Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN CAO cấp CHÍNH TRỊ dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA và xây DỰNG nền dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY và THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN dân CHỦ tại đơn vị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.87 KB, 28 trang )

1

MBTH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ KHƠNG TẬP TRUNG

TÊN MƠN HỌC:
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
TÊN BÀI THU HOẠCH:
DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN VIỆC
THỰC HIỆN DÂN CHỦ TẠI ĐƠN VỊ
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số

Bằng chữ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


2

PHẦN I. MỞ ĐẦU

3


PHẦN II. NỘI DUNG

4

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA

4

1.1.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ

4

1.2.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về dân chủ xã hội
chủ nghĩa

4

1.3.

Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa

5

2


XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

7

2.1.

Những yếu tố tác động tới xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam

7

2.2.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về thực hiện dân chủ xã
hội chủ nghĩa

10

2.3.

Phương hướng và giải pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

11

3

LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở
ĐỊA PHƯƠNG, ĐƠN VỊ: (Công Ty TNHH MTV Cây

Trồng Tp Hồ Chí Minh)

19

3.1.

Những kết quả đạt được

19

3.2.

Những tồn tại hạn chế, nguyên nhân:

25

1

3.3.

Một số nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp thực hiện trong thời
gian tới

26

PHẦN III. KẾT LUẬN

27

TÀI LIỆU THAM KHẢO


28

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa


3

Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội
và quản lý đất nước; Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng
thời là người tổ chức và thực hiện đường lối chính trị của Đảng cầm quyền.
Mọi chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây
dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân khơng
chỉ có quyền mà cịn có trách nhiệm, khơng chỉ là người thụ hưởng mà cịn
góp phần tích cực, quan trọng vào việc xây dựng, hoạch định và thi hành các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Mỗi chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện ý chí,
lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Xác định các hình
thức tổ chức thích hợp với tình hình cơ cấu xã hội - giai cấp đang có sự thay
đổi sâu sắc, thu hút và tạo điều kiện cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân
tham gia các công việc chung của Đảng, của Nhà nước và xã hội. Xây dựng
và hoàn thiện các cơ chế nhằm tổ chức, thu hút và tạo điều kiện để nhân dân
được thụ hưởng và thực hiện các quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà
nước đối với công dân và ngược lại. Bộ máy Nhà nước, các thiết chế khác
trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ tổ chức thực hiện đường lối, chính sách

của Đảng, kiến nghị với Đảng về xây dựng và hoạch định chính sách. Các văn
kiện được Đại hội XIII của Đảng thông qua, chứa đựng nhiều điểm mới về lý
luận, phản ánh sự phát triển về năng lực tư duy lý luận của Đảng qua thực tiễn
35 năm đổi mới. Một trong những điểm mới nổi bật là nhận thức lý luận của
Đảng về dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta. Xuất phát từ lí
do này, học viên chọn đề tài: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch môn Chủ
nghĩa xã hội khoa học.


4

PHẦN II: NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ
Dân chủ ra đời vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII-V trước Công nguyên
của quốc gia Hy Lạp cổ đại. Nó được hiểu theo nghĩa gốc là quyền lực thuộc
về nhân dân.Với nghĩa này, dân chủ được xem là một hình thức tổ chức nhà
nước, một kiểu chế độ chính trị - xã hội, trong đó thừa nhận về mặt pháp lý
nhân dân là chủ thể của quyền lực, quyền lực thuộc về nhân dân. Quyền lực
này được nhân dân trao cho nhà nước thông qua cơ chế bầu cử, nghĩa là nhân
dân có quyền bầu và bãi miễn các thiết chế của nhà nước. Như vậy, dân chủ là
quyền lực thuộc về đa số nhân dân chứ không phải của thiểu số, như V.I. Lê
Nin đã từng nói “Dân chủ là sự thống trị của đa số”, và thông qua dân chủ,
nhân dân tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào công việc quản lý nhà nước,
quản lý xã hội để thực hiện sự thống trị của mình.
Hiện nay, khái niệm dân chủ có thể được hiểu dưới nhiều khía cạnh, góc
độ khác nhau, phản ánh sự đa dạng và phức tạp của vấn đề dân chủ trong quá
trình phát triển của xã hội loài người.
1.2.Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về dân chủ xã hội chủ

nghĩa
Từ nghiên cứu lịch sử hình thành các chế độ dân chủ từ cộng sản nguyên
thủy đến xã hội chủ nghĩa, có thể thấy rằng, dân chủ sẽ đạt đến những nấc
thang phát triển của nó, tương ứng với những trình độ sản xuất và văn minh
xã hội. Do đó, chế độ dân chủ tư sản mặc dù là một bước tiến lớn góp phần
tạo động lực cho sự phát triển toàn diện của chủ nghĩa tư bản và cũng là thành
quả chung của loài người trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên, chế độ dân chủ
tư sản vẫn dựa trên cơ sở chế độ tư hữu, chế độ người bóc lột người, trên cơ
sở đối kháng giai cấp. Chế độ dân chủ đó chủ yếu vẫn là chế độ dân chủ của
thiểu số, của giai cấp tư sản. Theo C.Mac, Ph.Ăngghen và Lênin thì đó là dân
chủ hình thức, dân chủ khơng triệt để.


5

Để tiến tới một chế độ dân chủ triệt để, tất yếu phải gạt giai cấp tư sản ra
khỏi vị trí cầm quyền. Chỉ dưới sự lãnh đạo của giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động mới có thể thực hiện được nhiệm vụ này và chỉ có đi theo con đường
dẫn tới chủ nghĩa xã hội, nhân dân lao động mới giải quyết triệt để những yêu
cầu dân chủ chính đáng của mình. Chỉ bằng cách đó, một chế độ dân chủ mới,
cao hơn về chất so với chế độ dân chủ tư sản đó là chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ở xã hội cộng sản văn
minh, khi mà nền sản xuất vật chất đạt đến trình độ cao thì khơng cịn nhà
nước, khơng cịn giai cấp và đấu tranh giai cấp nữa, khi ấy dân chủ sẽ tự tiêu
vong.
Như vậy, có thể hiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ đã được
xác lập ở các nước đã hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ và bắt đầu tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là
quyền dân chủ của công dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội.

1.3. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa
- Bản chất chính trị: Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của
giai cấp cơng nhân, phục vụ lợi ích cho giai cấp công nhân và đa số nhân dân
lao động. Đây là chế độ dân chủ mà trên mọi lĩnh vực đều thực hiện quyền
lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, quyền con người và quyền
công dân, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân
dân. V.I. LêNin nhấn mạnh rằng “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ
của đại đa số dân cư, của những người lao động bị bóc lột, là chế độ mà nhân
dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào công việc Nhà nước”.
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo là yếu tố
quan trọng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, bởi vì Đảng
Cộng sản đại biểu cho trí tuệ, lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động và tồn dân tộc. Đảm bảo sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản cũng
chính là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của chế độ dân chủ xã


6

hội chủ nghĩa. Với nghĩa này, dân chủ xã hội chủ nghĩa mang tính nhất
nguyên về chính trị.
- Bản chất kinh tế: Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa hình thành và phát
triển trên nền tảng chế độ cơng hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu của
toàn xã hội, đáp ứng ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở
khoa học – công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu
về vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Đây là cơ sở kinh tế
để đảm bảo cho chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ của giai cấp công
nhân và đa số nhân dân lao động.
- Bản chất tư tưởng – văn hóa: Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ
tư tưởng Mác – Lênin – hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân làm chủ đạo đối
với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học nghệ

thuật, giáo dục, đạo đức, văn hóa, tôn giáo,…). Đồng thời chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa cũng kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống
của các dân tộc; tiếp thu những giá trị tư tưởng – văn hóa, văn minh, tiến bộ
xã hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc. Trong chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân làm chủ những giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa; được nâng cao trình
độ văn hóa, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân.
2. XÂY DỰNG VÀ HỒN THIỆN CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
2.1.1. Những yếu tố thuận lợi
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ra đời từ khi giai cấp công
nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, là kết quả trực tiếp của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và phát triển trong những điều kiện
kinh tế, xã hội đặc biệt. Bước vào xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có những thuận lợi cơ bản:
Một là, học thuyết Mác – Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa là
cơ sở lý luận và phương pháp luận để xây dựng nền dân chủ và thực hiện quá


7

trình dân chủ hóa ở Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; góp phần xây dựng nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Hai là, kế tục những giá trị của dân chủ trong lịch sử Việt Nam đã được
xây dựng ngay từ buổi đầu dựng nước và nâng lên một chất lượng mới trong
thời đại Hồ Chí Minh. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
đất nước độc lập, thống nhất, nhân dân được tự do và trở thành người chủ đất

nước, được tự quyết định vận mệnh và tương lai của mình.
Ba là, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, từ một nước
thuộc địa nửa phong kiến nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa đã mang lại nhiều thuận lợi rất quan trọng khi xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bỏ qua sự thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, quan hệ người bóc lột người; bỏ qua sự thống trị của một nhóm người
đối với đa số nhân dân lao động.
Bốn là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xây dựng trong
điều kiện có Đảng Cộng sản do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, là đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
Kế tục tư tưởng vì dân của Hồ Chí Minh, Đảng ta chủ trương xây dựng
chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước ta thừa nhận nhân dân là cội
nguồn của quyền lực, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Hệ thống chính trị
gồm Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội
được thiết lập từ trung ương tới địa phương là cơ sở bảo đảm cho việc xây
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang
xây dựng là lực lượng đông đảo những người lao động được giải phóng đã vào
vị trí người chủ của chế độ mới, nòng cốt là khối liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đây chính là những cơ sở quan trọng,


8

những thuận lợi cơ bản trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
2.1.2. Những khó khăn thử thách

Một là, vốn là một nước thuộc địa nửa phong kiến, những thành quả mà
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đem lại là một bước ngoặt lớn lao
trong việc hình thành và phát triển nền dân chủ ở nước ta. Song một đất nước
vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp cơng nhân đang lãnh
đạo chính quyền phần lớn đều xuất thân từ nơng dân, vì thế khơng tránh khỏi
bị ảnh hưởng bởi những tàn tích tư tưởng tiểu nơng, sản xuất nhỏ.
Hai là, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, bên
cạnh những thuận lợi nêu trên, cũng có nghĩa là xã hội nước ta chưa trải qua
nền dân chủ tư sản có lịch sử từ nhiều thế kỷ xây dựng và phát triển, với pháp
quyền tư sản, nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Nền dân chủ tư sản
dù mang bản chất tư sản, dù phục vụ chủ yếu cho giai cấp tư sản thống trị,
nhưng nó cũng tạo ra mơi trường đào luyện con người ngày càng ý thức được
vai trò của cá nhân, tầm quan trọng của học vấn, học thức và văn hố đối với
sự phát triển. Mơi trường xã hội đó cũng rèn luyện cho con người những thói
quen, những năng lực cần thiết thích ứng với những đòi hỏi pháp lý và nhân
văn của dân chủ.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản, việc xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta gặp phải khơng ít những khó khăn trở
ngại. Ý thức hệ phong kiến cịn ăn sâu vào xã hội, một xã hội mà nơng dân
cịn chiếm đa số trong dân cư; một xã hội nông nghiệp cổ truyền lạc hậu, lực
lượng sản xuất chưa phát triển, phân cơng lao động trong xã hội cịn giản đơn
và hạn chế. Tàn tích của ý thức hệ phong kiến của người nông dân với những
hạn chế như: tâm lý cục bộ địa phương; tư tưởng cào bằng, đẳng cấp; dân chủ
tự phát ... dễ làm triệt tiêu tính tích cực cá nhân, triệt tiêu động lực phát triển.
Khơng qua chế độ tư bản chủ nghĩa, Việt Nam thiếu tri thức khoa học và kinh
nghiệm quản lý hiện đại. Nguồn nhân lực của chúng ta bị hạn chế về sự am
hiểu, tinh thông nghiệp vụ, chuyên môn do chưa có chun mơn hố sâu. Cùng
với hạn chế đó, mặt bằng dân trí của xã hội cịn thấp, kết cấu hạ tầng vật chất -



9

kỹ thuật còn rất lạc hậu và chậm phát triển, thơng tin đến với người dân cịn
chậm và khơng đầy đủ, nhất là ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc
miền núi, vùng hẻo lánh xa xôi.
Ba là, cùng với những hạn chế do nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, sự tác động của cơ chế thị trường, sự đan xen giữa cái mới
và cái cũ làm nảy sinh nhiều vật cản trên con đường tiến tới nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Những vật cản trở đó là: Trình độ phát triển dân chủ còn thấp
và chưa đầy đủ, hệ thống pháp luật thiếu và không đồng bộ, chưa tạo ra được
khung pháp lý và cơ chế đủ mạnh để thực hiện dân chủ. Sự suy thoái, biến
chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên kể cả những người có
chức quyền; tệ tham nhũng, bn lậu đã trở thành quốc nạn. Bệnh quan liêu
diễn ra khá phổ biến ở các cấp, các ngành đã gây nỗi bất bình trong các tầng
lớp nhân dân. Nhiều luật được ban hành nhưng việc chấp hành luật không
nghiêm từ một bộ phận công dân, việc thi hành luật không công minh của một
bộ phận cán bộ trong các cơ quan hành pháp và tư pháp đã làm cho hoạt động
của bộ máy Nhà nước kém hiệu lực và hiệu quả. Tệ ô dù bao che cho kẻ xấu,
khiếu kiện của người dân chưa được xem xét đầy đủ và kịp thời đã làm giảm
lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ, tình trạng ấy sẽ làm cho dân chủ biến thành "Quan chủ", quyền được
uỷ thác đã biến thành quyền bị chiếm đoạt, quyền làm chủ của nhân dân đã
biến thành quyền của những ai nắm được chức quyền. Tất cả những khó khăn
đó gây ảnh hưởng khơng nhỏ tới việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
2.2.Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa
Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã nhất quán chủ trương,
đường lối trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc phải xây dựng và
phát triển chế độ dân chủ nhân dân mà mục tiêu cốt lõi của nó là “Độc lập

dân tộc, người cày có ruộng” và thực hiện quyền phổ thơng đầu phiếu trong


10

lĩnh vực chính trị. Đến Cương lĩnh dựng đất nước trong thời là quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định rõ: “Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi
cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật kỷ cương và phải
được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Đại hội XI của Đảng đã khẳng định mục tiêu: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...”. Trong đó có hai điểm mới quan
trọng được bổ sung và phát triển so với Nghị quyết Đại hội X của Đảng: đó
là, đưa cụm từ dân chủ lên trước cụm từ công bằng, văn minh.
Đại hội XII xác định rõ: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa,bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải
được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra
những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân” [2, tr.38],
thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân”.
Tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân
dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc
biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết,

dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Đề cao vai trị
chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước,
trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. [3, tr.172-173]
2.3. Phương hướng và giải pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay


11

2.3.1. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
Thứ nhất: Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hệ thống quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa; kinh nghiệm xây
dựng nền dân chủ ở các quốc gia trên thế giới. Một mặt phải nghiên cứu sâu,
có tính hệ thống lý luận về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa trong kho tàng chủ
nghĩa Mác – Lênin, mặt khác, làm rõ giá trị hợp lý của các nền dân chủ khác để
kế thừa, học hỏi.
Đánh giá khách quan thành tựu dân chủ tư sản, tính chất, trình độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
cơ sở khoa học để tiếp thu có chọn lọc các giá trị dân chủ của nhân loại được
biểu hiện trong chủ nghĩa tư bản. Phải làm rõ sự phát triển trình độ dân chủ
của văn minh nhân loại được biểu hiện ở chủ nghĩa tư bản chứ không phải là
sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Một số giá trị của dân chủ tư sản cần
thiết cho thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Việt Nam
không tiếp thu bản chất giai cấp của dân chủ tư sản, nhưng tiếp thu, học tập
các hình thức thực hiện để đảm bảo quyền lực nhà nước thực sự thuộc về
nhân dân.
Thứ hai: Trong nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, cần phân biệt
dân chủ xã hội chủ nghĩa với tư cách là chế độ dân chủ đầy đủ của chế độ xã
hội chủ nghĩa đã phát triển tương đối toàn diện với dân chủ trong giai đoạn

(thời kỳ) quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là hai trình độ phát triển khác nhau
của xã hội, với các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội khác nhau. Do
đó, đặc điểm, tính chất, hình thức thực hiện cũng khác nhau. Trong thời kỳ
quá độ, nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, cơ cấu xã hội, quan
hệ giai cấp đa dạng, phức tạp; từ đó cũng dẫn đến sự đa dạng về nhu cầu dân
chủ.
Thứ ba: Cần hiểu đúng bản chất của mối quan hệ dân chủ và nhất
nguyên chính trị, thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng lãnh đạo.
Hiện nay khơng ít ý kiến cho rằng ở Việt Nam phải đa đảng mới có dân
chủ. Họ viện dẫn rằng do kinh tế có nhiều thành phần thì chính trị phải có đa


12

đảng. Việc xem xét mối quan hệ giữa kinh tế nhiều thành phần với kết cấu
kiến trúc thượng tầng chính trị, có thể khẳng định rằng nền kinh tế nhiều
thành phần không nhất thiết (không tất yếu) dẫn đến kiến trúc thượng tầng
chính trị đa đảng, có đảng đối lập, bởi vì, trong thực tế lịch sử đã có những thời
kỳ nền kinh tế nhiều thành phần không làm nảy sinh chế độ chính trị đa đảng.
Vấn đề đa đảng hay một đảng là tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của mỗi nước trong từng giai đoạn, vai trò của từng thành phần kinh tế trong
đời sống xã hội, tương quan lực lượng giai cấp, quy định của Hiến pháp và
pháp luật của mỗi nước, uy tín và sức mạnh của đảng cầm quyền, quan niệm
về dân chủ và ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài, v.v... Tính nhất nguyên
chính trị được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng
duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ
thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng mà thể hiện ở việc đảng cầm quyền
đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực nhà nước vào những mục đích
gì trên thực tế. Khơng nên chỉ xem xét chế độ đa đảng hay một đảng làm căn
cứ duy nhất để đánh giá tính chất và trình độ của dân chủ.

2.3.2. Giải pháp cơ bản xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay
2.3.2.1. Xây dựng mơ hình dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên
ba trụ cột chính: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các tổ chức xã hội tự nguyện, hợp pháp của
nhân dân.
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
- Thể chế hóa quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức
sở hữu, thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế. Xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối
với các tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu… quy định rõ,
quyền trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.


13

- Thể chế môi trường kinh doanh cũng như thể chế kinh tế nói chung
chỉ phát huy tác dụng có hiệu quả khi tạo được sự đổi mới triệt để nhận thức
đúng đắn của xã hội về vai trò quan trọng của thể chế. Đồng thời, xây dựng và
hoàn thiện thể chế phải được tiến hành đồng bộ cả ba khâu: i) ban hành văn
bản, quy định của thể chế; ii) xây dựng cơ chế vận hành, thực thi thể chế
trong hoạt động kinh doanh cụ thể; iii) hoàn thiện tổ chức bộ máy theo dõi,
giám sát việc thi hành thể chế, xử lý vi phạm và tranh chấp trong thực thi thể
chế. Trong khi triển khai đồng bộ thể chế môi trường kinh doanh phải tập
trung cải cách hành chính, từ bộ máy hành chính đến thủ tục hành chính để
tạo mơi trường kinh doanh thuận lợi đúng pháp luật.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Sớm

hình thành việc rà sốt, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh
doanh phù hợp với Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, để hồn thiện thể chế
mơi trường kinh doanh dân chủ, cần tập trung khắc phục thực trạng yếu kém
của một số văn bản luật pháp. Đổi mới, hoàn thiện các quy định về giá, cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền, về ký kết, thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh
chấp. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Thứ hai, xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân
- Xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp luật làm cơng cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội cơ bản. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước
hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể,
tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống. Tăng tính ổn định, bền vững của
pháp luật.
- Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là biện pháp để
hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền và là cơ sở khách quan yêu cầu phải có cơ
chế, phương thức kiểm sốt, giám sát quyền lực nhà nước. Kiểm soát, giám
sát cả từ các nhánh quyền lực lẫn nhau, cả từ nhân dân và các tổ chức của
nhân dân. Ở đây, nhân dân vừa ủy quyền, vừa kiểm soát, đánh giá hiệu lực,
hiệu quả việc thực hiện các quyền mà mình đã ủy thác.


14

Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, áp dụng các hình
thức thưởng phạt nghiêm minh đối với người được ủy quyền. Cán bộ, công
chức cần được giáo dục tốt, nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ; vinh
dự với vị trí cơng tác của mình được nhân dân giao phó, lường trước được hậu
quả bất lợi khi vi phạm lợi ích chính đáng của nhân dân... để họ có năng lực
tự điều chỉnh hành vi, thực hiện đúng chức trách được giao, phục vụ lợi ích
của nhân dân.

- Hoàn thiện thể chế bầu cử theo nguyên tắc dân chủ. Bầu cử là phương
thức để quyền lực nhà nước được thiết lập bởi nhân dân và nhân dân tự thực
hiện sự ủy quyền của mình. Bầu cử có liên hệ mật thiết với dân chủ, bầu cử tự
do và công bằng là phương thức bảo đảm cho việc tôn trọng các quyền tự do,
dân chủ. Trong một nền dân chủ, quyền lực nhà nước chỉ được thực thi khi có
sự nhất trí của người dân. Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền
lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do, công bằng.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, quyền bầu cử phải gắn chặt với
quyền bãi miễn đại biểu khi không cịn xứng đáng – đó là phương thức hữu
hiệu để kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Phát huy dân chủ, thực hiện cạnh tranh trong bầu, bổ nhiệm cán bộ.
Về ngun tắc, ở Việt Nam khơng có sự cạnh tranh đảng phái, nhưng cần thiết
có sự cạnh tranh giữa các đảng viên trong việc tranh cử vào các vị trí lãnh đạo
của Đảng ở các cấp; cạnh tranh giữa đảng viên với người khơng phải đảng
viên vào vị trí lãnh đạo một số cơ quan nhà nước các cấp. Cạnh tranh là một
hình thức biểu hiện cụ thể, sinh động của dân chủ. Có quy định cạnh tranh
cơng khai, minh bạch sẽ hạn chế tình trạng cạnh tranh khơng cơng khai, cạnh
tranh ngầm trong lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ. Cạnh tranh là hình thức phát
hiện và phát huy năng lực cán bộ tối ưu hơn sự phát hiện và giới thiệu của tổ
chức. Bởi, khi tổ chức giới thiệu nhân sự, cá nhân được giới thiệu khơng hồn
thành nhiệm vụ nhưng cả cá nhân và tổ chức không ai chịu trách nhiệm về sự
giới thiệu. Cịn khi có sự cạnh tranh, tự ứng cử, cá nhân ứng cử chịu trách
nhiệm trước tổ chức và cử tri về năng lực, hiệu quả hoạt động của mình. Mặt


15

khác, nhờ thực hiện cạnh tranh, tổ chức Đảng và nhân dân có cơ hội để kiểm
tra, giám sát tính hiệu quả trong hoạt động của các vị trí trên. Đây có thể coi
là hình thức mới của thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Không nên cho rằng, cạnh tranh sẽ dẫn đến mất đoàn kết, thống nhất trong
Đảng. Bởi, để cạnh tranh, Đảng cũng phải ban hành các quy chế, điều kiện cạnh
tranh. Cá nhân tham gia cạnh tranh phải tuân theo quy chế như điều lệ Đảng.
- Nghiên cứu phân định quyền lực chính trị của Đảng với quyền lực
công của Nhà nước và quyền lực tối cao của Nhân dân. Hiện nay, ngoài quyền
lực công của Nhà nước đã được quy định khá cụ thể trong Hiến pháp 2013 thì
quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực tối cao của Nhân dân chỉ được quy
định khá chung chung. Yêu cầu đặt ra phải xác định cụ thể, luật hóa nội dung,
phạm vi, phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò làm chủ của Nhân dân để
mỗi chủ thể thực hiện đúng vai trò của mình theo yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
- Tổng kết thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn để có thể nhân rộng những yếu tố hợp lý,
điều chỉnh những quy định không phù hợp. Hiện nay, cần tổng kết kinh
nghiệm thực hiện dân chủ ở cơ sở để mở rộng phạm vi, mức độ ở cấp cao
hơn, rộng hơn, nhất là trong thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân
- Hồn thiện thể chế chính trị đáp ứng u cầu của xây dựng, thực hiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong tình hình mới. Trước hết, phải
xây dựng một bộ máy nhà nước đủ mạnh để vận hành có hiệu quả các chuẩn
mực dân chủ đã được thể chế hố; có một đội ngũ cán bộ ngang tầm đòi hỏi
của một thể chế dân chủ, họ thực sự là những người gần dân, thân dân, vì dân.
Thứ ba, củng cố, phát triển cơ sở xã hội của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Hiện nay, trong các văn kiện, Đảng ta đã xác định cơ sở kinh tế, cơ sở
chính trị của dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vận
hành đồng bộ, cần thống nhất nhận thức cơ sở xã hội - đó là các tổ chức xã
hội tự nguyện, hợp pháp của nhân dân. Hình thức tồn tại của tổ chức này là
các hội, hiệp hội, câu lạc bộ, nhóm xã hội. Yêu cầu các tổ chức này không trái



16

với các quy định pháp luật, thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Chức năng
các tổ chức này vừa đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
vừa tham gia các hoạt động cộng đồng.
Có lộ trình cụ thể thể chế hóa các quyền tự do dân chủ trong Hiến pháp
2013 thành các quy định pháp luật cụ thể. Rút kinh nghiệm nhiều Hiến pháp
trước đây, có quy định về các quyền tự do, dân chủ của công dân, nhưng các
cơ quan nhà nước không thể chế hóa các quyền đó thành các luật cụ thể; từ đó,
người dân khơng được hưởng các quyền làm chủ trên thực tế.
2.3.2.2. Nâng cao dân trí, văn hóa pháp luật cho tồn thể xã hội (cán
bộ đảng viên, cơng chức, viên chức, nhân dân…).
Dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Trước hết, nhân dân cần hiểu
(nhận thức được) mình có những quyền gì cả ở tầm tổng qt, lâu dài, lẫn
quyền cụ thể. Đó mới là thơng tin về chủ thể. Để có dân chủ, cịn cần có thơng
tin về khách thể: đó là cái gì, tình hình gì đã diễn ra, sự biến đổi của tình hình
đó, tác động của sự biến đổi ấy tới môi trường xã hội và tự nhiên, những
thông tin khác nhau về các vấn đề đó. Đây chính là những thơng tin “đầu vào”
để chủ thể quyền lực – Nhân dân - có thể phân tích, phát hiện tình huống có
vấn đề nhằm tham gia giám sát, phản biện, đề xuất giải pháp...
Để dân “hiểu” rõ mọi vấn đề, họ cần có cơ hội tiếp cận thơng tin như
nhau, bình đẳng về thông tin (trừ những thông tin mật hoặc tuyệt mật) là điều
kiện đầu tiên bảo đảm dân chủ khi tranh luận, thảo luận, tham gia vào việc giải
quyết các vấn đề của cuộc sống. Muốn vậy, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước
là phải nâng cao dân trí, phải làm cho hoạt động của nhân dân mang tính tự
giác ngày càng cao thông qua công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục. Sức
mạnh thật sự của chế độ, của Đảng cầm quyền, của Nhà nước thể hiện ở trình
độ dân trí cao, xã hội năng động, người dân biết phát huy tối đa năng lực của
mình. Tất cả những điều đó chỉ trong chế độ dân chủ mới có khả năng tạo ra
được. Khơng dựa trên cơ chế dân chủ thì khơng có một thứ pháp luật, đạo đức

hay cơng cụ nào có thể ngăn chặn hữu hiệu sự thao túng của các nhóm lợi ích,
vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.


17

Chất lượng dân chủ của một xã hội phải được đo bằng sự chuẩn bị thông
tin, cung cấp thông tin đầy đủ cho nhân dân để nhân dân được biết. Khi dân trí
được nâng lên, nhân dân sẽ tham gia bàn bạc các công việc của xã hội, đất
nước.
2.3.2.3. Thực hành dân chủ trong Đảng làm trung tâm để thực hiện
dân chủ ngoài xã hội.
- Đảng cần tiếp tục đổi mới công tác lý luận, tư tưởng, tổ chức cán bộ,
kiểm tra, phương thức lãnh đạo theo hướng mở rộng dân chủ hơn nữa. Đảng
phải thường xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, chăm
lo công tác cán bộ; nâng cao trình độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận với
sức sáng tạo cao. Đường lối, chủ trương, chính sách phải ln ln xuất phát
từ lợi ích của nhân dân, khơng giáo điều, bảo thủ.
- Đảng phải thật sự thấm nhuần dân là gốc, dân là chủ và dân làm chủ;
tránh dân chủ hình thức. Đảng phải giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh
làm trong sạch Đảng và chống tham nhũng, lãng phí. Hiện nay, đang có
những biểu hiện tiêu cực xuất hiện trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày
càng nhiều, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, phá hoại
quan hệ máu thịt giữa Đảng và Nhân dân.
- Cùng với việc chủ động nâng cao đạo đức trong Đảng, phải rất coi
trọng việc nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng và thu hút được nhiều nhân
tài vào Đảng; đề phịng tính kiêu ngạo cộng sản, biết lắng nghe ý kiến, kể
cả những ý kiến trái tai.
- Thực hiện tốt “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm khơng ngừng nâng cao

đời sống của nhân dân”. Đây là điểm mấu chốt để tăng cường quan hệ máu
thịt giữa Đảng và Nhân dân.
3. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở ĐỊA
PHƯƠNG, ĐƠN VỊ: (Cơng Ty TNHH MTV Cây Trồng Tp Hồ Chí
Minh)
3.1. Những kết quả đạt được


18

Cơng Ty TNHH MTV Cây Trồng Tp Hồ Chí Minh là doanh nghiệp
Nhà nước trực thuộc trực thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.;
đ/c 2A41 Trần Văn Giàu , xã Phạm Văn Hai , Huyện Bình Chánh. Tổng số
cán bộ cơng nhân, lao động trong tồn Cơng ty là 326 người, trong đó lao
động nữ: 100 người. Công ty chuyên về lĩnh vực nông nghiệp, trồng cây công
nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, trồng rừng, sản xuất giống, phân bón hữu cơ…
chăn ni gia súc, gia cầm, thủy sản,...
Về cơ cấu tổ chức của Công ty bao gồm: Ban Giám đốc; 03 phòng chức
năng; Cơ quan; 04 đội sản xuất; Đảng bộ công ty được là tổ chức đảng cơ sở
bao gồm 4 chi bộ trực thuộc với 76 đảng viên. Các tổ chức chính trị xã hội tại
cơng ty bao gồm: ; Cơng đồn Cơ sở; Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh cơ sở, Hội phụ nữ cơ sở.
Ngày 09 tháng 5 năm 2018, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố
đã ký ban hành Quyết định số 1902/QĐ-UBND về việc Chuyển Công ty
TNHH một thành viên Cây trồng Thành phố 100% vốn nhà nước là công ty
thành viên trực thuộc Tổng Công ty Nơng nghiệp Sài Gịn - TNHH một thành
viên về làm doanh nghiệp trực thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của UBND
thành phố Hồ Chí Minh. Đảng bộ, Ban Giám đốc Cơng ty đã tích cực lãnh
đạo, chỉ đạo hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất kinh

doanh; ổn định đời sống, việc làm, thực hiện tốt các chế độ chính sách cho
cán bộ, đảng viên, công nhân, người lao động; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ quy
định của Nhà nước; làm tốt cơng tác dân chủ tại cơ sở; tích cực tham gia công
tác an sinh xã hội trong doanh nghiệp cũng như địa phương nơi đóng chân.
Qua đó từ đầu nhiệm kỳ tới nay, Đảng bộ công ty luôn được UBND thành phố
Hồ Chí Minh đánh giá hồn thành tốt nhiệm vụ. 2 năm liên tục 2019, 2020
Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh tiêu biểu; các đoàn thể đều đạt hồn thành
xuất sắc nhiệm vụ; đời sống cán bộ, cơng nhân người lao động ổn định, luôn
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng bộ Công ty, sự quản lý điều hành của Ban


19

giám đốc Công ty; chấp hành tốt các quy định của Nhà nước, của Công ty và
quy định của địa phương nơi cư trú.
Đạt được những thành tích trên ngồi những chủ trương đúng đắn, phù
hợp với tình hình thực tế là việc thực hiện thực sự rộng rãi quy chế dân chủ
trong tồn Cơng ty.
Xác định rõ quan điểm có dân chủ mới có đồng thuận, có đồng thuận
mới tạo ra sức mạnh đại đồn kết tồn Cơng ty, có sức mạnh đồn kết thì thực
hiện mọi nhiệm vụ đều thuận lợi, đều hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được
giao.
Trên cơ sở các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương, các Nghị định, quy
định của Chính phủ, các bộ, ngành của UBND thành phố Hồ Chí Min thực
hiện nhiệm vụ chính trị trong đó có việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đảng ủy, Ban Giám đốc Công ty tiếp tục xác định việc thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở là nhiệm vụ trọng tâm.
Hàng tháng, hàng quý các tổ chức đảng trong đảng bộ công ty đã chủ
động đưa vào Nghị quyết cũng như các cuộc họp, giao ban của Công ty, các
đoàn thể những nội dung về thực hiện quy chế dân chủ. Đảng ủy thường

xuyên chỉ đạo các chi bộ đưa công tác thực hiện Quy chế dân chủ vào nội
dung sinh hoạt định kỳ và coi đây là một nhiệm vụ thường xuyên để cho các
tổ chức đoàn thể tuyên truyền giáo dục và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
Chỉ đạo tổ chức tuyên truyền, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước về thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở: Quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận số 120-KL/TW,
ngày 07/01/2016 của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao
chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”;
quán triệt và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc Luật lao động mà trực tiếp là Nghị định
60/2013/NĐ-CP, Nghị định 149/2018/NĐ-CP và nay là Nghị định 145/2020/NĐCP về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở;


20

Đảng ủy công ty đã Chỉ đạo thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; rà soát, sửa đổi bổ sung Quy chế dân chủ tại
Doanh nghiệp phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Đặc biệt là
quy chế quản lý điều hành của Công ty, quy chế làm việc tại cơ quan, đơn vị.
Chỉ đạo Ủy ban kiểm tra Đảng ủy, Ban chỉ đạo Quy chế dân chủ của
Công ty, Ban thanh tra nhân dân đưa nội dung thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở vào chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của mình để thực hiện.
Chính vì vậy, trong những năm qua, kết quả thực hiện việc phát huy dân chủ
trong Đảng bộ công ty đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng.
Ngay sau đại hội Đảng bộ các nhiệm kỳ, Đảng ủy đã chủ động xây
dựng và ban hành quy chế làm việc của Đảng ủy khóa mới, phân cơng nhiệm
vụ cho từng đồng chí cấp ủy. Hằng tháng, quý tổ chức họp Ban chấp hành và
Ban chấp hành Đảng ủy mở rộng cũng như chỉ đạo các chi bộ tổ chức họp
định kỳ theo Điều lệ và theo quy chế hoạt động của chi bộ. Trong hội họp
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số

phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tập thể. Các Nghị quyết, chương trình, kế
hoạch đều dựa vào các chủ trương của cấp ủy cấp trên và tình hình thực tế của
đơn vị để đưa ra bàn bạc rồi biểu quyết thống nhất ban hành làm cơ sở chỉ đạo
chính quyền, các đồn thể, đơn vị và tồn thể cơng nhân lao động thực hiện.
Trong đó mỗi đồng chí cấp ủy, cán bộ, đảng viên đều có quyền thảo luận, tự
do trong tư tưởng, được khuyến khích và được tôn trọng sự suy nghĩ độc lập,
sáng tạo, thảo luận, tranh luận dân chủ nhằm phát huy trí tuệ của tập thể.
Chỉ đạo và tổ chức kiểm điểm tự phê bình và phê bình nghiêm túc,
cơng tác đánh giá xếp loại tổ chức đảng và đảng viên được thực hiện đúng
quy định của các cấp trên cơ sở khách quan, dân chủ, chân thành, cầu thị và
thực hiện bỏ phiếu kín những nội dung theo quy định kể cả công tác thi đua
khen thưởng.
Thực hiện Quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp giữa bí thư cấp ủy, tổ
chức đảng, Lãnh đạo Đảng ủy phân cơng các đồng chí thường trực định kỳ và
đột xuất tham gia các buổi tiếp xúc, đối thoại với công nhân lao động nhằm


21

nắm bắt và kịp thời chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể giải quyết các vấn đề
nổi cộm hoặc những nguyện vọng chính đáng của người lao động.
Để thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở các quy định hiện
hành và tình hình thực tế tại đơn vị, Ban Giám đốc đã quyết định ban hành
Ban Chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế làm việc của Ban
chỉ đạo, đặc biệt là ban hành quy chế dân chủ tại Công ty. Đồng thời thực hiện
sửa đổi bổ sung quy chế, kiện toàn Ban chỉ đạo theo các quy định pháp luật
mới cũng như công tác nhân sự tại Công ty.
Quyết định thành lập các ban, hội đồng Công ty (ban khoán, hội đồng
lương, các hội đồng, ban khác liên quan từng nhiệm vụ cụ thể) có đầy đủ
thành phần, cơ quan, phịng ban, đơn vị và đồn thể để đảm bảo khi quyết

sách các vấn đề được dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch; ban hành
và sửa đổi bổ sung quy chế quản lý điều hành của Công ty, quy chế chi tiêu
nội bộ làm cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện.
Thực hiện Kết luận của Trung ương, Nghị định 60/2013/NĐ-CP, Nghị
định 149/2018/NĐ-CP nay là Nghị định 145/2020/NĐ-CP về thực hiện Quy
chế dân chủ tại doanh nghiệp và các văn bản chỉ đạo của UBND thành phố
cũng như quy chế dân chủ tại công ty. Hằng năm, Đảng ủy đều chỉ đạo Công
ty phối hợp với Cơng đồn cơ sở chỉ đạo và tổ chức tốt Hội nghị người lao
động theo đúng nội dung, quy định từ cấp Tổ, đội sản xuất tới hội nghị đại
biểu Người lao động cấp Cơng ty.
Trong đó Cơng ty, Cơng đồn, Ban thanh tra nhân dân đã thực hiện
Cơng ty công khai kế hoạch và kết quả sản xuất kinh doanh của Cơng ty, việc
thực hiện chính sách về lương, thưởng, báo cáo tình hình thực hiện thỏa ước
lao động tập thể, hợp đồng lao động, việc thực hiện nội quy, quy chế của
doanh nghiệp,.... Đồng thời nắm bắt những tâm tư nguyện vọng, quyền, lợi
ích chính đáng của người lao động để tuyên truyền, giải thích, giải quyết dứt
điểm những ý kiến thắc mắc của công nhân, người lao động đảm bảo quyền
lợi chính đáng của người lao động. Sau khi được hội nghị thống nhất biểu
quyết thông qua, đại diện người sử dụng lao động và đại diện Ban chấp hành
Cơng đồn đã ký kết thỏa ước lao động tập thể, giao ước thi đua và nghị quyết


22

hội nghị làm cơ sở tổ chức thực hiện tại đơn vị cũng như báo cáo các cấp theo
quy định.
Việc thực hiện Quy chế dân chủ gắn với cải cách thủ tục hành chính
được Đảng ủy quan tâm lãnh đạo, Cơng ty tập trung đẩy mạnh việc thực hiện.
Trong đó chú trọng việc cơng khai, minh bạch các quy trình thực hiện thủ tục
hành chính; phân cơng nhiệm vụ cụ thể từng phòng ban, đơn vị, cá nhân phụ

trách từng phần việc đảm bảo không chồng chéo làm cơ sở cho việc giải
quyết công việc hằng ngày đối với các tổ chức, cá nhân tới liên hệ công tác
cũng như công nhân lao động tới làm việc được nhanh, gọn, đúng chun
mơn; từng phịng ban, cơ quan có treo bảng tên, mỗi cá nhân đều được trang
bị các thiết bị máy tính, thiết bị văn phịng có mạng internet, wifi phục vụ cho
công việc cũng như thực hiện chế độ báo cáo điện tử.
Thường xuyên quan tâm chỉ đạo cơ quan thực hiện giáo dục đạo đức
công vụ cho cán bộ chuyên môn, chấn chỉnh phon cách, lề lối làm việc, nâng
cao tinh thần trách nhiệm phục vụ người lao động; thực hiện tinh giản biên
chế cơ cấu lại đội ngũ cán bộ nội bộ. Đồng thời tổ chức tốt công tác đánh giá,
xếp loại cán bộ hằng năm.
Triển khai thực hiện xây dựng văn hóa nơi cơng sở, cơ quan sạch đẹp,
giao tiếp lịch thiệp. Kết quả nhiều năm Công ty được Ủy ban nhân dân huyện
công nhận là cơ quan văn hóa.
Đảng ủy, Ban giám đốc cơng ty TNHH MTV Cây Trồng Tp Hồ Chí
Minh đã tích cực, nỗ lực phát huy dân chủ trong các tổ chức đồn thể, tạo
nên bầu khơng khí tích cực, lành mạnh trong tồn đơn vị.
Đối với tổ chức Cơng đồn: Ban chấp hành Cơng đồn Cơng ty cơng ty
TNHH MTV Cây Trồng Tp Hồ Chí Minh do cơng nhân lao động trực tiếp bầu
ra, đại diện cho quyền lợi ích hợp pháp của người lao động đã tích cực trong
tham mưu và tham gia là một thành viên chủ đạo trong thực hiện Quy chế dân
chủ; Ban chấp hành Cơng đồn chủ động đề nghị với người sử dụng lao động
tham gia xây dựng các quy chế, quy định của Công ty. Trong đó tham gia với
người sử dụng lao động quy định chi tiết và quy định thêm các nội dung được
biết, được tham gia bàn bạc của người lao động như Nội quy, quy chế tuyển


23

dụng, sử dụng lao động, hợp đồng lao động, nâng lương, trang bị bảo hộ, quy

trình sản xuất, kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty, đơn vị, quy chế thu
hoạch, Đặc biệt trong việc tổ chức đối thoại định kỳ và tổ chức hội nghị người
lao động hằng năm Cơng đồn đã phối hợp với chun mơn xây dựng chương
trình, kế hoạch tổ chức, tham gia vào các văn bản trình hội nghị như thỏa ước
lao động tập thể, nội quy lao động, báo cáo kết quả và kế hoạch sản xuất kinh
doanh thời gian tiếp theo, trực tiếp cùng người sử dụng lao động là đồng chủ
trì các hội nghị, đại diện người lao động đề nghị người sử dụng lao động trả
lời những tâm tư nguyện vọng chính đáng của người lao động. Đồng thời đại
diện ký kết thỏa ước lao động tập thể, giao ước thi đua,…; thành lập Tổ tư
vấn pháp luật, thường xuyên tư vấn những vấn đề liên quan tới pháp luật lao
động cho công nhân lao động đảm bảo cho tập thể và cá nhân thực hiện đúng;
Tham gia cùng Công ty, Ban Thanh tra giải quyết những phát sinh, sự vụ nổi
cộm hoặc đơn thư nếu có đảm bảo khách quan, dân chủ, đúng pháp luật.
Ban Thanh tra nhân dân: Ban thanh tra nhân dân được trực tiếp người
lao động bầu tại hội nghị người lao động, Ban thanh tra có quy chế hoạt động,
tổ chức hội họp, sinh hoạt và tích cực trong cơng tác tham gia giám sát theo
Luật thanh tra và các văn bản hướng dẫn hiện hành. Hằng năm, quý, tháng
Ban thanh tra đều cử đại diện tham dự các hội nghị sơ, tổng kết của đơn vị,
Công ty và báo cáo kết quả hoạt động trước hội nghị người lao động; tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị và phối hợp giải quyết
những đơn thư khi cần. Là thành viên trong Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế
dân chủ tại cơng ty.
Nhìn chung, những năm qua thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trên
mọi mặt công tác từ chủ trương thực hiện Quy chế dân chủ của Đảng ủy và
thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, dân chủ trong các cơ quan chuyên môn,
đơn vị, dân chủ trong các đồn thể tới dân chủ trong tồn cơng ty TNHH
MTV Cây Trồng Tp Hồ Chí Minh. Từ đó quyền làm chủ của cán bộ, đảng
viên, công nhân, lao động trong tồn Cơng ty khơng ngừng được củng cố,
được quyền bầu ra tổ chức đại diện cho mình; người lao động được biết, được



24

bàn, được kiểm tra, giám sát và được thụ hưởng trên mọi phương diện từ lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội tới tư tưởng, tinh thần đã tạo ra tinh thần
đồn kết nhất trí trong tồn Cơng ty tạo động lực to lớn cùng Công ty vượt
qua nhiều khó khăn, xây dựng Cơng ty ổn định, phát triển, nâng cao đời sống
vật chất tinh thần của người lao động.
3.2. Những tồn tại hạn chế, nguyên nhân:
Là doanh nghiệp 100 vốn Nhà nước Công ty TNHH MTV Cây trồng
Thành phố được Nhà nước giao hơn 2.486ha nhưng quá trình quản lý, sử
dụng có thiếu sót, dẫn đến chưa phát huy hiệu quả sử dụng đất. Một số dự án
đầu tư xây dựng trên phần đất do đơn vị đã bàn giao, qua thanh tra đã phát
hiện nhiều sai phạm…; cịn có cán bộ chưa hiểu rõ hết tầm quan trong trong
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cũng như còn kiêm nhiệm nhiều chức
trách nhiệm vụ. Do đó việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có lúc, có nơi
chưa đảm bảo thời gian kế hoạch, chưa thực hiện đầy đủ nội dung quy định.
3.3.Một số nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp thực hiện trong thời gian
tới
Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các
nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Trung ương, các cấp ủy Đảng và các quy
định của pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ tại cơ sở. tuyên truyền, quán
triệt thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ của Công ty.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, cấp ủy chi bộ, trách
nhiệm của Ban Giám đốc, cá nhân các đồng chí cán bộ chủ chốt trong việc chỉ
đạo và tổ chức thực hiện quy chế tiếp xúc, đối thoại cũng như tập trung giải
quyết, khắc phục những vấn đề ngay từ cơ sở, đơn vị, tổ đội sản xuất không
để phát sinh những vấn đề bức xúc nổi cộm.
Duy trì hàng quý thực hiện tiếp xúc, đối thoại giữa Lãnh đạo Đảng ủy,
Ban Giám đốc với người lao động và đại diện người lao động theo quy định.

Trong đó làm tốt cơng tác nắm bắt thơng tin, tình hình diễn biến tư tưởng của
người lao động trước, trong và sau mỗi buổi tiếp xúc qua đó làm tốt cơng tác


25

chuẩn bị nội dung cho mỗi buổi đối thoại đảm bảo trọng tâm, trọng điểm và
nâng cao chất lượng tiếp xúc, đối thoại.
Chỉ đạo xử lý và đề xuất, kiến nghị cũng như phối hợp xử lý tốt các vấn
đề phát sinh sau mỗi buổi đối thoại nhất là những vấn đề bức xúc, nổi cộm.
Nghiêm túc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo việc thực hiện tiếp xúc,
đối thoại trực tiếp với người lao động theo quy định.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Dân chủ XHCN ở nước ta vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy địi hỏi tất cả quyền lực nhà
nước phải thuộc về nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã
chỉ rõ một trong những nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo đổi mới là xây dựng nền
dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa. Trong cương lĩnh
xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do đại hội Đảng tồn
quốc lần thứ VII thơng qua năm 1991 đã ghi: Dân chủ XHCN là bảo đảm mọi
quyền lực thuộc về nhân dân. Hiến pháp năm 1992 cũng khẳng định tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phải được thể chế hóa quyền lực đó
bằng pháp luật, được pháp luật bảo hộ. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ
cương và công bằng xã hội đòi hỏi phải được thực hiện trong thực tế cuộc
sống trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trải qua 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện cương lĩnh 1991 nền dân
chủ XHCN ở Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng và được thế giới
thừa nhận. Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện

thành công mục tiêu “tối thượng” của cách mạng: “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển
nền dân chủ XHCN vì nó là mục tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đến lượt nó, nền dân chủ XHCN được phát triển và hồn thiện
lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển. Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến chín muồi, từ chỗ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát triển. Quá trình này


×