Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

tiểu luận môn hệ tư tưởng tư TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG học THUYẾT NHO GIÁO tới VIỆC xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.79 KB, 28 trang )

HỌC VIỆN
KHOA
BÀI THU HOẠCH
TÊN MÔN HỌC: HỆ TƯ TƯỞNG

TÊN BÀI THU HOẠCH: TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG HỌC
THUYẾT NHO GIÁO TỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên:
Lớp:
Khoá:

NĂM 2021
MỤC LỤC
Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG HỌC THUYẾT
CỦA NHO GIÁO VÀ TÍNH TẤT YẾU PHẢI XÂY
Chương 1.
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM

1
2
2


Ảnh hưởng tư tưởng chính trị của Nho giáo tới sự hình
thành, phát triển tư tưởng Việt Nam


Tư tưởng về Nhà Nước, quyền lực nhà nước với mối
1.2.
quan hệ giữa nhà nước với dân
1.3.
Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Tính tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
1.4
chủ nghĩa ở Việt Nam
THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ TRONG HỌC THUYẾT NHO GIÁO VỚI VIỆC
Chương 2.
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Những ảnh hưởng tích cực tư tưởng chính trị của Nho
2.1.
giáo với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị trong
2.2.
học thuyết Nho giáo với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG ẢNH HƯỞNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG
TIÊU CỰC TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA
Chương 3.
NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Giải pháp phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực trong tư tưởng chính trị

3.1.
của Nho giáo với việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.2.
Bài học gắn với trách nhiệm bản thân
PHẦN III. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.1.

2
3
6
10

12

12

15

18

18
22
23
24


1
Phần I: MỞ ĐẦU

Nho giáo ra đời ở Trung Quốc cổ đại trong thời kỳ “trăm hoa đua nở”.
Học thuyết này được truyền vào nước ta từ những năm đầu cơng ngun
trong q trình đơ hộ của chính quyền phương Bắc. Khi mới truyền vào Việt
Nam, mặc dù lúc đầu sự thâm nhập và ảnh hưởng của nó có phần khó khăn,
nhưng trong q trình phát triển của lịch sử, nó đã từng bước chiếm ưu thế và
có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và
con người Việt Nam, Từ thời Lê, Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống, chi
phối nhiều mặt đời sống tinh thần, tư tưởng ở nước ta, trở thành công cụ đắc
lực để trị nước, tổ chức bộ máy chính quyền và quản lý xã hội của các triều
đại phong kiến Việt Nam. Vì thế, nó khơng chỉ ảnh hưởng đến xã hội và con
người Việt Nam trong quá khứ mà cả trong giai đoạn hiện nay.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hướng tới
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”, địi hỏi
phải xem xét ảnh hưởng của những tư tưởng, lý thuyết chính trị xã hội
trong lịch sử, trong đó có tư tưởng chính trị của Nho giáo. Bên cạnh những
giá trị có ý nghĩa tiến bộ như quan niệm về xây dựng xã hội ổn định, có trật
tự, mọi người sống đạo đức, có tinh thần trách nhiệm với gia đình, cộng
đồng; tư tưởng lấy dân làm gốc, chủ trương bảo đảm cho người dân có đời
sống vật chất, tinh thần tương đối đầy đủ; đào tạo cán bộ công chức nhà
nước có phẩm chất, năng lực gắn với nhu cầu của đất nước trong những
giai đoạn lịch sử cụ thể... Do đó, việc nghiên cứu những tư tưởng chính trị
của Nho giáo, xem xét ảnh hưởng, ý nghĩa và bài học đối với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay là điều cần thiết.
Từ những lý do trên tác giả chọn đề tài tiểu luận: “Tư tưởng chính trị trong
học thuyết Nho giáo tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay” có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.


2

Phần II: NỘI DUNG
Chương 1. TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ TRONG HỌC THUYẾT CỦA
NHO GIÁO VÀ TÍNH TẤT YẾU PHẢI XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Ảnh hưởng tư tưởng chính trị của Nho giáo tới sự hình thành,
phát triển tư tưởng Việt Nam


3
Việt nam là nước láng giềng của Trung Quốc lại nằm dưới ách 1000 năm
bắc thuộc nên chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng chính trị của trường
phái Nho giáo. Nho giáo vào Việt Nam đã được Việt hóa nhằm thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước đã khi thác những mặt tích cực của
nho giáo để khẳng định giá trị truyền thống của dân tộc. Điều đó được thể
hiện như sau: Nho giáo ảnh hưởng tới nền giáo dục nước ta (tiên học lễ hậu
học văn),. Các kiến trúc đát, đền thờ, văn miếu thờ Khổng Tử cũng đều mang
đậm nét tư tưởng của Nho giáo. Có thể nói Nho giáo ở Việt nam được sử
dụng như hệ tư tưởng chính thống. Nho giáo trở thành tiêu chuẩn đánh giá
phẩm chất đạo đức của con người. Truyền thống quan hệ cha con và anh em
đến nay trong gia đình Việt Nam vẫn giữ được tư tưởng của Nho giáo, là nét
đẹp trong quan hệ văn hóa xã hội. Nho giáo địi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa
các thành viên trong gia đình và dịng họ. Những nghi thức hằng ngày, những
lời răn dạy của ông cha được lưu truyền cho đến đời con cháu. Tuy nhiên,
Nho giáo cũng có những mặt tiêu cục là xem nhẹ dân, không phát huy sức
sáng tạo của dân. Tư tưởng coi thường phụ nữ ăn sâu vào đầu óc người Việt
Nam từ xưa đến nay, lấy tiêu chuẩn tứ đức làm đầu “cơng, dung, ngơn, hạnh”.
Điều đó khiến người phụ nữ bị dồn nén trong vòng tứ đức mà khơng phát huy
hết được năng lực của mình.



4
Thứ nhất, những điểm tương đồng trong văn hoá đã được chú trọng phát
huy: Nét tương đồng lớn nhất là sự trọng tình người. Trọng tình người vốn là
truyền thống lâu đời của nền văn hóa Việt Nam, cho nên khi tiếp nhận Nho
giáo, người Việt Nam tâm đắc với chữ “Nhân” hơn cả. Nhưng ở đây là lòng
thương người “Tấm lịng đã thấu trời xanh. Bán mình là hiếu, cứu người là
nhân” (Truyện Kiều – Nguyễn Du. Nét tương đồng lớn thứ hai là xu hướng ưa
ổn định: Truyền thống văn hóa nơng nghiệp ln chỉ muốn có cuộc sống ổn
định. Mục đích của Nho giáo nguyên thủy là tạo ra một xã hội ổn định. Ở Việt
Nam, nhu cầu duy trì ổn định khơng chỉ có ở dân mà ở cả Triều đình, khơng
chỉ ở đối nội mà ở cả đối ngoại. Các cuộc chiến tranh mà người Việt Nam
từng thực hiện đều mang tính tự vệ. Nét tương đồng thứ ba là xu hướng trọng
văn: Trọng văn là truyền thống văn hóa nơng nghiệp Việt Nam. Nho giáo
cũng rất trọng vẻ sỹ, trọng văn, trọng văn hóa.
Thứ hai, những luận điểm của Nho giáo được Việt Nam vận dụng khai
thác: Nhà nước quân chủ Việt Nam, đặc biệt là triều Lê và triều Nguyễn đã
học tập rất nhiều cách tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật triều đình Nho
giáo Trung Hoa. Nhà Vua tập trung trong tay mình quyền uy tuyệt đối và bộ
máy quan liêu do nhà Vua sắp xếp từ trung ương đến địa phương. Ngồi ra,
cịn có hệ thống thi cử của Nho giáo đã được nhà nước phong kiến vận dụng
ngay từ đầu triều Lý. Từ kỳ thi đầu tiên năm 1075. Người Việt Nam cũng đã
sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức trong giao dịch. Trong tâm thức
người Việt Nam, chữ Hán và Nho giáo không tách rời nhau, chữ Hán được coi
là cái thiêng liêng nhất “chữ Thánh hiền”. Trên cơ sở chữ Hán người Việt đã
sáng tạo ra chữ Nôm dùng trong sáng tác văn chương.
1.2. Tư tưởng về Nhà Nước, quyền lực nhà nước với mối quan hệ
giữa nhà nước với dân
Tư tưởng về nhà nước và quyền lực nhà nước Thời Xuân thu - Chiến
quốc là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Trung Quốc (thế kỷ VII - thế kỷ
III Tr.CN). Đó là thời đại quá độ từ chế độ chiếm hữu nô lệ kiểu phương

Đông sang chế độ phong kiến. Ăngghen đã khẳng định: Các công xã cổ, ở nơi


5
nào chúng vẫn tiếp tục tồn tại, thì từ hàng nghìn năm nay đều cấu thành cái cơ
sở của hình thức nhà nước thô sơ nhất, tức là chế độ chuyên chế phương
Đông. Trong điều kiện phương Đông cổ đại, bộ máy chính phủ như Mác chỉ
ra gồm ba bộ chính:
- Bộ quốc phịng có chức năng cướp bóc các dân tộc khác.
- Bộ tài chính để bóc lột dân sở tại.
- Bộ công vụ đảm nhiệm việc xây dựng và phục vụ có liên quan đến
nơng nghiệp. Tất cả điều này đã quyết định sự ra đời một hình thức nhà nước
đặc biệt.
- Nhà nước chuyên chế phương Đông với sự tập trung quản lý rộng lớn,
trong đó mọi quyền lực đều tập trung trong tay một nhà chuyên chế. Nho giáo
ra đời trên cơ sở tổ chức chính trị xã hội đặc biệt đó. Vì vậy, tư tưởng về nhà
nước, quyền lực nhà nước của Nho giáo biểu hiện rõ nét ở chỗ đề cao vai trị
của ơng vua chuyên chế. Theo Nho giáo, con người sống không thể tách rời
nhau mà có mn ngàn quan hệ gắn bó với nhau trong phạm vi những cộng
đồng nhất định. Các cộng đồng đó là nhà (gia), nước (quốc) và thiên hạ.
Đương nhiên ngoài phạm vi nhà và từ nhà đến nước cịn có hương, quận,
châu. Nho giáo cố ý đồng nhất ba thực thể nhà, nước, thiên hạ theo nguyên lý
bao quát. Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình. Rõ ràng
Nho giáo coi "nước" chỉ là sự mở rộng của nhà. Do nước và nhà chung nhau
một gốc, cho nên nhiều khi Nho giáo dùng phạm trù quốc và gia đồng nhất
với nhau. Nho giáo coi mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa nhà và nước là
thiêng liêng và sáng tỏ mn đời. Nói lên mối quan hệ ấy, Khổng Tử đã nhấn
mạnh: muốn trị quốc trước hết phải tề gia. Nước thành ra là vật sở hữu của
một số người có đức sáng, được mệnh trời, giỏi tề gia. Những hiền nhân quân
tử đi từ tề gia đến trị quốc có cương vị đứng đầu cả nhà và nước thì được

Khổng Tử xác nhận là kẻ có nước, có nhà hoặc là những kẻ có quốc gia để cai
trị. Từ bậc thang "tề gia" đi lên, thế lực mạnh nhất, có uy tín và quyền lực lớn
nhất trong giai cấp chiếm hữu tư liệu sản xuất dần dần trở thành kẻ trị quốc.


6
Con đường đi từ nhà đến nước như vậy được Nho giáo cho là đúng đắn, hợp
với đạo trời đất, đạo của người. Nhà và nước gắn với nhau, lồng vào nhau.
Nước mà Nho giáo nói ở đây khơng chỉ là đất nước mà còn được hiểu là
nhà nước. Nhà nước thời đó - thời có thiên tử và chư hầu cịn có tên gọi tiêu
biểu là triều đình và triều - thuộc quyền chuyên chế của cá nhân vua cùng với
gia tộc và tông tộc nhà vua. Nho giáo quan niệm rằng đã là xã hội thì tất phải
có quyền tối cao để giữ kỷ cương xã hội. Quyền ấy gọi là quân quyền. Người
giữ quân quyền gọi là đế hay vương (vua). Vua phải lo việc trị nước, tức là lo
sự sinh hoạt, dạy dỗ và mở mang dân. Là người chủ đất nước, nhà vua Nho
giáo thống trị với một quyền uy tối thượng. Nhà vua điều hành mọi công việc
của Nhà nước, sử dụng và bãi chức đối với toàn thể giới quý tộc và quan lại.
Nho giáo nhắc nhở rằng: Dưới gầm trời không chỗ nào chẳng phải đất của
nhà vua, trên mặt đất không người nào chẳng phải bề tôi của vua. Với tư cách
là người chủ đất đai, nhà vua chỉ đạo việc sử dụng đất đai, quyết định mức
thuế và sự đóng góp của nhân dân. Nắm kho tàng của Nhà nước, quản lý tồn
bộ ngân khố và thóc, nhà vua là người ban ơn cho toàn thể nhân dân, được
mọi người phục tùng một cách tuyệt đối. Như vậy, quyền uy của nhà vua là
tuyệt đối. Quyền uy ấy thể hiện trên mọi lĩnh vực. Nhà vua vừa là người trực
tiếp quản lý kinh tế, tổ chức hành chính, thực hiện pháp luật, chỉ huy quân sự,
giáo dục đạo đức và đứng đầu tôn giáo. Để quản lý lãnh thổ rộng lớn, nhà vua
sắp xếp một bộ máy quan liêu từ Trung ương đến địa phương. Lúc đầu bộ
máy nhà nước bao gồm những quý tộc thuộc dòng họ vua. Sau đó các quan
chức triều đình được tuyển lựa trong hàng ngũ Nho sĩ đã qua các kỳ thi. Dùng
bộ máy quan liêu, lựa chọn khoa cử và đội quân thường trực, ơng vua chun

chế đã tìm ra phương án tối ưu để nắm giữ quyền lực. Nho giáo từ trước đến
sau luôn luôn đề cao và bảo vệ danh nghĩa, thế lực của ơng vua chun chế
đó. Để cho "chính" các "danh" của người nắm quân quyền, Nho giáo chủ
trương thuyết Thiên mệnh. Thuyết này coi trời là cha chung, ngôi vua được
trời lựa chọn, giao cho cai quản đất nước và thần dân. Vua cũng là cha chung.
Do mệnh trời mà có mệnh vua. Nhưng Nho giáo cũng nhấn mạnh: mệnh trời


7
không phải cho mãi một người, ai làm điều lành thì được điều ác thì mất.
"Duy mệnh bất vu thường, đạo thiện tắc đắc chi, bất thiện tắc thất chi hỹ".
Vì vậy, người làm đế vương tuy quyền uy rất to, thế lực rất mạnh, nhưng
không được lạm dụng quyền ấy để làm điều tàn bạo. Thuyết "Thiên mệnh"
với phương châm an phận theo địa vị của mình, khơng mong gì ở bên ngồi
đã đè nặng lên đời sống tinh thần, của dân tộc Trung Hoa và các dân tộc tôn
sùng Nho giáo suốt nhiều thế kỷ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
làm cho tôn ti, trật tự phong kiến duy trì quá lâu, triệt bỏ sức vươn lên của con
người. Tuy nhiên, có thể thấy tư tưởng tơn qn, thuyết Thiên mệnh đã đáp
ứng được địi hỏi bức thiết của lịch sử Trung Hoa thời bấy giờ, đó là thống
nhất dân tộc, xây dựng chính quyền Trung ương tập quyền.
1.3. Tư tưởng về dân và mối quan hệ giữa dân với nhà nước
Tư tưởng về dân của Nho gia được hình thành rất sớm, trải qua quá trình
đấu tranh gay gắt với Mặc gia và Pháp gia, được ổn định và được chế độ
chuyên chế thừa nhận làm đạo lý, làm tinh thần lập pháp. Khái niệm "dân"
theo Khổng Tử bao gồm: sĩ, nông, công, thương. Sự phân chia này không dựa
trên tiêu chuẩn sở hữu mà theo ngành nghề. Đây cũng là bậc thang giá trị xã
hội. Nó phản ánh một nền kinh tế tiểu nơng khép kín, tự cấp tự túc, cơng
thương nghiệp chưa phát triển. Khái niệm "dân" của Mạnh Tử lại gồm: kẻ sĩ,
người cày ruộng, người buôn bán và người đi đường. Kẻ sĩ là trí thức, muốn
theo đuổi địa vị để kiếm bổng lộc, người buôn bán và người đi đường thì phần

đơng là thương nhân kiêm địa chủ. Cịn hạng mà Mạnh Tử gọi là "người cày
ruộng" thực ra không cịn là nhà nơng mà chủ yếu là bọn địa chủ mới có nơng
sản đem bán. Cho nên khái niệm dân của ơng chủ yếu là hạng trí thức, địa chủ
và thương nhân. Như vậy theo quan niệm của Nho giáo, dân thơng thường là
những người khơng có địa vị gì, cơng vụ gì trong bộ máy thống trị, cũng có
khi bao gồm cả mọi người trong một nước, trong thiên hạ nói chung. Trong
kinh điển Nho gia, ta cịn gặp những danh từ như: "Thứ dân", "lê dân", "thảo
dân", "xích tử", "thương sinh" cũng là để chỉ đơng đảo người dân lao động.
Mối quan hệ giữa dân với nhà nước.


8
Trong mối quan hệ với nhà nước, quyền lực nhà nước mà người đứng
đầu là vua, dân có vai trị rất lớn. Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trị của
dân tới sự tồn vong của triều đình. Trong ba yếu tố để triều đình bền vững thì
dân là yếu tố quyết định. Ba yếu tố đó là: đất đai, nhân dân và chính sự. Về
chính sự, Nho giáo lại nhấn mạnh ba điểm: túc thực, túc binh, dân tín (nghĩa
là lương thực phải đủ để ni dân, binh lực phải mạnh để bảo vệ dân, lòng tin
của dân, trong đó lịng tin của dân là điều quyết định nhất). Không phải ngẫu
nhiên và tùy tiện mà Nho giáo đi tới chỗ coi dân là trời: "Vua lấy dân làm
trời". Lịch sử cho thấy mặc dù vua là "thiên tử", là "đấng chí tơn" vâng mệnh
trời để bình thiên hạ, là cha của muôn nhà, mẹ của muôn dân, là kẻ chăn
người (nhân mục), nhưng vua cũng chỉ là một con người. Dân rất hiền lành,
những thảo dân, lê dân, xích tử hiền như nước nhưng lại có sức mạnh to lớn.
Vua chúa muốn sống được phải nhờ đến dân. Dân "lao lực" làm ra lương
thực, vua chúa "lao tâm" để trị người thì phải ăn của người, cụ thể là ăn ở dân,
do dân nuôi. Nếu áp bức dân tàn bạo để dân phải vùng lên thì vua - người
nắm giữ trong tay quyền lực nhà nước chỉ đi tới chỗ diệt vong. Mạnh Tử đã
nêu lên một quan điểm nổi tiếng về mối quan hệ giữa vua, xã tắc và dân: "Dân
vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Đây là tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là đối

với một xã hội mấy ngàn năm sống dưới sự ngự trị của các triều vua. Đem
dân ra cân nhắc với vua, nêu rõ vai trò của dân trong thời loạn lạc, khẳng định
dân là quý, Mạnh Tử đã thể hiện rõ tư tưởng lấy dân làm gốc của mình. Mạnh
Tử và các nhà Nho đều mong muốn có một cuộc sống hữu đạo, một cảnh
nước thịnh trị và thiên hạ thái bình với những quan hệ tốt đẹp giữa người và
người. Trong phạm vi cả nước, cả thiên hạ, mối quan hệ được nêu lên trước
hết là mối quan hệ "quân thần". Quan hệ giữa vua với dân là phần mở rộng
của mối quan hệ ấy. Mạnh Tử cho rằng, quan trọng nhất là được dân hay mất
dân, mà sở dĩ được dân là vì được lịng dân và mất dân là vì mất lịng dân.
Ơng so sánh và giải thích rằng: được lịng dân thì làm đến ngơi thiên tử; được
lịng thiên tử chẳng qua làm đến chư hầu; được lòng với vua chư hầu chẳng


9
qua làm đến quan đại phu; vua Kiệt, vua Trụ mất thiên hạ vì mất dân, mất dân
là vì mất lịng dân.
Chính vì vậy, Mạnh Tử rất chú trọng đến dân. Ông yêu cầu những người
cầm quyền phải biết lo đến hạnh phúc của dân, cùng dân hưởng phú quý,
cùng dân chịu sự lo lắng, như thế dân sẽ một lòng một dạ đi theo: "Người vui
cái vui của dân, thì dân cũng vui cái vui của mình; người lo cái lo của dân thì
dân cũng lo cái lo của mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ mà lo, thế mà
khơng làm vương thì chưa có vậy" [4, tr. 248]. Ông coi trọng việc cải thiện
đời sống của dân là "điều gốc", là trách nhiệm của người cầm quyền: "Đáng
minh quân chế định tài sản của dân, ắt là khiến cho ngửng lên đủ thờ cha mẹ,
cúi xuống đủ ni vợ con, năm được mùa thì no ln, năm mất mùa không
đến nỗi chết. Được như thế rồi mới bắt dân làm điều lành, thì dân làm điều
lành dễ lắm" [4, tr. 249] Đề cập tới quan điểm này của Mạnh Tử, nhiều người
cho rằng, Mạnh Tử đã đi trước các nhà tư tưởng của cách mạng dân chủ tư
sản Anh, Pháp gần 2000 năm. Không thể phủ nhận quan điểm về dân của
Mạnh Tử có nhiều tiến bộ, nhưng nếu đứng trên lập trường giai cấp mà xét thì

ơng khơng có tư tưởng dân chủ thực sự. Mặc dù Mạnh Tử đã thực sự dũng
cảm khi nói: "dân vi q", nhưng khơng có nghĩa là ơng có tư tưởng đấu tranh
cho nhân dân làm chủ đất nước, làm chủ sơn hà xã tắc, làm chủ vận mệnh của
mình. Kể cả khi ơng chủ trương một nền chính trị được lòng dân, quan tâm
đến dân để làm cho "dân có hằng sản", từ đó "có hằng tâm" thì cũng khơng
ngồi mục đích điều hịa mâu thuẫn giai cấp giữa giai cấp thống trị và nhân
dân. Tuân Tử khi nói về sức mạnh của dân đối với nhà nước đã chỉ rõ: vua là
thuyền, thứ dân là nước. Nước chở thuyền, nước có thể lật thuyền. Khổng Tử
khi nói về dân và chính sách trị dân đã nhấn mạnh các điều: dưỡng dân, giáo
dân và chính hình; trong đó dưỡng dẫn là yếu tố quan trọng. Bất kỳ chính thể
nào, nhà cầm quyền nào cũng phải coi trọng việc dưỡng dân. Nếu khéo dưỡng
dân thì nước trị, nhà cầm quyền được dân quý, ngược lại thì nước loạn, dân sẽ
bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn, chính quyền sớm muộn cũng bị lật đổ. Dưỡng
dân để làm cho dân no đủ, giàu có; đánh thuế nhẹ dân; khiến dân làm việc


10
hợp thời; phân phối bình qn để dân khơng bị bóc lột mà được no đủ. Điều
đó cho thấy Nho giáo đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của dân đối với
nhà nước và quyền lực nhà nước, song họ đã không vượt qua được hạn chế về
mặt giai cấp và thời đại, do đó đối với Nho giáo khơng có tư tưởng dân chủ
thực sự, tất cả đều nhằm nắm chặt lấy dân để dễ bề sai khiến, cai trị. Mặc dù
vậy, tư tưởng của Nho giáo về dân, về mối quan hệ giữa dân với quyền lực
nhà nước vẫn hàm chứa nhiều giá trị mà người cầm quyền xưa và nay khơng
thể khơng chú ý. Đó là:
- Phải biết tranh thủ dân và nắm lấy dân. Dân là quý, dân như nước, vừa
chở thuyền vừa lật thuyền, cho nên muốn làm vua chúa, muốn cầm quyền thì
phải tranh thủ dân và nắm lấy dân. Tranh thủ được dân chúng thì làm thiên tử,
được dân là được cả thiên hạ. Người làm vua phải theo lòng dân, phải thuận
lịng dân, phải biết thích cái thích của dân, ghét cái ghét của dân. Người cầm

quyền theo lòng dân mà trị tất sẽ được dân yêu mến.
- Giữ gìn sinh mệnh và dè xẻn tài sản của dân. Người cầm quyền phải
biết sử dụng sức người, sức của cho phù hợp tránh sự lạm dụng, phí phạm sức
dân và tài sản của dân. Có như vậy lịng dân mới yên, xã tắc mới bền vững.
Tư tưởng của Nho giáo về vai trò của dân sau này được các nhà tư tưởng Việt
Nam kế thừa, cải biến và sáng tạo phù hợp với dân tộc.
Trên thực tế, các khái niệm có hình thức Khổng giáo nhưng nội dung bên
trong lại chứa đựng tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng và tâm lý Việt Nam. Thời
Lý - Trần, sự quan tâm đến đời sống và nguyện vọng của nhân dân được xem
là việc hàng đầu của đạo trị nước, "ý dân", "lòng dân" đã trở thành căn cứ,
mục đích cho những chủ trương chính trị lớn. "Chiếu dời đơ" nổi tiếng của Lý
Công Uẩn đã khẳng định: Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận
tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Trần Quốc
Tuấn với tư tưởng "khoan thư sức dân để làm kế sâu bền gốc rễ", coi đó là
"thượng sách để giữ nước" đã nhìn rõ nhân dân là nơi chứa chất tiềm lực về
kinh tế và quốc phòng, bảo đảm cho sự vững chắc của nền độc lập và chủ
quyền đất nước. Nguyễn Trãi xem dân là gốc của nước, dân có quan hệ tới sự


11
yên nguy của triều đại. Dân là số đông, là cơ sở của xã hội, là lực lượng có
vai trị quyết định đến sự ủng hộ hoặc phế truất nền thống trị của một triều
đại, một ơng vua.
Vì vậy, theo ông, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Thấy được vai trị của
dân khơng phải là ngẫu nhiên đối với các nhà tư tưởng Việt Nam. Mặc dù lập
trường phong kiến đã hạn chế nhãn quan của họ, nhưng là những nhà yêu
nước lớn, đứng ở đỉnh cao của phong trào yêu nước lúc bấy giờ, họ đã thấy
được yêu cầu phải cố kết cộng đồng, phát huy sức mạnh của dân tộc nên đã
vượt qua được những hạn chế giai cấp vốn có của mình.
Đến Hồ Chí Minh, quan niệm về dân đã phát triển đến một tầm cao mới.

Dân là số đơng, là làm cho số đơng đó ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành. Lấy dân làm gốc ở Hồ Chí Minh khơng phải chỉ xem dân là
lực lượng dời non lấp biển mà cịn là mục đích, xem mọi hoạt động chính trị
đều vì dân, xây dựng nền chính trị của dân, do dân, vì dân. Điều quan trọng ở
đây là Người đã đưa truyền thống yêu nước thương dân và hệ thống hoạt
động của dân, do dân, vì dân thành một nội dung cơ bản để xây dựng Đảng
cộng sản và chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam.
1.4. Tính tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần được xây dựng, đó
là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được quy định bởi những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước phát triển tiến
bộ của lịch sử. Trước nó, nhà nước là của một thiểu số có sức mạnh nhất trong
xã hội, cai trị, lãnh đạo và bắt buộc mọi thành viên trong xã hội phải phục
tùng nó. Nhưng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Được xây dựng và hồn thiện, nó
sẽ là nhà nước ưu việt, tiến bộ nhất trong lịch sử nhân loại.
Thứ hai, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, bảo đảm tính tối thượng của pháp luật, đòi hỏi mọi người


12
dân trong xã hội từ người đứng đầu nhà nước đến dân thường cùng phải chấp
hành pháp luật, cùng bình đẳng trước pháp luật không phân biệt nam nữ, dân
tộc, tôn giáo, đảng phái, giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Thứ ba, lãnh đạo nhà nước này là Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp
công nhân đại diện cho quyền lợi chính đáng của tồn dân tộc, bao gồm
những con người ưu tú, tiên tiến nhất trong lực lượng tiên tiến, cách mạng của
cả nước.

Thứ tư, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có khả năng đồn kết,
tập hợp được toàn bộ dân tộc thành một khối vững chắc để xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, sự tồn tại của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khơng
nhằm mục đích duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của nhà nước, mà đó chỉ là bước
quá độ để đi đến xóa bỏ giai cấp, nhà nước, làm cho xã hội tiến lên giai đoạn
81 tiến bộ, văn minh nhất trong lịch sử khơng cịn giai cấp, khơng cịn nhà
nước, trong đất nước, xã hội lúc nhà nước ấy cịn tồn tại có khoa học, kỹ
thuật, công nghệ hết sức phát triển, xã hội làm ra của cải vật chất, tinh thần
nhiều, nhanh, chất lượng cao, con người phát triển toàn diện. Bởi những sự
tiến bộ, ưu việt đó của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nên toàn dân
Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tất yếu sẽ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước phải
phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc
tế [1, tr.171].
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
Hiến và lập pháp; Chính phủ điều hành việc thực thi theo Hiến pháp và pháp


13
luật; các cơ quan tư pháp khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật của nhà nước đã
ban hành [1, tr.172].
Ba là, mọi cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội chỉ được hoạt động trong
khuôn khổ, giới hạn của Hiến pháp và pháp luật [1, tr.176].
Bốn là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, không

bằng chỉ thị, mệnh lệnh, không bao biện làm thay Nhà nước [1, tr.180].
Để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” địi hỏi phải có sự phấn đấu nỗ lực của tồn hệ thống
chính trị và xem xét ảnh hưởng của những tư tưởng, lý thuyết chính trị xã hội
trong lịch sử, trong đó có tư tưởng chính trị của Nho giáo để từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm, xác định phương hướng và tìm kiếm giải pháp
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng.
Chương 2: THỰC TRẠNG ẢNH HƯỞNG TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ TRONG HỌC THUYẾT NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Những ảnh hưởng tích cực tư tưởng chính trị của Nho giáo với
việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay
Một là, tư tưởng chính trị của Nho giáo có ảnh hưởng tới xây dựng con
người có đạo đức, trách nhiệm và luôn tôn trong trật tự, kỷ cương.
Trong những quan niệm, chủ trương của Nho giáo về xây dựng một xã
hội ổn định, có trật tự, con người sống có đạo đức, tinh thần trách nhiệm với
gia đình, cộng đồng... được các nhà nho và nhiều triều đại phong kiến nước ta
tiếp thu, sử dụng, vẫn có ảnh hưởng và thể hiện những ý nghĩa tiến bộ nhất
định của nó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.
Thực tế ngày nay cho thấy, công cuộc xây dựng đất nước theo con
đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế sau rộng. Sự phát
triển của mặt trái kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhiều mặt của đời sống xã


14
hội đạo đức. Văn hóa ứng xử trong các mối quan hệ từ gia đình, đến nhà
trường, xã hội có chiều xuống cấp. Khi lợi ích vật chất và đồng tiền thắng thế

luật pháp và đạo lý thì nó sẽ có sức mạnh tàn phá ghê gớm. Nhiều hiện tượng
tiêu cực, làm đảo lộn các giá trị, đổi trắng thay đen đẩy con người trên đà
trượt dốc về đạo đức, lối sống và rơi vào vòng tội lỗi. Văn kiện Đại hội XII
của Đảng chỉ rõ: “Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại... Mơi
trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với
thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia
tăng...” [9, tr.125]. Thực trạng trên cho thấy, nếu tạm gạt đi những yếu tố lỗi
thời thì mục tiêu xây dựng xã hội ổn định mà ở đó con người có đạo đức, coi
trọng giáo dục đạo đức ngay từ trong gia đình của tư tưởng chính trị của Nho
giáo vẫn thể hiện ý nghĩa tiến bộ của nó. Tuy nhiên, như thế khơng có nghĩa
là chúng ta lặp lại những chuẩn mực và khuôn mẫu của cương thường, lễ giáo
đạo Nho của hàng nghìn năm về trước mà phải là những giá trị đạo đức mới,
những chuẩn mực của đạo đức cách mạng theo yêu cầu mới của đất nước và
thời đại hiện nay.
Hai là, tư tưởng chính trị của Nho giáo có ảnh hưởng trong việc xây
dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân.
Đây là một trong những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo. Chủ trương
“dưỡng dân” là nhằm bảo đảm cho người dân có đời sống vật chất, tinh thần
tương đối đầy đủ. Khổng Tử biểu dương, đồng thời nhắc nhở người cầm
quyền phải chú trọng việc chăm ni dân, và chính ơng cũng rất quan tâm
việc đó. Ơng ln ln lên án mạnh mẽ việc người cầm quyền có chính sách
hung bạo, khơng lo cho dân để dân phải chịu khổ sở. Bởi vì, các ông quan
niệm nếu người cầm quyền mà chăm lo cho người già, họ được chăm sóc chu
đáo, trăm họ khơng phải đói rách thì đó mới là bậc hiện tài. Đây là những tư
tưởng tiến bộ của Nho giáo và ảnh hưởng cho đến ngày nay.
Sinh thời, Hồ Chí Minh cũng có sự quan tâm đặc biệt đến đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Người nhắc nhở đội ngũ cán bộ: “Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” [9,



15
tr.64]. Theo Người, đấu tranh xã hội, làm cách mạng là vì dân, cho dân:
“Chúng ta được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc
lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân
được ăn no, mặc đủ” [9, tr.175]
Suy ngẫm về những lời dạy trên đây của Hồ Chí Minh về chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần, văn hóa cho nhân dân, chúng ta sẽ thấy, chủ trương
dưỡng dân, phú dân, giáo dân trong dường lối trị quốc của Nho giáo có giá trị,
vừa mang tính lịch sử, vừa có ý nghĩa thời đại. Tinh thần của đường lối, chủ
trương ấy cần ghi nhận và có thể vận dụng sáng tạo trong quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân ở Việt Nam hiện nay. Chúng ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng cần có hành động hiệu quả nhất nhằm
mục tiêu làm cho đất nước yên ổn để phát triển bền vững, nhanh, mạnh hơn
nữa “góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Trong học thuyết trị quốc của Nho giáo, quần chúng nhân dân có vị trí
đặc biệt. Nho giáo nhấn mạnh: “dân là gốc của nước, gốc bền thì nước n”;
“được lịng dân là được nước, mất lịng dân là mất nước”; “nếu nhân dân
khơng cịn tín phục nữa thì nước khơng thể đứng vững nổi”. Vì thế, Mạnh Tử
đã khẳng định có sức thuyết phục rằng: “Dân quý nhất, rồi đến xã tắc… sau
mới đến nhà vua”. Quan niệm, tư tưởng về vai trò hết sức quan trọng có ý
nghĩa quyết định của quần chúng nhân dân trong đường lối trị quốc của Nho
giáo có những điểm tương đồng với tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã
từng luận giải về vai trị lịch sử của nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, tất yếu Đảng ta phải hướng dẫn quần chúng nhân
dân thực thi nhiều nhiệm vụ chính trị, thực tiễn. Vì vậy, những giá trị tích cực
từ quan niệm, chủ trương của Nho giáo như đã bàn luận trên đây khẳng định
vai trị, vị trí của dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
được xây dựng hiện nay là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân



16
như Đảng ta đã khẳng định nhiều lần có khơng ít dấu hiệu tương đồng với tư
tưởng trị quốc trong Nho giáo khi bàn về thuyết trọng dân.
Ba là, tư tưởng chính trị của Nho giáo có ảnh hưởng trong việc đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước ta hiện nay.
Đối với chủ thể cầm quyền để lãnh đạo đất nước các đại biểu Nho giáo
đề cao tinh thần tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng để trở thành tấm gương
mẫu mực cho nhân dân noi theo.
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đương nhiên là cần phải có đội ngũ cán bộ viên chức của nhà
nước này có việc làm, thực chất đúng với danh hiệu của họ. Cán bộ của Đảng
và Nhà nước ta, theo Hồ Chí Minh, “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [8, tr.622]. Nhưng, đã từ lâu và
cho đến nay, nhiều cán bộ trong đội ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta đã
có việc làm khơng đúng với danh hiệu của họ, vì thế trở nên thối hóa, biến
chất, từ chỗ đáng ra là đày tớ của dân, thì lại trở thành sâu mọt hút máu mủ
của dân, phản dân, hại nước. Bởi vậy, ở những góc độ nhất định, thuyết chính
danh trong tư tưởng chính trị của Nho giáo cho thấy ý nghĩa hiện thời của nó
trong việc xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hiện nay. Chẳng hạn, trước đây Khổng Tử từng nói, người nào khơng
xứng đáng với địa vị nào đó mà khơng biết thối lui, nghĩa là khơng chính
danh, thì chỉ là kẻ ăn cắp địa vị của người khác. Trong bối cảnh mới và trên
tinh thần mới, Đảng ta xác định, phải “Xây dựng qui định để việc nhận trách
nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nền nếp văn hóa ứng xử của cán bộ”.
Trong bản Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh viết: “Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân” [8, tr.622]. Vậy là, đã hơn một lần, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý xã hội và Nhà nước Việt Nam phải là

những người đày tớ của nhân dân, phục vụ nhân dân tận tụy, và Người kêu
gọi tất cả cán bộ của Đảng và Nhà nước Việt Nam cần làm đúng chức phận,


17
nhiệm vụ của mình như cái danh hiệu mà Đảng và Nhà nước đã trao cho
mình.
2.2. Những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng chính trị trong học
thuyết Nho giáo với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay.
Một là, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam vẫn còn tư tưởng gia trưởng, thiếu dân chủ trong bộ máy chính
quyền
Trong học thuyết của Nho giáo luận giải giải các thành viên trong xã
hội phải làm như thế nào để danh nghĩa đúng với công việc, thực chất của
mình, cụ thể là vua phải ra vua, bề tôi phải đúng là bề tôi, cha đúng là cha,
con xứng là con. Đấy là quan niệm đúng, có giá trị, nó u cầu, địi hỏi mỗi
con người xã hội phải hồn thành bằng được cơng việc, phận sự của mình.
Nhưng, cũng qua đây, nó khơng phải là vơ hình trung, mà rõ ràng là có ý thức
phân biệt rạch rịi vua với bề tơi, cha với con, v.v., khẳng định vua là người sai
khiến bề tôi, bề tôi là người ở vị trí thấp hơn vua, chịu sự sai khiến của vua,
con cái là người do cha mẹ sinh ra, phải vâng lời cha mẹ, nghe cha mẹ dạy
bảo,… Những điều nói trên của nho giáo Khổng Mạnh ít nhiều có ảnh hưởng
tiêu cực trong xã hội Việt Nam kể từ khi nó xâm nhập vào đất nước ta từ đầu
cơng ngun đến nay. Nó dẫn đến tư tưởng địa vị, ngơi thứ, đầu óc gia trưởng
trong các cơ quan nhà nước Việt Nam cả xưa và nay. Khơng ít cán bộ được
làm thủ trưởng trong các cơ quan nhà nước trước đây và hiện tại có cảm nhận
ngầm rằng mình như ơng vua thời phong kiến đứng đầu một nước, như người
chủ một gia đình đơng đến hai, ba, bốn, năm chục thành viên, mình ở vị trí
cao hơn, ở vị trí lãnh đạo cả đơn vị. Có tư tưởng địa vị, phân biệt thứ bậc cao

của mình là người đứng đầu, lãnh đạo của đơn vị với cán bộ cấp thấp hơn
mình cùng tất cả nhân viên trong đơn vị, không được phép bàn bạc, trao đổi
về công việc của người lãnh đạo cao nhất đơn vị, nên thủ trưởng đơn vị độc
đoán, tự quyết một mình các nhiệm vụ, cơng việc của cả cơ quan.


18
Hai là, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
vẫn còn ảnh hưởng tư tưởng cục bộ địa phương
Việc xây dựng, củng cố mối quan hệ thân tình, ruột thịt giữa các thành
viên trong gia đình, dịng tộc là điều cần thiết và là nhu cầu của con người.
Tuy nhiên, khi nó được tuyệt đối hóa và biến thành thói vị kỷ gia đình và căn
bệnh gia đình trị thì sẽ gây ra nhiều hậu quả tai hại cho xã hội. Trên đất nước
ta, dù chế độ phong kiến cùng hệ tư tưởng thống trị của nó là Nho giáo đã lùi
vào quá khứ nhưng những biến tướng, biến dạng của kiểu gia đình trị chưa
hết. Trong quá trình xây dựng xã hội mới, để đảm bảo quyền làm chủ thực sự
của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì khơng thể khơng khắc phục những
tàn dư và ảnh hưởng tiêu cực của thói vị kỷ gia đình và bệnh gia đình trị với
những biến tướng của nó dưới mọi hình thức. Tư tưởng “nhất thân nhì quen”,
“một người làm quan cả họ được nhờ” đã và đang gây cản trở, để lại những
hậu quả khôn lường trong việc cải cách bộ máy nhà nước và trong công tác
cán bộ nói chung.
Ba là, một bộ phận trong nhân dân vẫn cịn thiếu tơn trọng pháp luật,
làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật.
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn thiện và đồng bộ; lối sống theo tập
quán, tuân thủ lệ làng, hương ước hơn pháp luật, tâm lý “phép vua thua lệ
làng” vẫn tồn tại. vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ nhân dân vẫn chấp hành
pháp luật chưa nghiêm, vẫn còn nhiều trường hợp vi phạm pháp luật phải xử

lý.
Việc thiếu tôn trọng pháp luật trong một bộ phận nhân dân hiện nay bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, song một trong những nguyên nhân
không kém phần quan trọng là do người ta đặt quyền lợi của gia đình, họ hàng
thân tộc lên trên quyền lợi của nhân dân, của dân tộc. Trong tư tưởng của Nho
giáo, giải quyết mâu thuẫn, xung đột giữa tình nhà và phép nước, các nhà nho
thường coi tình nhà cao hơn phép nước, lợi ích gia đình được đặt lên trên lợi


19
ích nhân dân. Tình thân và đạo lý trong quan hệ gia đình theo quan niệm của
đạo Nho theo kiểu “con che lỗi cho cha, cha che lỗi cho con” đã khuyến khích
và cổ vũ người ta vì tình riêng, vì danh gia vọng tộc mà có thể che giấu khi
người nhà phạm pháp, dung túng cho người nhà mắc tội. Đây là những tư
tưởng nó cịn ảnh hưởng tồn tại trong quá trình xây dựng nhà nước ở nước ta.
Làm cho khơng ít người chưa nhận thức được một cách đầy đủ về vai trò, ý
nghĩa của pháp luật đã ảnh hưởng đến tính nghiêm minh, cơng bằng của pháp
luật, đến việc tôn trọng và thực thi pháp luật, làm giảm vai trò của pháp luật,
dẫn đến sự thờ ơ trong tâm lý của người dân đối với những qui định của pháp
luật
Bốn là, chưa đánh giá đúng mức vai trò của phụ nữ và tuổi trẻ trong
việc tham gia vào các công việc nhà nước.
Xã hội trong tư tưởng của Nho giáo hình thành nên có sự khắt khe đến
nghiệt ngã trong quan niệm về trật tự xã hội. Nó phân chia đẳng cấp, ngơi thứ
rất rõ ràng, đúng như Khổng Tử nói: “Làm vua phải trọn đạo vua, làm tôi phải
trọn đạo tôi, làm cha phải trọn đạo cha, làm con phải trọn đạo con”. Một
khiếm khuyết, thiếu sót, và có thể nói đó là sai lầm rất lớn nữa trong đường
lối của Nho giáo bộc lộ ra qua chủ trương tuyệt đối khơng bàn tính đến những
đóng góp lịch sử của tầng lớp thanh niên và phụ nữ. Nó ngăn cấm, khơng cho
phép phụ nữ tham gia, bàn luận về chính trị.

Nhưng trên thực tế hiện nay nhìn vào những thực trạng đóng góp của
phụ nữ ta thấy được vị trí, tầm quan trọng của họ đối với sự phát triển của xã
hội. Yêu cầu từ thực tiễn đang đặt ra là phải khắc phục ảnh hưởng tiêu cực từ
quan niệm, chủ trương bất cập về phụ nữ trong tư tưởng của Nho giáo đến
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt
Nam. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay không thể thiếu
vai trị của phụ nữ và cũng khơng thể khơng hướng tới vấn đề giải phóng phụ
nữ, bởi như Bác Hồ đã căn dặn, khơng giải phóng phụ nữ nghĩa là khơng giải
phóng một nửa lồi người, là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.


20
Chương 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG ẢNH HƯỞNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC TRONG
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIÁO VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
3.1. Giải pháp phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực trong tư tưởng chính trị của Nho giáo với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Một là, khắc phục những ảnh hưởng những phong tục, tập quán lạc hậu
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì
việc cải tạo các phong tục, tập quán lạc hậu do ảnh hưởng từ tư tưởng của
Nho giáo cũng là yêu cầu cần thiết.
Trong tư tưởng của Nho giáo tồn tại những tàn dư tiêu cực tư tưởng của
Nho giáo khơng chỉ có cơ sở kinh tế xã hội là những yếu tố của nền sản xuất
nhỏ, những khiếm khuyết trong cơ chế quản lý kinh tế xã hội mà cả những
phong tục, tập quán cũ, lạc hậu của nhân dân, như “phép vua thua lệ làng”
dẫn đến tâm lý coi thường pháp luật, tư tưởng “sống lâu lên lão làng” dẫn đến

sự xem thường lớp trẻ, tư tưởng trọng nam khinh nữ, tư tưởng địa vị ngôi thứ,
tâm lý hiếu danh, trọng quan khinh dân... Đó là những tập quán ảnh hưởng
tiêu cực đến việc xây dựng và thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa cần được khắc phục.
Chính vì vậy, xây dựng nền kinh tế thị trường trong đó phải tạo ra được
nhiều sản phẩm, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh. Người lãnh đạo, tổ
chức thực hiện nền kinh tế thị trường không phải là ai khác đội ngũ cán bộ
của Đảng và Nhà nước ta. Đội ngũ này tất phải có chủ trương, quan hệ hợp
tác với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới để cùng phát triển chứ
khơng thể đóng cửa, khơng ra khỏi nhà như người quân tử - một chủ thể trị
quốc của nho giáo v.v... Như thế, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa lúc này đã và sẽ khắc phục được nhiều ảnh hưởng tiêu cực của


21
nho giáo (không quan tâm, chú ý đến khoa học kỹ thuật, quan niệm người
lãnh đạo không phải xông xáo thâm nhập thực tế, v.v...), đồng thời phát huy
được ảnh hưởng tích cực từ học thuyết này (quan tâm phú dân, giáo dân,
dưỡng dân, v.v.). Đấy là hệ quả tất yếu, chứ không phải là mục tiêu của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Hai là, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam cần phát huy những yếu tố tích cực từ học thuyết chính trị của
Nho giáo với tư tưởng pháp quyền tiên tiến của nhân loại.
Trong quan niệm, chủ trương thực thi pháp luật của Nho giáo có điểm
tương đồng với những giá trị trong tư tưởng pháp quyền tiên tiến của nhân
loại, với những đại biểu điển hình ở phương Tây, như: John Stuard Mill
(1806-1873), nhà tư tưởng Anh cho rằng, tự do cá nhân phụ thuộc vào hai
điều kiện là trình độ dân trí và sự nghiêm minh của pháp luật. Montesquien
(1689-1755), nhà triết học khai sáng, nhà luật học, nhà văn Pháp, quan niệm
quyền lực tối thượng thuộc về nhân dân; trong mỗi quốc gia đều có ba thứ

quyền là lập pháp, tư pháp và hành pháp; quyền lập pháp giao cho nghị viện,
quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho tòa án. Và một
số tư tưởng tiến bộ của nhân loai như: J.J.Rousseau (1712-1788), I.Kant
(1724-1804), nhà triết học cổ điển Đức, G.W.F.Hegel (1770-1831), nhà triết
học cổ điển Đức… Có thể nói, đã có nhiều nhà tư tưởng trên thế giới ca ngợi,
khẳng định vai trị, vị trí cực kỳ quan trọng của pháp luật trong đời sống xã
hội, pháp luật là văn bản, đạo luật khơng thể thiếu cho con người trong xã hội
có nhà nước. Những giá trị về quan niệm, chủ trương sử dụng pháp luật trong
tư tưởng của Nho giáo có sự tương đồng với nhiều tinh hoa tư tưởng pháp
quyền tiên tiến của nhân loại, vì thế, cần được phát huy, vận dụng sáng tạo
trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam, lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta
đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước
đặc biệt chú trọng sử dụng pháp luật một cách công bằng với mọi người dân
trong nước, khơng phân biệt giàu nghèo, già trẻ, giới tính, tuổi tác, nghề
nghiệp, dân tộc, đảng phái, có hay khơng có tín ngưỡng tơn giáo..


22
Ba là, thực hành dân chủ rộng rãi để khắc phục ảnh hưởng của tư tưởng
tôn quân, trọng quan, gia trưởng, chuyên quyền trong tư tưởng chính trị của
Nho giáo
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần
thực hành dân chủ rộng rãi đồng thời xây dựng kỷ cương xã hội. Dân chủ chỉ
có thể được thực hiện, kỷ cương xã hội chỉ được xây dựng có kết quả khi các
lực cản nó được loại bỏ. Trong quan niệm của Nho giáo: chủ thể trị quốc theo
quan niệm chủ trương của Nho giáo chỉ bao gồm những bậc vua, bề tôi hiền
tài, kẻ sĩ, người quân tử. Kết quả, mục tiêu của trị quốc là “khiến cho đất nước
yên ổn”. Từ đây bao thế hệ người Việt Nam khơng thể khơng có tâm lý, sự
ngưỡng vọng bậc vua quan cùng các đấng trượng phu. Chính tâm lý này đã
cản trở, ngăn cách giữa tầng lớp lãnh đạo và quần chúng nhân dân.

Hiện nay, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, cả tầng lớp cán bộ, công chức là những người lãnh đạo, làm
việc trong các cơ quan nhà nước, cả quần chúng lao động chân tay đều cần
phải có quan niệm, nhận thức lại cho đúng mức rằng, trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật. Người
có chức vụ, địa vị cao trong xã hội ta lúc này cũng phải gương mẫu, chấp
hành đúng pháp luật như mọi người dân, chứ không được bất chấp, coi
thường pháp luật. Mọi người dân Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta nên, hơn nữa, cần phải coi trọng những cán bộ
cao cấp đúng mức, chứ không thể biến cấp lãnh đạo của mình thành những
ơng vua, ông quan cách mạng.
Bốn là, khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh hưởng từ tư tưởng
chính trị của Nho giáo, kết hợp giáo dục đạo đức với ý thức tuân thủ pháp
luật trong xã hội.
Một trong những đặc trưng bản chất của nhà nước pháp quyền là tính
thượng tơn pháp luật. Do đó, khắc phục tâm lý coi thường pháp luật do ảnh
hưởng từ tư tưởng của Nho giáo, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong
nhân dân là yêu cầu thiết yếu trong việc phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế


23
ảnh hưởng tiêu cực từ tư tưởng của Nho giáo trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Thực tế cho thấy, đạo đức và
pháp luật đều là những phương thức điều chỉnh hành vi của mỗi con người và
các mối quan hệ xã hội. Chúng có vai trị quan trọng ở những phạm vi và điều
kiện khác nhau, không thể thay thế nhau, cũng không nên cường điệu cái này
mà phủ nhận cái kia.
Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch, vững
mạnh, kết hợp với phát huy dân chủ và tôn trọng pháp luật.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là

nhiệm vụ cần thiết và cấp bách. Một trong những giải pháp thực tiễn của quá
trình trên là phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước ấy sao
cho tinh, gọn, đủ mạnh, gồm những con người có phẩm chất đạo đức trong
sáng, lối sống lành mạnh, lập trường kiên trung, có năng lực và tinh thơng
nghiệp vụ, hoạt động có chất lượng, hiệu quả cao. Nếu không xúc tiến giải
pháp này, tức là không xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có
phẩm chất như trên, thì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
nói hay nói tốt đến mấy cũng chỉ là nhà nước tồn tại trên văn bản, lý thuyết,
chứ về thực chất, không tồn tại trong hiện thực.
3.2. Bài học gắn với trách nhiệm bản thân
Trên cương vị là cán bộ, đảng viên hiện nay bản thân ln nhận thấy vị
trí, vai trị quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Đây là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phát
huy quyền làm chủ của người dân một cách cao nhất. Đối với cán bộ, công
chức đang làm việc trong bộ máy nhà nước cần phải chấp hành nghiêm quy
định của pháp luật, quy định của cơ quan. Trong công việc tại cơ quan đơn vị
cần: cải cách các thủ tục hành chính liên tục để tăng cường tính cơng khai,
minh bạch; tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc và chi phí đi lại nhiều lần
gây tốn kém cho nhân nhân. Thực hiện bầu cử quốc hội và chính quyền địa
phương các cấp, tính dân chủ thể hiện ở chỗ việc chính quyền địa phương sẽ
tổ chức hội nghị lấy ý kiến nhận xét, tín nhiệm của cử tri nơi ứng cử viên


×