Tải bản đầy đủ (.docx) (316 trang)

Bàn về thuộc tính của văn học dân gian trong sự so sánh với văn học viết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.07 KB, 316 trang )

Bàn v ềthu ộc tính c ủa v ăn h ọc dân gian trong s ựso sánh v ới v ăn h ọc vi ết


GS. TS. Nguy ễn Xuân Kính


(Viện Nghiên cứu văn hoá)


Ở Việt Nam, khoa nghiên cứu văn học dân gian đã đi được một chặng đường dài, nhi ều
vấn đề lí luận về đặc trưng, thuộc tính của sáng tác ngôn t ừ đã được làm sáng t ỏ. Tuy nhiên,
cịn có một vài vấn đề, cũng như vài khía cạnh của một v ấn đề cụ thể, có th ể nói cịn có
những ý kiến khác nhau. Tiếp thu thành tựu của những người đi trước và đồng nghi ệp, chúng
tơi xin được bàn về thuộc tính của văn học dân gian trên cơ sở đối chiếu, so sánh v ới v ăn h ọc
viết. Bài viết của chúng tơi gồm chín mục sau đây: 1. V ề hai dòng (b ộ ph ận) v ăn h ọc; 2. V ề
tác giả của văn học dân gian; 3. Về tính chất khơng chun c ủa v ăn h ọc dân gian; 4. V ề tính
nguyên hợp; 5. Về tính dị bản; 6. Về hai hình thức lưu truyền: truyền miệng và bằng v ăn bản;
7. Về tính ích dụng; 8. Về sáng tạo cá nhân, sáng t ạo t ập th ể; 9. K ết lu ận. Tr ước khi được
công bố, bài viết đã được PGS. TS. Nguyễn Xuân Đức, PGS. TS. Nguy ễn Th ị Hu ế, ThS.
Nguyễn Giáo, ThS. Vũ Hoàng Hiếu, ThS. Lê Thị Thùy Ly đọc và nhận xét.


1. Về hai dòng (bộ phận) văn học


Các khái niệm “văn học dân gian”, “văn học thành văn” (“văn học viết”), “văn học cộng
đồng” đã được sử dụng ở nước ta.


Ở ta, đã thành thói quen khi nói văn học là ng ười ta hiểu đó là v ăn h ọc thành v ăn (t ức v ăn
học viết), cũng như khi nói văn học Việt Nam là người ta thường nghĩ đó là v ăn h ọc thành


văn của người Việt (Kinh).


Ở nước Nga, nói văn học tức văn học thành văn, còn cái mà chúng ta gọi là văn học dân gian
thì họ gọi là phơncờlo (folklore).


Ở Trung Quốc, cái mà chúng ta gọi là văn học thành văn, v ăn h ọc vi ết, được g ọi là v ăn h ọc
cao nhã, văn học tinh anh. Còn thuật ngữ văn học dân gian là do Vi ệt Nam m ượn c ủa Trung
Quốc. Ở nước này, họ còn một thuật ngữ khác: tục văn học (văn học thông tục) gần nghĩa với
văn học dân gian.


Dù gọi khác nhau nhưng nền văn học của mỗi nước vừa nêu đều có hai dịng (hai bộ phận) là
văn học dân gian và văn học thành văn.


Ở Việt Nam, văn học dân gian có từ bao giờ? Trả lời câu hỏi này, có hai quan ni ệm. Quan
niệm thứ nhất thuộc về đa số. Đó là GS. Đinh Gia Khánh (1924 - 2003), PGS. Chu Xuân
Diên, PGS. Đỗ Bình Trị, GS. TS. Lê Chí Quế, PGS. TS. Nguy ễn Bích Hà,… Thu ộc các th ế
hệ khác nhau, họ giống nhau ở chỗ đều giảng dạy văn học dân gian ở các tr ường đại h ọc, có
giáo trình được phổ biến rộng rãi. Họ cho rằng, văn học dân gian ra đời t ừ th ời kì cơng xã
ngun thuỷ, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các xã hội có giai c ấp, tiếp tục t ồn t ại
trong thời đại ngày nay(1). Quan niệm thứ hai do GS. Nguyễn Tấn Đắc đề xuất. N ăm 1987,
khi cịn đang cơng tác tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, ông cho r ằng, ch ỉ sau khi có nhà
nước, mới có hai dòng văn học: văn học dân gian và v ăn học viết. Tr ước đó ch ỉ có v ăn h ọc
cộng đồng. Theo quan niệm này, người Ê Đê, người Mơ Nơng… khơng có văn h ọc dân gian
vì chưa phát triển đến trình độ tổ chức xã hội có nhà nước. GS. Nguyễn Tấn Đắc viết: “Trong
một xã hội cộng đồng như vậy, văn hố mang tính cộng đồng và cũng ch ưa nhi ễm tính chính
trị - đẳng cấp. Chưa có sự phân biệt giữa



1


cái chính thống, quan phương với cái dân gian, thơn dã. T ất c ả ch ỉ là một. Không có hi ện
tượng hai bộ phận văn hố. Tính cộng đồng là đặc điểm bao trùm toàn bộ đời s ống c ủa xã
hội đó. Khi nói dân gian là mặc nhiên thừa nhận có cái đối lập v ới nó. Nh ưng ở trong xã h ội
này, văn hố nói riêng, cũng như xã hội nói chung chưa có s ự tách đôi thành hai b ộ ph ận
“đối lập” nhau”(2). Nếu theo quan niệm này, ở ta, văn hóa dân gian có t ừ thời kì v ăn hố
Đơng Sơn, một thời kì có niên đại từ khoảng sáu, bảy thế kỉ trước Công nguyên đến th ế k ỉ I
sau Công nguyên(3).


Ở Việt Nam, văn học thành văn có từ bao giờ? Trong thời kì v ăn hố Đơng S ơn, ng ười Vi ệt
cổ đã có chữ viết (khác Hán) hay chưa, vấn đề này tuy đã được GS. Hà V ăn T ấn nhìn nh ận
theo hướng khẳng định, nhưng như GS. Đinh Gia Khánh đã phân tích, “dầu cho có ch ữ vi ết
đi nữa thì chắc rằng với điều kiện xã hội chưa phân hoá thành giai c ấp rõ r ệt, v ẫn ch ưa th ể
hình thành được dịng văn học chun nghiệp tách biệt khỏi dịng v ăn h ọc dân gian. Có th ể
quan niệm rằng, nếu đã có chữ viết thì khi ấy chữ viết mới chỉ được dùng để ghi chép l ại
những sáng tác tập thể mà thôi” (4). Nếu người Việt cổ đã có chữ viết thì đến nay cũng chưa
thấy một tác phẩm văn học thành văn nào được viết bằng th ứ chữ ấy. Tr ừ PGS. Tr ần Ngh ĩa,
tất cả các nhà nghiên cứu, giảng dạy văn học thành v ăn đều cho r ằng dịng v ăn h ọc này có t ừ
thế kỉ X, sau khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông B ạch Đằng (n ăm 938) và lên
ngôi vua (năm 939). Nếu GS. Đinh Gia Khánh đánh giá bài Chiếu dời đô (năm 1010) của Lý
Thái Tổ là tác phẩm “chính thức mở ra trang đầu lịch s ử v ăn học vi ết c ủa n ước Đại Vi ệt” (5)
thì PGS. Bùi Duy Tân (1935 - 2009) đề nghị lấy bài Quốc tộ do thiền sư Pháp Thuận (sáng
tác năm 981?) làm mốc mở đầu cho dòng văn học viết Đại Vi ệt (6). Không quan niệm lịch sử
văn học viết Việt Nam bắt đầu từ thế kỉ X, bằng một cơng trình cơng phu và dày d ặn Sưu
tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt Nam tr ước thế k ỉ X , PGS. Trần Nghĩa

chứng minh rằng, “từng tồn tại một nền văn học chữ Hán th ực s ự ở cõi L ĩnh Nam, x ứ s ở ta
xưa. Nền văn học chữ Hán này ra đời (từ thế kỉ I đến thế kỉ V) như là k ết qu ả c ủa cu ộc đấu
tranh lâu dài, bền bỉ, phức tạp giữa một bên là âm mưu nô dịch, đồng hoá nặng nề, và bên kia
là sức trỗi dậy vô song, với quyết tâm bảo vệ, giữ vững văn hóa dân tộc khơng gì lay chuy ển,
mặc dù tạm thời thất trận và bị đối phương cai trị. N ền văn học chữ Hán Vi ệt Nam c ũng đã
dần dần phát triển (từ thế kỉ VI, VII đến thế kỉ X) theo s ự lớn m ạnh không ng ừng c ủa ý th ức
dân tộc được khảo nghiệm, thử thách, tôi luyện trong công cuộc đấu tranh giành l ại độc l ập
và chủ quyền cho đất nước”(7).


Văn học dân gian vận động lâu dài, sự thay đổi, biến đổi diễn ra chậm ch ạp h ơn so v ới v ăn
học thành văn. “Xét về mặt lịch sử, mặc dù văn học dân gian ra đời từ r ất xưa và đến nay v ẫn
tồn tại song song với văn học viết, như một cội nguồn ni dưỡng nó, nh ưng ch ỉ dưới hình
thức viết, văn học mới thực sự phát triển đa dạng thành những hình th ức ph ức t ạp nh ư th ơ
cách luật, phú, tiểu thuyết trường thiên,…”(8).


Các tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học (2004) đã rất đúng đắn khi nhìn văn học thành văn
(văn học viết) của thế giới nói chung, của Việt Nam nói riêng theo quan đi ểm l ịch s ử. Theo
họ, thuật ngữ văn học ở tiếng nước nào thoạt đầu cũng chỉ hình thức văn tự của văn học
(trong tiếng La tinh literatura - litera nghĩa là chữ cái, tura có nghĩa như là “sự tổng hợp”;
trong tiếng Hán, văn có nghĩa là “hội họp nhiều thứ mà thành văn chương”, nghĩa là bài v ăn
dưới dạng văn tự). Văn học viết, do vậy ra đời cùng lúc với s ự xuất hi ện c ủa th ể ch ế giai c ấp
của xã hội và chính quyền nhà nước, bởi vì lúc ấy các dân t ộc m ới tìm cách có được v ăn t ự.
Trong thời kì chưa có nghề in (ở Trung Quốc, trước thời kì Tống; ở phương Tây, tr ước th ế k ỉ
XV), văn học viết tồn tại dưới dạng chép tay, nên ít phổ biến,


2



lại thường tam sao thất bản. Thoát thai từ văn học dân gian và ra đời cùng với ch ữ vi ết để ghi
chép các văn thư nhà nước, văn học viết buổi đầu ở trong tình tr ạng gọi là “v ăn s ử b ất phân”.
Người ta nói đến văn, thơ, phú nhưng chưa có khái niệm văn học như một bộ môn nghệ thuật
ngôn từ. Lúc ấy, các thuật ngữ văn học, văn chương còn mang nội dung nguyên hợp, văn học
có nghĩa là “văn chương, học vấn, văn hiến”; cịn văn chương có nghĩa là “tất cả mọi tác
phẩm văn nói chung, gồm thơ, phú, sử, triết, luận và các lo ại v ăn th ư hành chính nh ư chi ếu,
biểu, tấu, cáo, mệnh, lệnh,…”. Dần dần đặc trưng tư duy hình tượng của văn h ọc m ới được ý
thức. Ở phương Tây điều này nảy sinh sớm, cịn ở Trung Quốc thì vào kho ảng th ế k ỉ IV - V
người ta mới thấy văn học viết khác các loại văn chương khác ở tính hình t ượng và s ự th ể
hiện tưởng tượng, tình cảm(9).


Văn học dân gian và văn học thành văn vừa có những điểm chung, l ại có nh ững đi ểm khác
nhau. Kể từ lúc hai tập giáo trình của Trường Đại học s ư ph ạm Hà N ội và Tr ường Đại h ọc
Tổng hợp Hà Nội về văn học dân gian ra đời (1961, 1962) (10) đến nay, trong nửa thế kỉ qua,
bằng nhiều cuốn sách, bài báo, các nhà nghiên cứu đã phân tích các thu ộc tính c ủa v ăn h ọc
dân gian. Bên cạnh những điểm gặp gỡ, giữa họ cịn có một vài điểm khác nhau.


2. Về tác giả của văn học dân gian


Tác giả của văn học dân gian không phải chỉ là nhân dân lao động, những người trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất.


Đã có quan niệm cho rằng tác giả của văn học dân gian là nhân dân lao động chân tay, đặc
biệt là nông dân. Đây là quan niệm của các nhà nghiên cứu xô - vi ết tr ước đây. Cho đến
những năm 70 - 80 của thế kỉ trước, quan niệm này v ẫn còn phổ bi ến. Các nhà nghiên c ứu

Trung Quốc cũng chịu ảnh hưởng của nó. Vào thập kỉ 80 của thế kỉ trước, ở Trung Qu ốc b ắt
đầu thảo luận, nhằm tránh khuynh hướng coi văn học dân gian chỉ là sáng t ạo c ủa nhân dân
lao động. Bên cạnh đại đa số nông dân, tác giả của văn học dân gian, cịn có các t ầng l ớp
khác như tăng ni, đạo sĩ, kĩ nữ, thợ thủ công, thị dân (11).


Có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam, trong bộ giáo trình Văn học dân gian nổi tiếng của hai tác
giả Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên, xuất bản lần đầu vào năm 1972 - 1973, c ũng t ồn t ại
quan niệm tác giả của văn học dân gian là sáng tác t ập thể, truy ền mi ệng c ủa nhân dân lao
động(12). Xem xét một cách thực chính xác, trong bộ sách này, ở m ột ch ỗ khác, các tác gi ả
cũng nói đến những thành phần khác, không chỉ là nông dân(13).


Năm 1974, nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh (1927 - 1975) đã viết về lực lượng sáng tác văn
học dân gian trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII ở nước ta như sau: “Những tác giả vơ danh
đã hồ tiếng nói mình vào tiếng nói chung của đơng đảo nơng dân và thợ thủ công từ nay sẽ
là:


- Những “liền anh liền chị” day dứt nỗi lòng hoặc vui rộn tình xuân trong tiếng hát giao
duyên ngày hội làng;


×