Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG Ý THỨC TƠN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.06 KB, 19 trang )

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ
CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG Ý THỨC TƠN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT
HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN
Với mỗi người dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là biểu tượng
ngời sáng về đạo đức cách mạng, tấm gương hy sinh, hiến dâng trọn đời cho sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Người không chỉ đấu tranh, mưu cầu cuộc sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân, mà còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần vô
cùng q báu, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh, phong cách
Hồ Chí Minh và Thời đại Hồ Chí Minh. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là mệnh lệnh từ mỗi trái tim của con người Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu để lại một phong cách, lối sống đạo đức
mẫu mực cho toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta học tập, noi theo. Trong
những bài học và chuẩn mực về phong cách, lối sống đạo đức của Người thì gần
dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân được xem là một trong những nội dung
cực
kỳ
quan
trọng.
Phong cách, lối sống đạo đức gần dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân của
người cán bộ, đảng viên được hiểu là cung cách, cách thức, lề lối khi quan hệ,
làm việc với dân. Nói cách khác, nó chính là lối sống hằng ngày của người cán
bộ, đảng viên được thể hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động, cơng tác. Nó có quan
hệ mật thiết tới tư tưởng, tới thực hiện đường lối, chủ trương của Ðảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước mà người cán bộ, đảng viên chính là cầu nối, là
người trực tiếp tổ chức đưa đường lối, chủ trương, chính sách nói trên đến với
nhân dân.
Cán bộ, đảng viên ta đều xuất thân từ nhân dân, dù hoạt động trong bất kỳ
lĩnh vực nào cũng để phục vụ nhân dân. Và, quần chúng nhân dân cũng là đối
tượng lãnh đạo của Ðảng. Cán bộ, đảng viên của Ðảng vừa là người lãnh đạo,
đồng thời cũng là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính vì vậy mà giữ


được mối liên hệ gắn bó mật thiết với nhân dân là sức mạnh của Ðảng.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là tấm gương sáng về sự gắn bó
mật thiết với dân, gần dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân. Ðây chính là
một bài học, hơn thế đã trở thành một giá trị đạo đức, thành phong cách, lối sống
cho các thế hệ cán bộ, đảng viên học tập và noi theo.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với một đảng cầm quyền thì việc chăm lo
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là rất quan trọng và cấp thiết. Có nhiều nội
dung cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên, song có lẽ bao
trùm lên tất cả, yêu cầu đầu tiên với mỗi cán bộ, đảng viên, là phụng sự nhân
dân, là công bộc của nhân dân. Muốn phụng sự được nhân dân, là cơng bộc của
nhân dân thì người cán bộ, đảng viên không chỉ biết gần gũi với nhân dân, biết
trọng dân, biết nghe dân nói, mà cịn phải biết nói cho dân nghe, làm cho dân
tin. Nói cách khác, là biết làm cơng tác dân vận, hơn thế cịn là "dân vận khéo",
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có lần căn dặn: "Lực lượng của dân rất to, việc


dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì
việc gì cũng thành cơng".
Chính vì vậy, trong mối quan hệ giữa Ðảng và Nhà nước với nhân dân mà
người cán bộ, đảng viên là cầu nối, thì phong cách cơng tác, làm việc với dân
chính là thước đo hết sức quan trọng của đạo đức, phẩm chất cán bộ, đảng viên.
Tuy nhiên, làm thế nào để xây dựng được một đội ngũ cán bộ, đảng viên có
phẩm chất đạo đức cách mạng, có phong cách, tác phong gần gũi với nhân dân,
biết trọng dân, có trách nhiệm với nhân dân, thật khơng đơn giản? Với tầm nhìn
xa, trơng rộng, trong điều kiện Ðảng ta là một đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm nhìn thấy những thói hư tật xấu, nhất là bệnh quan liêu, xa rời
quần chúng nhân dân trong khơng ít cán bộ, đảng viên, kể cả những người có
chức quyền. Ðây thật sự đã là một nguy cơ, bởi lẽ sự xa rời quần chúng nhân
dân của cán bộ, đảng viên sẽ làm cho Ðảng mất đi chỗ đứng của mình trong xã
hội, trong quần chúng nhân dân. Ðiều đó cũng có nghĩa là, cái "nền nhân dân"

của Ðảng sẽ khơng cịn thật bền vững. Và nguy cơ dẫn đến sự tan rã của Ðảng là
điều khó tránh khỏi.
Trong thực tế hiện nay đang tồn tại một nghịch lý, ở khơng ít cơ quan, đơn
vị, địa phương có số lượng cán bộ, đảng viên đơng, nhưng uy tín và vai trò lãnh
đạo của tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên trước quần chúng nhân dân lại
không cao, thậm chí có nơi mờ nhạt, khơng cịn sức chiến đấu. Ðiều dễ nhận
thấy ở đây là, những người như nói trên mặc dù vẫn mang danh cán bộ, đảng
viên, nhưng thực chất họ đã khơng cịn đủ tư cách của người cộng sản.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì để thực hiện quy trình lãnh đạo nói trên,
ngồi việc cần có tri thức, có lý luận để vạch ra đường lối, cịn phải ln ln từ
nơi dân, dựa vào dân mà kiểm định đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện
đường
lối,
chính
sách
đó
cho
đúng.
Tuy nhiên, nói thì dễ làm được sẽ khó hơn nhiều. Khơng ít cán bộ, đảng
viên hiện nay, thường ngại gặp gỡ, tiếp xúc với dân; nếu có gặp thì cũng qua loa,
đại khái, chỉ tiếp xúc hoặc nghe qua ý kiến những người trung gian là cán bộ cơ
sở, làm cho chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước khó đến được với
nhân dân mà ngay cả những thông tin cũng như tâm tư, nguyện vọng, nỗi lo lắng
của những người dân bình thường cũng khơng đến được với Ðảng và Chính phủ.
Ðây thực chất là lối làm việc chủ quan mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng phê phán "chỉ mấy cán bộ đóng cửa lại mà làm", là cán bộ "ngồi ỳ trong
phịng giấy mà viết", kết quả là khơng mang lại ích lợi gì cho dân, cho nước.
Ai cũng biết, đảng viên thì trước hết cũng là một cơng dân. Ðảng viên thể
hiện sự thống nhất hữu cơ trong bản thân mình cả hai tư cách đó. Một mặt, họ
phải làm trịn nghĩa vụ cơng dân, hơn thế là một cơng dân gương mẫu, mặt khác,

là người cộng sản họ phải thực hiện chức năng lãnh đạo, giáo dục quần chúng
nhân dân theo tinh thần lãnh đạo là đày tớ nhân dân. Tiếc rằng, hiện nay khơng ít


cán bộ, đảng viên đã khơng cịn giữ được cả hai tư cách nói trên. Tình trạng cán
bộ, đảng viên thiếu trách nhiệm, lời nói khơng đi đơi với việc làm; cán bộ, đảng
viên chỉ nói cịn để dân làm; cán bộ, đảng viên lên mặt "quan cách mạng", "quan
nhân dân", ức hiếp quần chúng nhân dân, không chú ý lắng nghe ý kiến góp ý
phê bình của nhân dân...vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi.
Quần chúng nhân dân chỉ quý trọng, yêu mến những người có đức, có tài,
hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân, biết chăm lo đến cuộc sống và lợi ích của
nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng
viên từ Trung ương đến các làng, xã phải ln ln nhớ mình là cơng bộc, là
người đầy tớ trung thành của nhân dân. Người yêu cầu, đã là cán bộ, đảng viên
thì phải có quan hệ mật thiết, gắn bó với quần chúng nhân dân, hơn thế phải biết
tin vào khả năng và lực lượng nơi quần chúng nhân dân. Việc gì có lợi cho dân,
ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.
Người cán bộ, đảng viên phải sâu sát, gắn bó với quần chúng nhân dân
"Phải hịa mình với quần chúng thành một khối" để tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng nơi quần chúng. Ðồng thời, cán bộ, đảng viên muốn được dân tin, dân
phục, dân yêu còn phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm trước quần chúng
nhân dân, phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Chỉ có như vậy thì
quần chúng nhân dân mới hăng hái nghe theo lời tuyên truyền của cán bộ, đảng
viên để thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước.
Tác phong quần chúng, gắn bó với nhân dân của cán bộ, đảng viên ln
được quần chúng nhân dân nhìn nhận thơng qua những lời nói và việc làm rất cụ
thể, như: giao tiếp, cách thức làm việc; lắng nghe ý kiến phản ánh; chia sẻ những
niềm vui, nỗi buồn; việc đi lại, ăn uống... ở đâu và bao giờ, quần chúng nhân
dân cũng thường có những nhận xét xác đáng, thấy được cái hay, cái dở, cái
đúng, cái sai của cán bộ, đảng viên để động viên khen ngợi hoặc góp ý sửa chữa

sai
lầm.
Người cán bộ, đảng viên thật sự có tinh thần cầu thị, thấm nhuần phong
cách, đạo đức gần gũi, gắn bó mật thiết với nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
thì trong bất cứ hồn cảnh nào họ đều biết tìm ra cách ứng xử tốt nhất, có lợi cho
dân, cho nước trên cơ sở tình yêu thương con người. Nói cách khác, bằng sự hịa
mình với dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của dân, người cán bộ, đảng viên sẽ
không chỉ tổ chức tốt hoạt động thực tiễn để nhân dân thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước mà cịn thơng qua chính dân cũng
như các hoạt động, các phong trào cách mạng của dân mà rèn luyện chính bản
thân
mình.
Làm được như vậy thì mối quan hệ giữa Ðảng với quần chúng nhân dân sẽ
ngày càng thêm mật thiết, gắn bó hơn.
Phong cách trọng dân, vì dân của Bác là xuyên suốt, thống nhất và ngày
nay nó vẫn cịn ngun giá trị. Phong cách đó như một nguyên tắc, một quy luật
tất yếu mà ngày nay chúng ta phải không ngừng học tập, tu dưỡng. Bước đầu,


chúng tơi khái qt phong cách trọng dân, vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở
những khía cạnh cơ bản như sau.
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng sức mạnh và trí tuệ của nhân
dân
Trong suốt cuộc đời làm cách mạng của mình, Hồ Chí Minh ln coi
trọng sức dân, luôn tâm niệm là lấy dân làm gốc. Người cho rằng, “…trong bầu
trời khơng có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực
lượng đồn kết của nhân dân”. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân,
sống đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này
vừa là sự nối tiếp truyền thống quý báu của dân tộc “nước lấy dân làm gốc”,
“chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc

nguyên lý mácxit “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải của
riêng một hai người”. Theo Hồ Chí Minh, “dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng,
là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi
của cách mạng; là nền, gốc và chủ thể của mặt trận”.
Tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân là một trong những
phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Trong hồn cảnh đất nước càng gian khổ
thì lại càng phải tin vào khả năng cách mạng, tin vào lực lượng quần chúng nhân
dân. Sau khi giành được độc lập đứng trước những thử thách ngàn cân treo sợi
tóc. Ngân quỹ quốc gia hầu như khơng cịn, chỉ còn cách duy nhất là dựa vào
dân, tin vào dân.
Nhận thức được sức mạnh tất yếu của nhân dân, Hồ Chí Minh đã thường
xuyên giáo dục cán bộ phải làm tốt công tác vận động nhân dân để chung sức,
chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước. Ðiều quan trọng là kiên trì giải thích
cho dân hiểu trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của mình. Người lãnh đạo chân
chính bao giờ và bất cứ việc gì cũng phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, sao cho phù hợp với trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, lịng
ham ý muốn của dân. Xét cho cùng, mọi cái đều từ dân mà ra và trở về nơi dân.
Ðể cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra mới là trọng dân.
Bên cạnh việc trọng dụng sức mạnh của dân, Hồ Chí Minh cịn biết trọng
dụng nhân tài, xem hiền tài là nguyên khí quốc gia mà như người xưa có câu:
“Nguy cơ lớn nhất đối với một đất nước là trong nước có người tài mà không
biết, biết mà không dùng, dùng mà không tin”. Để kêu gọi, nhắn nhủ những
người hiền tài ra giúp nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Tìm người tài
đức” đăng báo Cứu quốc, số 411, ra ngày 20/11/1946. Người nhấn mạnh: “Nước
nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Các địa phương phải lập
tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi
dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết”.
Chính nhờ tấm lòng rộng mở, trọng dụng nhân tài, được thừa kế từ truyền
thống lâu đời của dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm cho tầng lớp nhân sĩ,
trí thức đem hết cơng sức của mình vào sự nghiệp cách mạng.

Thứ hai, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln tôn trọng, lắng nghe ý kiến của
nhân dân và tôn trọng tinh thần dân chủ.
Tôn trọng dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân là trọng
dân, là vì dân, vì một xã hội phát triển bền vững, hài hòa. Là cơ quan quản lý


nhà nước, là cán bộ lãnh đạo phải biết tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân
thông qua các tổ chức đoàn thể đại diện như: Quốc hội, Mặt trận tổ quốc, Cơng
đồn, Đồn thanh niên, Hội Phụ nữ, v.v.. Những vấn đề liên quan đến đường lối
chính sách, đến cơ chế tổ chức có liên quan đến sinh mệnh, cuộc sống, tương lai
hy vọng của hàng chục triệu quần chúng, nếu khơng có ý kiến của quần chúng,
khơng tập hợp được trí tuệ của quần chúng sẽ khơng tránh khỏi những hạn chế
sai lầm.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln căn
dặn: Phải ra sức thực hành dân chủ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của quần
chúng, dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị. Theo Người “Có dân chủ mới
làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”, “Có dân chủ thì dân mới tin,
mới dám nói, mới có sự sáng tạo”, do đó mới tạo nên động lực. Người khẳng
định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền
hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân... Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”. Vì vậy, phải thực hiện một nền dân chủ của nhân
dân, đảm bảo lợi ích chính đáng của dân, dân chủ thực sự cho dân. Đồng thời
cũng phải đề ra quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng cho mỗi công dân làm theo đúng
Hiến pháp và pháp luật.
Không chỉ nhắc nhở cán bộ học dân, tin dân; nhắn nhủ nhân dân lựa chọn
cán bộ xứng đáng đại diện cho quyền lợi của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn là
người “nói đi đơi với làm”, là người thực hành đường lối cách mạng vì nhân dân
sâu sắc nhất, triệt để nhất. Người luôn là tấm gương sáng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên noi theo về lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhân dân và tinh thần dân

chủ trong mọi hồn cảnh.
Thứ ba, ln vì lợi ích của nhân dân, đấu tranh xóa bỏ những vi
phạm đến lợi ích chung của nhân dân.
Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề quan trọng bậc nhất là vấn đề lợi ích của
người dân. Nếu lãnh đạo mang lại lợi ích thiết thực cho dân, sẽ làm cho dân tin
Ðảng, tin chế độ. Nguyên tắc chung của chính sách với dân là tạo sự hài hịa
giữa ba lợi ích: Lợi ích cá, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội, trong đó, phải hết sức
coi trọng lợi ích của người lao động chân chính. Ðiều tiết thu nhập hợp lý và
phân chia cơng bằng lợi ích giữa các tầng lớp nhân dân là việc làm có ý nghĩa
nhằm củng cố niềm tin của nhân dân vào Ðảng và Nhà nước. Muốn mang lại lợi
ích thiết thực cho nhân dân, trước hết, phải có chính sách đúng. Quan điểm của
Hồ Chí Minh là, tất cả đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước đều có ảnh
hưởng trực tiếp đến dân, đều phải hướng vào dân và nhằm nâng cao đời sống
của nhân dân. Trong Di chúc, Người viết: Ðảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân, là trọng dân.
Mặt khác, Hồ Chí Minh ln đặt lợi ích của nhân dân, của người lao động
lên trên hết. Người nói: “Ngồi lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác”. Chính vì vậy, lợi ích của Đảng, của
Nhà nước với lợi ích của nhân dân là thống nhất, đó là lợi ích của cả tập thể, của
đông đảo quần chúng nhân dân lao động và của toàn xã hội.


.
Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln quan tâm chăm lo cuộc sống của nhân
dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo đến cuộc sống của
nhân dân như Người đã từng nói rằng: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự
do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần

tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng
haa…”. Khi nước nhà vừa giành được độc lập, Người nêu rõ quan điểm: “Chúng
ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập
cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân tộc
ăn no, mặc đủ”.
Năm 1955, nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xác định trách nhiệm của Đảng, Chính phủ đối với cuộc sống hàng
ngày của dân. Người nhấn mạnh: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải
hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ
có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính
phủ có lỗi...”. Bước sang thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nói
rõ: “Mục đích của Chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là:
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động”.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đau đáu nỗi lòng về chăm lo
cuộc sống của nhân dân, Người đã căn dặn toàn Đảng rằng: Đảng coi việc “làm
đầy tớ” của nhân dân, phục vụ nhân dân, chăm lo cuộc sống vật chất, tinh thần
của nhân dân là trách nhiệm, là vinh dự và niềm hạnh phúc.
Phong cách của Bác về trọng dân, vì dân là một phong cách xuyên suốt từ
khi Bác ra đi tìm đường cứu nước cho đến nay. Tư tưởng yêu nước, thương thân,
trọng dân, suốt đời vì cách mạng, vì nhân dân mà Bác đã hy sinh phấn đấu,
không ham danh lợi cho cá nhân, với một lối sống giản dị, khiêm nhường đã trở
thành tấm gương đạo đức, một phong cách vơ cùng trong sáng để tồn thể cán
bộ, đảng viên của chúng ta hiện nay học tập và noi theo. Tuy nhiên, hiện nay có
khơng ít bộ phận cán bộ, đảng viên đã và đang xa rời dân chúng, làm quan cách
mạng, những ông vua nhỏ xem dân không ra gì đang trở thành vấn đề cấp bách
hơn bao giờ hết.

Hồ Chí Minh quan niệm nhân dân ta từ phương diện cộng đồng là: “mọi con dân
nước Việt”, “mỗi một người con rồng cháu tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu

số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người khơng tín ngưỡng, khơng phân
biệt “già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện” đều là nhân dân Việt Nam. Dưới
góc nhìn giai tầng xã hội, Người nêu rõ “ Nhân dân là bộ phận gồm đông đảo


những người thuộc nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau và chủ yếu là những
người lao động trong xã hội. Đó là tầng lớp trí thức (Sỹ); giai cấp nơng dân –
người sống bằng nghề làm ruộng (Nông); giai cấp công nhân – người lao động
chân tay, làm việc cho chủ tư liệu sản xuất công nghiệp hoặc làm việc cho Nhà
nước trong các cơ sở công nghiệp (Công);tầng lớp thương nhân hay tầng lớp
những người buôn bán (Thương); những người làm việc trong Quân đội Nhân
dân hay là quân nhân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Binh). Các tầng
lớp, giai cấp nhân dân này “đoàn kết thành một khối” như “năm cánh ngôi sao
vàng trên nền đỏ Quốc kỳ Việt Nam” và là “nền tảng của quốc dân Việt Nam”.
Như vậy, dân, nhân dân vừa là một tập hợp đông đảo tuyệt đại đa số quần chúng,
vừa được hiểu là mỗi người Việt Nam cụ thể, cả hai đều là chủ thể trong khối đại
đoàn kết dân tộc. Sức mạnh của nhân dân chính là sự cố kết, hợp lực của mỗi
người trong từng tổ chức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lấy công nông liên minh
làm nền tảng, đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước để thực
hành dân chủ chuyên chính. Nói một cách khác, sức mạnh của nhân dân được
làm nên bởi khối đại đoàn kết toàn dân dưới ngọn cờ của Đảng để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc của nhân dân.
Người luôn xác định: Con người là vốn quý nhất. Con người vừa là lực lượng, là
động lực chủ yếu, trực tiếp, vừa là mục tiêu của lịch sử. Đó là sự thống nhất biện
chứng của các yếu tố đó trong con người với tư cách là nhân tố quyết định, sáng
tạo ra lịch sử. Vì vậy, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp
cách mạng. Bởi vậy, Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao
giờ được quên "dân là chủ" nghĩa là đề cập vị thế của dân và “dân làm chủ”
nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai vế này ln ln đi
đơi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân. Người nhấn

mạnh: "Nước ta là nước dân chủ,nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ" [Hồ
Chí Minh: Tồn tập, t.7, tr.452], “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân
làm chủ” [[Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.10, tr.251], "Nước ta là nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.6, tr.515], Theo Hồ
Chí Minh, dân chủ có nghĩa “dân là chủ”; đối lập với quan niệm “quan chủ”, thể
hiện bản chất trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Người nhấn mạnh: “Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ”. Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm


1953, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân
làm chủ... Nhân dân là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay
mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”. Xã hội nào bảo đảm cho
điều đó được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
Hồ Chí Minh ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là
chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, nhân dân thật sự là ông chủ tối cao của
chế độ mới. Người viết: “chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người
dân làm chủ”. Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ,
“nước ta là nước dân chủ, mọi người có quyền làm, có quyền nói”. “Nhiệm vụ
của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”.
Trong quan hệ giữa dân và Đảng, Hồ Chí Minh quan niệm: dân là chủ và dân
làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đày tớ và làm đày tớ cho dân.
Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội... Dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng
nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước.
Hồ Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Dân chủ không dừng lại với tư cách như là một thiết chế xã hội của một
quốc gia, mà cịn có ý nghĩa biểu thị mối quan hệ quốc tế, hịa bình giữa các dân
tộc. Đó là dân chủ, bình đẳng trong mọi tổ chức quốc tế, là nguyên tắc ứng xử

trong các quan hệ quốc tế.
. Trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ
thực sự cho dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Nhân dân là người chủ
của nước, nước là nước của dân. Các cơ quan đảng và nhà nước là tổ chức được
dân uỷ thác làm công vụ cho dân: Phải thật sự tôn trọng quyền dân chủ của
Nhân dân, tuyệt đối không được coi thường dân, lên mặt “quan cách mạng”, ra
lệnh, ra oai với Nhân dân, Người đã chỉ rõ: “Dân là chủ thì Chính phủ phải là
đầy tớ”. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ” [Trích:
“Bài nói chuyện với các đại biểu thân sỹ , trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa”
ngày 20/2/1947, xem Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000, tập 5, tr.57 – tr.63]. Người phê phán mọi biểu hiện của cán bộ lợi dụng
chức quyền đi đến quan liêu, tham nhũng, hống hách, xa rời dân. Người
nói “Chúng ta phải u dân, kính dân thì dân mới u ta, kính ta” nếu khơng
thực hiện điều đó sẽ làm cho dân ốn giận, mất lịng tin vào Đảng, vào Nhà
nước dẫn đến làm suy yếu Đảng, đó là nguy cơ tồn vong của chế độ. Bởi vậy,
Người ln quan niệm cái gì có lợi cho Nhân dân, cho dân tộc là chân lý, và


Người xem phục vụ Nhân dân là phục tùng chân lý; làm công bộc cho dân là
một việc làm cao thượng: “Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục
vụ cho lợi ích của Nhân dân”[ Trích: “Bài nói chuyện của Bác Hồ tại lớp Nghiên
cứu Chính trị khóa hai trường Đại học nhân dân Việt Nam ngày 08/12/1956”,
xem Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000 tập 8, tr.276
], “Việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân thì phải hết
sức tránh [Trích “Chính phủ là cơng bộc của dân” và Chiến Thắng: “Sao cho
được lịng dân?”, xem Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000 t.4, tr.55], “Chúng ta phải u dân, kính dân, thì dân mới u ta, kính ta”
[Trích: “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng – Hồ Chí Minh,
xem Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000 t.4, tr.55.
tr.64, tr.65]. Vì lẽ đó cuộc đời hoạt động cách mạng của Người là một tấm

gương mẫu mực về gần dân, học dân, kính trọng, phục vụ Nhân dân.
Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng
nghe ý kiến của tập thể, phát huy sức mạnh của tập thể, nhận trách nhiệm cá
nhân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó và tuyệt đối tuân thủ
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Trước hết, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên phải gắn bó với tập thể, tơn
trọng tập thể, đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, đồng thời tinh
thần ấy cũng thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của Người. Hồ Chí Minh
khơng bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ
chức, mà luôn tranh thủ sự bàn bạc với tập thể Bộ Chính trị Trung ương Đảng,
Chính phủ và Quốc hội, khi cần thiết, triệu tập cả Hội nghị chính trị đặc biệt một hình thức Diên Hồng của thời đại mới, để xin ý kiến các đại biểu quốc dân.
Khi bàn về cách làm và xuất bản loại sách Người tốt, việc tốt với một số cán bộ,
Người nói: "Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì cứ
cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Khơng nên: Bác nói gì, các chú cứ ghi vào
sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một cách qua
loa".
Người yêu cầu lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người
"không quan trọng". Muốn thế, người lãnh đạo phải đề cao, mở rộng dân chủ, từ
dân chủ trong Đảng đến dân chủ trong các cơ quan đại biểu của dân. Người năng
đi xuống cơ sở, để lắng nghe ý kiến của cấp dưới và của quần chúng, chứ không
phải để huấn thị. "Nếu cán bộ không nói năng, khơng đề ý kiến, khơng phê bình,
thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì khơng phải họ
khơng có gì nói, nhưng vì họ khơng dám nói, họ sợ". Do đó, theo Người, phải
biết động viên, khuyến khích "Khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến",


tức là phải làm cho cấp dưới khơng sợ nói sự thật và cấp trên không sợ nghe sự
thật. Người lãnh đạo có phẩm chất đương nhiên khơng nói dối ai, nhưng muốn
để khơng ai nói dối mình thì phải có phương pháp lãnh đạo tốt, có phong cách
gần gũi quần chúng, đi sát cơ sở.

Người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm, khuyết điểm của mình, muốn biết cơng
tác của mình tốt hay xấu khơng gì bằng khun cán bộ của mình mạnh bạo đề ra
ý kiến và phê bình. Như thế chẳng những khơng phạm gì đến uy tín của người
lãnh đạo, mà lại thể hiện dân chủ thật sự trong Đảng.
Thứ hai, là phải mở rộng dân chủ để phát huy sức mạnh của tập thể. Người
thường nói: Đề ra cơng việc, đẻ ra nghị quyết, khơng khó, vấn đề là thực hiện
nó. Ai thực hiện? - Tập thể, quần chúng. Vì vậy, có dân chủ, bàn bạc tập thể mới
cùng thơng suốt, nhất trí, mới cùng quyết tâm thực hiện, tránh được "trống đánh
xuôi, kèn thổi ngược". Sở dĩ xảy ra mất đồn kết vì người đứng đầu ở nơi đó cịn
chun quyền, độc đốn, áp đặt chủ quan, trong hội nghị thì mọi người miễn
cưỡng đồng tình, sau hội nghị, nếu đã khơng thơng thì sẽ khơng quyết tâm thực
hiện.
Vì vậy, Người u cầu: "Phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ
hết ý kiến của mình". "Có dân chủ thì mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra
sáng kiến"; "thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi
khó khăn". Bản thân Người là tấm gương mẫu mực về thực hành dân chủ.
Trong công tác lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Người ln có ý thức sử dụng sức
mạnh tổng hợp của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức, sức mạnh tập thể và sức mạnh
tổng hợp của quần chúng, nhân dân. Trước khi quyết định một công việc hệ
trọng, Người đều hỏi lại cẩn thận và chu đáo những người đã giúp mình. Tất cả
những ai đã được Bác giao việc đều cảm nhận sâu sắc điều đó.
Phong cách dân chủ Hồ Chí Minh được thể hiện từ việc lớn cho đến việc
nhỏ:Chuẩn bị ra một nghị quyết hay dự thảo một văn kiện, viết một bài
báo...Người đều đưa ra thảo luận trong tập thể Bộ Chính trị, tham khảo ý kiến
những người xung quanh. Người tuân thủ chặt chẽ quy trình ra quyết định: Mọi
vấn đề kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, khoa học - kỹ thuật,...Người đều
huy động sự tham gia của đội ngũ trí thức, chuyên gia trong bộ máy của Đảng
và Nhà nước, yêu cầu chuẩn bị kỹ, trao đổi rộng, sao cho mọi chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều được cân nhắc kỹ, lựa chọn thận
trọng, để sau khi ban hành, ít phải thay đổi, bổ sung.

Thứ ba, là nhận trách nhiệm cá nhân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao
phó và tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân
phụ trách. Là người đứng đầu Đảng cầm quyền, đứng đầu Nhà nước, nhưng Hồ
Chí Minh thường xun có phong cách làm việc tập thể và dân chủ. Người giải
thích: "Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách, tức là tập trung. Tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung".


Tác phong tập thể - dân chủ của Bác luôn ln tạo ra được khơng khí làm việc
hoạt bát, phấn khởi, hăng hái và đầy sáng tạo. Cương vị lãnh đạo càng cao, thì
càng địi hỏi phải có tác phong tập thể - dân chủ thật sự, chứ không phải hình
thức. Bởi vì mọi sự giả tạo đều làm suy yếu, thậm chí phá vỡ tập thể. Mọi thói
hình thức chủ nghĩa, sớm muộn, sẽ làm xói mịn, thậm chí triệt tiêu dân chủ.
Nhiều lần, Người đã phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ,
do đó mà người có ý kiến khơng dám nói, người muốn phê bình khơng dám phê
bình, làm cho cấp trên, cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời
nhau, khơng cịn hăng hái, khơng cịn sáng kiến trong khi làm việc.
Hồ Chí Minh là người đã hố thân một cách toàn vẹn và trọn vẹn vào trong nhân
dân. Hồ Chí Minh là người thấu hiểu dân tình, chăm lo dân sinh, nâng cao dân
trí để khơng ngừng thực hành dân chủ cho dân. Trong chế độ mới, giá trị cao
nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho dân, phải trao lại
cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội Việt Nam, nhân dân
là người chủ của nước, nước là nước của dân. Các cơ quan đảng và nhà nước là
tổ chức được dân uỷ thác làm công vụ cho dân. Từ thực hành dân chủ cho nhân
dân đến thực hành dân chủ trong Đảng, trong cơ quan, tổ chức, phong cách dân
chủ của Bác Hồ là sự thể hiện nhất quán của tư tưởng đạo đức vì dân, vì nước,
như Người từng khẳng định 5 điểm đạo đức mà người đảng viên phải giữ gìn
cho
đúng,
đó

là:
Tuyệt
đối
trung
thành
với
Đảng,
với
nhân
dân.
- Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn
cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
- Vô luận trong hồn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.
- Hồ mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng,
lắng nghe ý kiến của quần chúng.

Người đã thực hiện dân chủ rất thành công trong thực tiễn cách mạng nước ta.
Trong lĩnh vực chính trị bằng cách tổ chức cho nhân dân tham gia xây dựng nhà
nước dân chủ đầu tiên ở Đơng Nam Á, Hồ Chí Minh đã khơi dậy và nâng cao
động lực tinh thần làm chủ đất nước của mỗi người và cả dân tộc, trong đó mỗi
người dân sử dụng lá phiếu của mình như một bảo đảm cao nhất để giữ nền độc
lập dân tộc mới giành được.
Khơng chỉ cống hiến trọn cuộc đời vì mục tiêu đánh đuổi giặc ngoại xâm, phá
tan xiềng xích nơ lệ, xóa bỏ mọi áp bức, bất cơng, giành lại độc lập cho dân tộc
mà Người cịn đóng góp hết sức mình vào sự nghiệp giải phóng con người, đấu
tranh giải phóng nhân loại đau khổ, bị áp bức, chăm lo đời sống ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân được thể hiện rõ qua mong ước cháy bỏng: “Tơi chỉ có một



ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn tồn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành” [Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr.161, 115, 31.]. Đối với người “Nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng
hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và vì thế, ngay sau
ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, dân tộc vừa thốt khỏi ách ngoại xâm,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định công việc chăm lo đời sống cho nhân dân,
khắc phục hậu quả của chế độ thực dân, phong kiến, đói nghèo cùng cực và
nguy cơ nạn đói là nhiệm vụ cấp bách hàng đầu của Chính phủ mới, cụ thể là:
chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đị;
thực hiện tín ngưỡng tự do; lương giáo đồn kết... Đó là những nội dung, biện
pháp và bước đi quan trọng để đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân.
Chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh
khơng chỉ là tâm nhu cầu vật chất của nhân dân mà còn cải thiện, nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần, nhân dân phải được tự do với một xã hội tiến bộ và công
bằng, với hành lang pháp lý bảo đảm quyền con người của người dân một cách
đầy đủ và người dân thực sự là chủ trong xã hội mới.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa,Chủ tịch Hồ Chí Minhđã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết
nhằm đáp ứng những đòi hỏi trước mắt của nhân dân, trong đó có chống nạn
đói. Người chỉ rõ, đói nghèo là một trong ba thứ giặc cần phải diệt và Người đã
tập trung mọi nỗ lực lãnh đạo toàn dân “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc
ngoại xâm”.
Giặc ngoại xâm cướp nước có thể làm ta mất nước, mất độc lập, nhưng giặc đói,
giặc dốt làm cho dân ta chìm đắm trong lầm than, đói khổ, đen tối và ấm no,
hạnh phúc chỉ là ước vọng, mong mỏi. Nghèo đói thì sức lực nhân dân yếu ớt,
thực lực đất nước giảm sút, giống nòi suy vong, thế nước đi xuống và khi đó khó
có thể bảo vệ được nền độc lập tự chủ, do vậy mà nguy cơ mất cả tự do, độc lập.
Công cuộc xây dựng đất nước, chăm lo cuộc sống cho nhân dân thật vơ cùng

khó khăn và đầy thách thức, bởi đất nước vừa thoát thốt khỏi ách thực dân phát
xít, bị bóc lột kiệt quệ sức người, vơ vét cạn kiệt tài nguyên, vật lực để phục vụ
cuộc chiến tranh đế quốc. Trong bối cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định


từng cơng việc cụ thể, từng bước đi thích hợp; đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để
nhân dân thoát nạn bần cùng, mọi người có việc làm, đời sống ấm no và hạnh
phúc.
Người đã viết thư gửi đồng bào tồn quốc kêu gọi ra sức cứu đói, chống nạn đói,
“coi cuộc chống nạn đói cũng như cuộc chống ngoại xâm”. Ngườiđặc biệt quan
tâm đẩy mạnh phong trào tăng gia sản xuất và tiết kiệm để chống đói. Người đề
nghị Hội đồng Chính phủ phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất và mở
cuộc lạc quyên cứu đói. Trong Thư gửi nông gia Việt Nam, Người khẩn thiết kêu
gọi: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa... Đó là
cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập” [Hồ Chí
Minh: Tồn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.161, 115, 31.].
Trong lúc tăng gia sản xuất chưa đến ngày thu hoạch, công việc khẩn cấp là phát
huy truyền thống tương thân tương ái, đùm bọc nhau. Người khởi xướng phong
trào “Hũ gạo cứu đói” và gương mẫu thực hiện. Với niềm đồng cảm sâu sắc
cùng đồng bào, Người khơi dậy truyền thống nhân văn, tương thân tương ái của
dân tộc, động viên mọi người tham gia chống giặc đói: “Lúc chúng ta nâng bát
cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta khơng khỏi động lịng. Vậy tơi đề
nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một
bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”
[ Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.161, 115,
31.]
Phong trào được thực hiện sâu rộng, chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả
nước đã quyên góp được một lượng lớn gạo cứu đói và nạn đói đã sớm được
khắc phục.
Ấm no và hạnh phúc, nhân dân không chỉ cần nhu yếu phẩm thiết yếu là đủ mà

cịn cần phải có tri thức, có đời sống tinh thần lành mạnh, được tự do tinh thần,
tự do sáng tạo, tự do tạo lập cuộc sống.
Với quan điểm đó, ngay sau khi giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đặc biệt chú trọng nhiệm vụ diệt giặc dốt và giáo dục nhân dân. Thực hiện lời
kêu gọi diệt giặc dốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào bình dân học vụ
được triển khai sâu rộng trong toàn quốc: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho
những người chưa biết chữ,... Vợ chưa biết thì chồng bảo,... cha mẹ không biết


thì con bảo”. Học chữ trở thành phong trào rộng lớn chưa từng có, lơi cuốn đơng
đảo nhân dân thuộc các giới, lứa tuổi khắp nơi trên cả nước tích cực tham gia.
Kết quả là, chỉ trong một thời gian ngắn, cả nước có hơn hai triệu người biết
đọc, biết viết. Bên cạnh đó, cơng tác văn hóa, giáo dục cũng được chính quyền
mới đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Phong trào
đời sống mới đã xóa bỏ những tệ nạn, hủ tục lạc hâu, tàn dư chế độ cũ, nâng cao
dân trí, chấn hưng dân khí, bồi dưỡng tinh thần, ý thức cơng dân của người dân
một nước độc lập. Lịng dân quy tụ về một mối, đoàn kết toàn dân tộc trở thành
sức mạnh vô biên, đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Người hướng dẫn, động viên
nhân dân đoàn kết cùng nhau xây dựng “đời sống mới” tồn diện.
Theo Hồ Chí Minh, để chăm lo tốt cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
trước hết là việc xây dựng nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Để Nhà nước giữ vững bản chất nhân dân, làm tròn nhiệm vụ quản lý xã hội, tổ
chức xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành cơng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký
Sắc lệnh về Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội lập hiến, thông qua Hiến pháp,
khẳng định quyền làm chủ đất nước và các quyền tự do, dân chủ khác của nhân
dân. Đồng thời, Người xây dựng và chấn chỉnh bộ máy chính quyền các cấp,
bảo đảm là hạt nhân chính trị chế độ xã hội mới với bản chất tốt đẹp.
Chính phong trào do nhân dân thực hiện trên các lĩnh vực đã khẳng định vị trí là
chủ và làm chủ của mỗi người dân trong một quốc gia độc lập và điều đó tạo ra

sức mạnh tổng hợp vô cùng lớn lao đưa cách mạng Việt Nam vượt qua thác
ghềnh hiểm nghèo để tiến lên.
Người nhắc nhở “Các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều
là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè
đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải
u dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Với tinh thần này, nhân dân thực
sự được coi trọng và thực sự là chủ trong công cuộc xây dựng xã hội mới.
- Bệnh viện
. Lãnh đạo có biện pháp tích cực giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, có ý thức và thái độ đúng đắn với


nhân dân, yêu thương, gần gũi, tôn trọng, lắng nghe nhân dân; có chương trình,
kế hoạch tiếp dân, giải quyết tốt các đơn, thư khiếu tố, các yêu cầu, nguyện vọng
chính đáng của dân; trừng trị nghiêm minh, thích đáng những hiện tượng trù
dập, ức hiếp quần chúng.
. Tận tâm và nhiệt tình với người bệnh.

- Giải pháp nào?
Để người bệnh thật sự hài lòng khi vào bệnh viện, các cơ sở y tế phải khởi đầu
từ việc đổi mới phong cách, thái độ của cán bộ, nhân viên y tế. Muốn thực hiện
được vấn đề này, cần có những giải pháp cụ thể như: tận tâm và nhiệt tình với
người bệnh, nâng cao kỹ năng giao tiếp và ứng xử, cung cấp các thông tin đầy
đủ và cần thiết, bảo đảm sự công bằng và minh bạch, bảo đảm an toàn cho người
bệnh, giảm bớt thời gian chờ đợi.

Giúp đỡ, hướng dẫn, chỉ đường cho người bệnh là trách nhiệm của nhân viên y
tế
Tận tâm và nhiệt tình với người bệnh: đây là một yêu cầu khách quan không thể

thiếu khi người bệnh vào bệnh viện vì cả bệnh nhân lẫn người nhà bệnh nhân
đều mong muốn được bác sĩ cũng như các nhân viên y tế tiếp đón niềm nở và
tận tình. Để bảo đảm được yêu cầu dẫn đến sự hài lòng của người bệnh, bác sĩ
và nhân viên y tế nên chủ động giới thiệu về bản thân mình đối với bệnh nhân,
người nhà bệnh nhân ngay khi bệnh nhân mới nhập viện; đồng thời nêu rõ quan
điểm phục vụ của bệnh viện là luôn cố gắng tạo mọi điều kiện để người bệnh
được điều trị và chăm sóc tốt nhất. Điều cần lưu ý là bác sĩ điều trị, nhân viên y
tế trực tiếp chăm sóc người bệnh cần nhớ tên bệnh nhân và diễn biến bệnh lý
hàng ngày, nên cư xử và xưng hô một cách phù hợp với người bệnh; đồng thời
cũng nên dùng thời gian cần thiết mỗi ngày để tiếp xúc, nói chuyện với người
bệnh ngồi nhiệm vụ khám chữa bệnh và chăm sóc bệnh nhân.


Nâng cao kỹ năng giao tiếp và ứng xử: khi vào bệnh viện để điều trị, người bệnh
và người nhà bệnh nhân thường đánh giá chất lượng dịch vụ y tế chủ yếu qua
cách thức khám chữa bệnh và chăm sóc người bệnh. Để nâng cao việc giao tiếp
và ứng xử đối với bệnh nhân, người nhà bệnh nhân có hiệu quả; bác sĩ và nhân
viên y tế cần có các kỹ năng cần thiết như: sử dụng giao tiếp không lời với biểu
hiện về nét mặt, cử chỉ, hành động thân thiện sẽ có tác dụng gây nên những ấn
tượng quan trọng cho người bệnh và người nhà bệnh nhân, cách thức này
thường được gọi là ngơn ngữ hình thể; sử dụng từ ngữ và giọng nói phù hợp vì
ngữ điệu lời nói của bác sĩ, nhân viên y tế có tác động rất mạnh đến sự cảm nhận
của người bệnh và người nhà bệnh nhân, thực tế ghi nhận người bệnh và người
nhà bệnh nhân có thể quên đi lời nói nhưng rất khó quên đi giọng nói và hành vi
của bác sĩ, nhân viên y tế. Bác sĩ, nhân viên y tế cần đồng cảm với những lo lắng
của người bệnh và người nhà bệnh nhân khi họ thấy bệnh khơng khỏi hoặc thấy
có biến chứng xảy ra nặng hơn. Phải giải thích rõ ràng, thấu đáo khi người bệnh,
người nhà bệnh nhân có sự than phiền hoặc thấy các tai biến xảy ra vì sự giải
thích và đồng cảm của bác sĩ, nhân viên y tế về những tai biến hoặc biến chứng
sẽ làm cho người bệnh, người nhà bệnh nhân hiểu biết rõ hơn để giảm đi ý nghĩ

hoặc từ bỏ ý định thắc mắc và khiếu kiện. Trong một số trường hợp, bác sĩ và
nhân viên y tế có thể cung cấp thơng tin về việc điều trị không đáp ứng hiệu quả
cho người bệnh, người nhà bệnh nhân một cách kịp thời nhưng lưu ý phải chuẩn
bị tinh thần cho họ đầy đủ trước khi cung cấp thông tin xấu liên quan đến sức
khỏe cũng như tính mạng của người bệnh; hết sức tránh việc cung cấp thông tin
xấu một cách đột ngột vì có thể gây nên tình trạng sốc và khủng hoảng tinh thần
cho người bệnh cũng như người nhà bệnh nhân. Đồng thời, nên quan tâm không
được để người bệnh xuất viện khi còn những vấn đề bức xúc chưa được giải
quyết một cách thỏa đáng vì những gì xảy ra trong q trình điều trị, chăm sóc
tại bệnh viện sẽ dẫn đến những cảm nhận tốt hay xấu của người bệnh, người nhà
bệnh nhân lúc ra viện; hình ảnh thân thiện của bệnh viện sẽ tăng lên hay giảm đi
và người bệnh, người nhà bệnh nhân có hài lịng hay không khi xuất viện sẽ tùy
thuộc vào những vấn đề bức xúc, tồn tại, vướng mắc đã được giải quyết một
cách thỏa đáng hay chưa.
Cung cấp các thông tin đầy đủ và cần thiết: trong quá trình khám chữa bệnh,
bác sĩ và nhân viên y tế có trách nhiệm cung cấp một số thông tin cần thiết,
trung thực cho người bệnh, người nhà bệnh nhân một cách đúng lúc và đúng


mức; khơng nên chủ quan nói tốt về sự chữa trị bệnh thành cơng khi chưa có cơ
sở và ngược lại cũng khơng nên nói xấu về khả năng nguy cơ trầm trọng xảy ra
làm cho người bệnh hoang mang. Những thông tin người bệnh, người nhà bệnh
nhân cần được biết là kết quả chẩn đoán bệnh, phương pháp điều trị, các thủ
thuật và phẫu thuật can thiệp, cách chăm sóc và theo dõi thực hiện trên người
bệnh, thuốc điều trị hàng ngày, diễn biến và tiến triển của bệnh nhân, chi phí
khám chữa bệnh, quyền lợi và nghĩa vụ của người bệnh khi điều trị tại bệnh
viện. Nhân viên y tế cần lưu ý cung cấp thông tin cần thiết cho người bệnh trong
suốt quá trình làm thủ thuật, đặc biệt là những thời điểm quan trọng của các
bước thủ thuật thực hiện. Khi bệnh nhân xuất viện, bác sĩ và nhân viên y tế
hướng dẫn cụ thể cho người bệnh, người nhà bệnh nhân theo dõi những biến

chứng có thể xảy ra như: cơn đau, tình trạng nhiễm trùng, hạn chế vận động,
cách dùng thuốc, chế độ ăn, hẹn thời gian tái khám; đồng thời cung cấp cho
người bệnh số điện thoại để liên hệ nếu phát hiện có những dấu hiệu bất thường
và nặng cần phải đến bệnh viện sớm để tái khám.
Bảo đảm sự công bằng và minh bạch: để bảo đảm sự công bằng và minh bạch
trong công tác khám chữa bệnh, bác sĩ và nhân viên y tế phải ln tơn trọng tính
ngun tắc người bệnh đến trước phải phục vụ trước, người bệnh đến sau được
phục vụ sau; trừ những trường hợp cần phải xử trí cấp cứu. Nhân viên y tế phải
bảo đảm sự cơng bằng, minh bạch trong việc bố trí, sắp xếp phòng bệnh, giường
bệnh cho người bệnh một cách hợp lý và vô tư. Bác sĩ trưởng khoa cũng phải
bảo đảm tính cơng bằng, minh bạch trong việc phân cơng bác sĩ có trình độ
chun mơn, tay nghề cao để giải quyết các kỹ thuật, thủ thuật phức tạp cho
bệnh nhân mà không phân biệt đối xử do khả năng thanh tốn chi trả viện phí
của người bệnh. Đối với những bệnh nhân có tham gia bảo hiểm y tế, nhân viên
y tế nên giải thích cơng khai cho người bệnh những dịch vụ bảo hiểm y tế không
được cơ quan bảo hiểm y tế thanh toán chi trả để người bệnh và người nhà bệnh
nhân lựa chọn; lưu ý khơng được vì những thủ tục hành chính mà làm chậm trễ
việc khám chữa bệnh của bệnh nhân, gây nên sự phiền hà khơng đáng có.
Bảo đảm an tồn cho người bệnh: trong quá trình khám chữa bệnh, việc bảo
đảm an toàn cho người bệnh là nguyên tắc hàng đầu của các cơ sở điều trị,
chúng góp phần quyết định đánh giá chất lượng bệnh viện. Trên thực tế q trình
điều trị và chăm sóc người bệnh thường có thể xảy ra những sự cố và tai biến y


khoa không mong muốn với khả năng đe dọa sức khỏe và tính mạng người
bệnh. Do đó, bác sĩ và nhân viên y tế tại các cơ sở khám chữa bệnh phải ln
ln cảnh giác, lưu ý vì vấn đề an toàn cho người bệnh là mục tiêu quan trọng
trong thực hành chuyên môn và quản lý chất lượng bệnh viện đang được quan
tâm hiện nay. Thường người bệnh và người nhà bệnh nhân không phân biệt được
nguyên nhân của các tai biến y khoa, biến chứng xảy ra do ngẫu nhiên hay hạn

chế của y học mà thường nghĩ là do cách xử trí biện pháp khơng đúng, tiên
lượng về bệnh kém. Vì vậy, bệnh viện cũng cần nghiêm túc kiểm điểm, đánh giá
khi xảy ra các tai biến y khoa, biến chứng gây nên đối với người bệnh để xác
định nguyên nhân cụ thể. Trên cơ sở này, phải xin lỗi người bệnh và người nhà
bệnh nhân vì những mặt hạn chế của việc tiên lượng bệnh không đúng, những
tai biến y khoa và biến chứng không mong muốn xảy ra do sự cố khách quan
của diễn biến bệnh lý. Việc xin lỗi có thể nói là một vấn đề văn hóa bệnh viện,
bác sĩ và nhân viên y tế thực hiện hành động này không phải là để thừa nhận sự
sai sót, khuyết điểm mà nhằm tạo nên sự đồng cảm, chia sẻ với những tổn thất,
mất mát của người bệnh và người nhà bệnh nhân do những mặt hạn chế khách
quan của bệnh viện cũng như y học bằng sự cảm thông.

Người bệnh luôn mong muốn sự tận tâm và nhiệt tình từ nhân viên y tế
Giảm bớt thời gian chờ đợi: để giảm bớt thời gian chờ đợi của người bệnh khi
đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện, việc cải cách những thủ tục hành chính
rất cần thiết được triển khai với mục tiêu đặt lợi ích của người bệnh lên trên hết
và lấy người bệnh làm trung tâm. Bệnh viện cải cách thủ tục hành chính để bảo
đảm việc giảm bớt thời gian chờ đợi của bệnh nhân bằng các biện pháp cụ thể
như: Tiếp nhận, sắp xếp, bố trí, quản lý người bệnh nhập viện theo hệ thống
công nghệ tin học và phần mềm quản lý vì sẽ làm giảm bớt những mặt hạn chế
phát sinh từ thủ tục hành chính trước đây. Cải tiến dây chuyền khám chữa bệnh
theo phương thức hành chính một cửa gồm bảng điện tử lấy số khám bệnh tự
động, phân công nhân viên y tế hướng dẫn người bệnh tại các khoa khám bệnh,
sắp xếp phòng xét nghiệm cận lâm sàng và nhà thuốc ngoại trú một cách hợp lý.
Lưu ý giảm bớt thời gian chờ đợi của người bệnh ở các giai đoạn chờ khám
bệnh, chờ làm xét nghiệm, chờ mua thuốc, chờ thanh toán viện phí... Xem xét
việc tăng thêm thời gian làm việc của khoa khám bệnh, sắp xếp thêm bộ phận


khám bệnh ngoài giờ nếu cần thiết. Nên thực hiện việc trả lời các kết quả xét

nghiệm nhiều lần trong ngày, hội chẩn và duyệt lịch phẫu thuật hàng ngày thay
cho hàng tuần, có thể tổ chức mổ phiên cả ngày thứ bảy; bố trí bộ phận thanh
tốn viện phí hoạt động thường xuyên hàng ngày kể cả ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ
lễ, nghỉ tết...



×