa
cập nhật công nghệ và tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng nhiều về công
nghệ cao, quản tri kinh doanh, tiếp thị, ngoại ngữ… Đội ngũ cán bộ khoa học cơng nghệ nước ta có tiềm năng trí tuệ đáng kể, tiếp thu nhanh tri thức mới,

nhưng còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó hợp tác giữa cơ quan và cá nhân,
thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và thực hiện những chương trình
nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lượng chuyên gia giỏi ở các ngành
hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý thuyết, thiếu thực hành.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lưới các
cơ quan nghiên cứu - triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng
lắp, khơng đồng bộ. Việc sắp xếp và đầu tư cho các cơ quan này không theo
các hướng ưu tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu - triển
khai ở các trường đại học còn nghèo nàn, lạc hậu: phần lớn được xây dựng và
trang bị đã trên 30 năm trình độ, thiết bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh
nghiệp trong nước.
Đầu tư tài chính cho khoa học - cơng nghệ từ ngân sách, nhà nước ở
nước ta hiện còn thấp. Do vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn
đề trước mắt, chưa tạo được kết quả khoa học lớn, tầm cỡ chiến lược. Việc sử
dụng tài chính cho khoa học cơng nghệ hiện nay với một cơ chế thường thúc
ép chúng ta rơi vào thế phải chi, chia bị động. Số chương trình và đề tài cấp
nhà nước, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả năng kinh phí hiện có.
Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh được trong phạm vi quản lý nguồn
vốn khoa học - cơng nghệ, nên hiệu quả cịn thấp. Việc huy động các nguồn
vốn ngoài ngân sách Nhà nước cho hoạt động khoa học – công nghệ gặp nhiều
19


khó khăn, chưa có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh
nghiệp, các tổ chức tư nhân tự nguyện đầu tư. Nhiều cơ quan nghiên cứu triển khai, hoạt đơng khoa học cơng nghệ cịn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà
nước. Việc thực hiện một phần vốn trong tổng giá trị dự án đầu tư cho công
tác nghiên cứu triển khai vẫn chưa được thực hiện, do nghiên cứu khoa học công nghệ chưa được coi là một nội dung chỉ trong cơ chế quản lý đầu tư. Vai
trị của khoa học - cơng nghệ chưa thể hiện bằng biện pháp cụ thể về mức đầu
tư tài chính, chế độ cán bộ, chưa tạo lập được hệ thống chính sách thích hợp
để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ phải dựa trên khoa

học - công nghệ và hướng theo nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Sau khi được chuyển thành cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động
khoa học - công nghệ, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường đã từng bước
phát huy vai trò quản lý nhà nước trong việc giám sát, kiểm tra các hoạt động
khoa học - công nghệ, quản lý nhà nước về chuyển giao cơng nghệ, trình độ
cơng nghệ trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, cơng tác quản lý
chưa thể hiện được tính đồng bộ, chưa gắn kết chặt chẽ với quản lý kinh tế và
xã hội, chưa tạo lập thị trường rộng rãi cho khoa học - cơng nghệ. Nhiều cơng
trình khoa học khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản xuất chưa
thực sự có nhu cầu khoa học. Cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu có khả năng đáp
ứng nhu cầu của sản xuất, lại khơng có đơn đặt hàng.
Thành tựu khoa học, các tiến bộ công nghệ chưa được áp dụng rộng rãi
nên chưa tạo chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản
xuất kinh doanh và dịch vụ. Chưa tạo được những ngành nghề mới xuất phát
từ kết quả của hoạt động khoa học - công nghệ. Thị trường cho khoa học công nghệ chưa được hình thành. Trong các ngành cơng nghiệp, hệ thống máy
móc thiết bị hiện tại lạc hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp
vá. Mẫu mã hàng hoá đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh
20


tranh, xuất khẩu kém. Quy mơ dự án cịn nhỏ, chưa tương xứng với tầm nhiệm
vụ cấp nhà nước, phần lớn chỉ dừng ở quy mô ngành, địa phương, hoặc cấp cơ
sở, ít có tác dụng thúc đẩy sản xuất.
Cơng tác quản lý khoa học - công nghệ tuy đã được đổi mới, nhưng
chưa đồng bộ và hoàn chỉnh. Cơ chế quản lý các chương trình trọng điểm cấp
nhà nước cịn nhiều thủ tục rườm ràc khơng chặt chẽ, chưa bảo đảm tập trung
các nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện hành
khơng khuyến khích và bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu triển
khai hoặc có chiến lược lâu dài về đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm.
2. Một số giải pháp

a) Phát triển lực lượng sản xuất mới
Trước tiên ta cần chú ý đến việc phát triển lực lượng lao động xã hội,
mà điểm cần lưu ý ở đây chính là làm thế nào để phát triển được nguồn nhân
lực một cách có hiệu quả nhất? Vì phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết
định triển vọng của tiến trình cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước. Vai trị
này thể hiện rõ trên những khía cạnh sau:
Một là, khắc phục điểm yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay là lao
động thiếu kĩ năng và năng suất thấp. Nâng cao sức cạnh tranh cũng như củng
cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.
Hai là, đây là cách nhận thức đúng đắn để đạt được mục tiêu phát triển
nhân tố con người, đặc biệt là những con người có trình độ khoa học – công
nghệ cao đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực là tạo lập cơ sở quan trọng hàng đầu để
nhanh chóng tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức xứng tầm quốc tế.
Để thực hiện được các giải pháp trên, Đảng đã xác định phương hướng
và hệ thống các giải pháp lớn nhưng tập trung vào hai lĩnh vực chính: giáo

21


dục, đào tạo và phát triển khoa học - công nghệ, mà trước hết là phương
hướng và giải pháp đối với lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
- Định hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu cơng
nghệ tiên tiến nhưng tránh tình trạng trở thành “bãi rác công nghệ” của thế
giới là một trong những yếu tố quyết định phương hướng và nội dung cải cách
giáo dục.
- Cải cách chương trình giáo dục, đào tạo. Chương trình giáo dục mới
phải đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri thức, tạo ra những con người lao
động mới: năng động, sáng tạo, có tri thức, có sức khỏe, có trình độ về tin học
và ngoại ngữ để thực hiện mơ hình Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa rút ngắn,

phù hợp với yêu cầu thời đại tồn cầu hóa.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng phù hợp với hệ thống giáo dục, đào tạo. Cách
dạy và học cần chuyển mạnh sang hướng trang bị các phương pháp thu nhận
và xử lí thơng tin và tri thức, phát triển năng lực xác định và giải quyết vấn đề.
- Gắn giữa việc cung cấp nguồn nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử
dụng nhân lực sẽ được thiết lập thông qua phát triển thị trường lao động và thị
trường sản phẩm khoa học - công nghệ.
- Nhà nước đóng vai trị chủ lực trong việc củng cố vững chắc kết quả
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở trong cả
nước để giúp đơng đảo người nghèo có cơ hội tiếp cận tri thức cơ bản.
- Tích cực thực hiện chủ trương “xã hội hóa cơng tác giáo dục và đào
tạo”, lôi cuốn các doanh nghiệp tham gia vào việc phát triển hệ thống đào tạo
nghề cho người lao động.
Nhân tố con người đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp
phát triển khoa học - công nghệ của nước ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ
đã tạo ra một lực lượng cán bộ khoa học - công nghệ ban đầu tương đối đông
đảo. Đối với khoa học - công nghệ vấn đề không chỉ là những nhà khoa học,
22


các kỹ sư, kỹ thuật viên với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác
khoa học - công nghệ, mà trước hết phải nói đến cả phong trào quần chúng
nhân dân đang tham dự vào hoạt đông công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ
hoạt động gì trong thực tiễn đời sống và sản xuất đều có quan hệ tới khoa học
- công nghệ. Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa - công nghệ là phải
tạo ra một mội trường xã hội thuận lợi cho khoa học - công nghệ phát triển. Ở
một mức độ đáng kể, mơi trường đó được tạo nên bởi nhận thức của con
người ở mọi tầng lớp xã hội về vai trị của khoa học - cơng nghệ.
Bên cạnh đó, cần nhận thức: nếu người lao động được sử dụng tốt trong
quá trình làm việc sẽ diễn ra sự hiện đại hóa, đổi mới kiến thức do đào tạo

trước đó, sẽ khơng có sự hao mịn vơ hình và người lao động có trình độ khoa
học, cơng nghệ sẽ trưởng thành, phát triển kịp với đà tiến bộ chung. Bức tranh
sẽ hoàn toàn ngược lại khi người lao động được đào tạo ra không được sử
dụng kiến thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng, khối lượng kiến
thức ban đầu sẽ khơng có cơ hội trau dồi và hiện đại hố, khơng được bổ sung
những nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng kém đi và nó sẽ bị xói mịn với
tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Từ đây phải thường xuyên đánh giá lại năng lực
đã có, khơng thể coi năng lượng khoa học - cơng nghệ là bất biến. Sử dụng là
tiền đề và điều kiện tiên quyết cho phát triển nhân lực khoa học - cơng nghệ.
Tiềm lực của người lao động có chất lượng cao chỉ có thể phát triển trong điều
kiện được phát huy năng lực của mình một cách thoả đáng.
Như vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã
có thì khơng làm tăng thêm tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước, trái
lại cịn có thể giảm sút so với tích tụ ban đầu của nguồn nhân lực.
b) Đối với lĩnh vực khoa học - công nghệ
Hệ thống khoa học - cơng nghệ của nước ta hiện nay cịn bất cập so với
yếu cầu phát triển. Nó cần được đổi mới căn bản, toàn diện và các giải pháp
23


cần ưu tiên xử lí trong chiến lược phát triển khoa học - công nghệ trong giai
đoạn tới là: Lựa chọn phát triển lĩnh vực khoa học - công nghệ thích hợp có
khả năng thu hút được nhiều lao động. Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quả giữa
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ với các nhu cầu kinh tế
- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa
học - công nghệ. Muốn cho sự nhiệp Cơng nghiệp hố - Hiện đai hoá được
tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy
động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn đầu tư cho khoa học – cơng nghệ phục vụ q trình

Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế
nước ta, giúp cho các nhà nghiên cứu khoa học được phát triển các ý tưởng
cơng nghệ của họ từ đó sẽ phát huy được các nguồn vốn, đảm bảo tính hiệu
quả kinh tế cao.
Vì vậy, để q trình Cơng nghiệp hố - Hiện đại hoá và sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển bền vững, phải thúc
đẩy phát triển trình độ khoa học - cơng nghệ cao phù hợp với tình hình thực tế,
tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong phát triển khoa học - công nghệ.

24


C. KẾT LUẬN
Sự phát triển khoa học - công nghệ là tính tất yếu của xã hội lồi người
và để có thể sử dụng các thành tựu khoa học - cơng nghệ và phát triển chúng
cũng cần thiết phải có lực lượng sản xuất mới, mà yếu tố chính đó là con ngời
lao động mới có tri thức, có sức khỏe và sự sáng tạo.
Nhận thức rõ được những thế mạnh và các hạn chế của mình về khoa
học – công nghệ - lực lượng sản xuất, với tinh thần đổi mới, sáng tạo, phát huy
trí thơng minh của người Việt Nam, hi vọng trong tương lai sắp đến khoa học
- công nghệ - lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh, phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố định hướng xã hội chủ
nghĩa của đất nước.

25


×