Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.68 KB, 19 trang )

Cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊ NIN VỀ CƠ CẤU XÃ HỘI –
GIAI CẤP VÀ VẤN ĐỀ VỀ LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG
1.1.

THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về cơ cấu xã hội – giai cấp trong
thời kỳ quá độ lên CNXH
1.1.1. Khái niệm
Mỗi con người đều tồn tại trong mối quan hệ lệ thuộc, tác động lẫn nhau và
sự tác động này khơng chỉ mang tính cá nhân mà cịn mang tính cộng đồng.
Cộng đồng xã hội là một bộ phận người có chung một số dấu hiệu, nguyên tắc.
Tuỳ theo cách xác định các dấu hiệu, nguyên tắc mà người ta có thể xác định
những cộng đồng với các tên gọi khác nhau (dân tộc, giai cấp, tập thể, đơn vị,
nhóm hoạt động,...). Có hai loại cộng đồng: cộng đồng khách quan được hình
thành một cách tự nhiên, không phụ thuộc vào ý muốn con người và cộng đồng
chủ quan được hình thành từ ý đồ, mục đích của con người.
Cơ cấu xã hội là tất cả những cộng đồng người và toàn bộ các quan hệ xã hội
do sự tác động lẫn nhau của các cộng đồng ấy tạo nên. Cơ cấu xã hội đề cập chủ
yếu đến các cộng đồng được hình thành một cách khách quan, dựa trên các dấu
hiệu tự nhiên như giai cấp, dân số, dân cư, nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo,... Từ
đó, người ta có thể xem xét các loại hình cơ cấu xã hội tương ứng: cơ cấu xã hội
- giai cấp, cơ cấu xã hội - dân số (với dấu hiệu nhân khẩu), cơ cấu xã hội - dân
cư (với dấu hiệu cùng cư trú theo địa lý), cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã
hội - dân tộc, cơ cấu xã hội - tôn giáo,... Dưới góc độ chính trị - xã hội, mơn học
chủ nghĩa xã hội khoa học ở đây chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề cơ cấu xã hội giai cấp.
Cơ cấu xã hội - giai cấp là hệ thống các giai cấp, tầng lớp xã hội và các mối
quan hệ giữa chúng. Đó là các mối quan hệ về sở hữu, quản lý, địa vị chính trị xã hội,... Cơ cấu xã hội - giai cấp vừa phản ánh sự tồn tại xã hội và vừa tác động
lại sự phát triển của xã hội. C. Mác đã từng nói rằng: "lịch sử tất cả các xã hội
tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp" và V.I. Lênin cũng nói:




kết cấu xã hội và chính quyền có nhiều biến đổi, nếu khơng tìm hiểu những biến
đổi này thì khơng thể tiến được một bước trong bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào.
1.1.2. Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH
Trong thời kỳ quá độ và kể cả dưởi CNXH, mặc dù đã xóa bỏ được sự đối
kháng về giai cấp, bất bình đẳng về giai cấp, mang lại sư thay đổi về chất của
các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động so với xã hội trước đó, nhưng với nền
kinh tế hgangf hóa nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước XHCN nên
vẫn còn tồn tại sự khác nhau giữa giai cấp và tầng lớp xã hội về nhiều mặt.
Song, sự khác nhau đó ngày càng được rút ngắn, sự xích lại gần nhau ngày càng
được gia tăng cùng với sự phát triển KT- XH của đất nước. Xu hướng xích lại
gần nhau được thể hiện ở 4 điểm sau đây:
Thứ nhất, sự xích lại gần nhau từng bước giữa các giai cấp, tầng lớp về mối
quan hệ với tư liệu sản xuất. Xu hướng này thể hiện thơng qua việc dần dần
hồn thiện quan hệ sản xuất XHCN từ thấp đến cao. Với chủ trương phát triển
nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hóa chế độ sở hữu… tạo điều kiện chó các
thành phần xã hội tồn tại bên cạnh nhau, xích lại gần nhau, đan xen lẫn nhau để
cùng phát triển
Thứ hai, sự xích lại gần nhau về tính chất lao động giữa các giai cấp, tầng
lớp, xư hướng này thể hiện thông qua việc phát triển cuộc CM về khoa học và
công nghệ, áp dụng những thành tuuw mới vào quá trình phát triển lực lượng
sản xuất, rút ngắn khoảng cách của sự khác biệt giữa các lực lượng xã hội trong
quá trình lao động
 Xích lại gần nhau về mối quan hệ phân phối tư liệu tiêu dùng giữa các giai cấp
và tầng lớp. Xu hướng này diễn ra chủ yếu liên quan đến việc thực hiện ngày
càng hoàn thiện nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế,
 Sự xích lại gần nhau về tiến bộ về đời sống tính thần giữa các giai cấp. Xu
hướng này thể hiện trực tiếp thông qua cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư

tưởng, văn hóa làm cho các giai cấp xích lại gần nhau.
 Tính quy luật của sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH:


Sự biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp gắn liền và được quy định bởi biến
đọng cơ cấu kinh tế, thành phần kinh tế, cơ cấu hành chính kinh tế - xã hội. Sự
tồn tại của nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn đến cơ cấu XH giai cấp đa dạng
và phức tạp. Trong thời kỳ này, có những giai cấp, tầng lớp của cơ cấu xã hội
giai cấp mới và một bộ phận của giai cấp, tầng lớp bóc lột. Q trình biến đổi cơ
cấu xã hội giai cấp cũ sang cơ cấu xã hội giai cấp mới là 1 quá trình liên tục, đa
đạng, phức tạp và mạnh mẽ. Cơ cấu xã hội giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH biến động và phát triển trong mối quan hệ vừa có mâu thuẫn, vừa có mối
quan hệ liên minh với nhau, tiến tới xóa bỏ hiện tượng bất bình đẳng trong xã
hội, đưa đến sự xích lại gần nhau giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, đặc
biệt là giữa công nhân, nơng dân và trí thức.
 Xu hướng phát triển của cơ cấu xã hội - giai cấp ở VN trong thời kỳ quá độ: Đa
dạng và thống nhất
Tính đa dạng thể hiện ở sự tồn tại nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp xã hội: giai
cấp công nhân, giai cấp nơng dân, đội ngũ trí thức, bộ phận tư sản và các tầng
lớp nhân dân lao động khác. Tính đa dạng còn thể hiện ngay cả trong cơ cấu của
mỗi giai tầng
Tính thống nhất thể hiện ở chổ trong cơ cấu xã hội giai cấp ấy, giai cấp công
nhân, lực lượng tiêu biểu cho phương thức sản xuất giữ vai trị chư đạo trong
q trình cải biến xã hội. Đồng thời giai cấp công nhân cùng với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức tạo thành nền tảng chính trị- xã hội vững chắc,tạo nên sự
thống nhất của cơ cấu XH- giai cấp trong thời kỳ quá độ.
1.2.

Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên CNXH


2. THỰC TIỄN CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ VẤN ĐỀ VỀ LIÊN MINH
GIAI CẤP, TẦNG LỚP TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT
2.1.

NAM
Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Từ sau Đại hội VI (1986), Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang xây dựng kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát triển kinh tế


thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích
cực, chủ động hội nhập quốc tế. Quá trình này đã dẫn đến những biến đổi vĩ mô
trong cơ cấu xã hội giai cấp, nghề nghiệp, dân số, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo...,
đặc biệt trong cơ cấu xã hội giai cấp có sự biến đổi rõ rệt. Giai cấp công nhân
tăng nhanh về mặt số lượng, chất lượng (kể cả số lượng tuyệt đối cũng như tỷ
trọng trong dân cư). Hàm lượng lao động có trình độ cao, tay nghề cao gia tăng
một cách đáng kể. Giai cấp nông dân vẫn tăng mạnh về mặt số lượng song tỷ
trọng trong dân cư giảm. Trong tương lai, nơng nghiệp nước ta cịn tiếp tục bứt
phá và triển vọng sẽ trở thành một trong 30 nước có nền nông nghiệp phát triển
nhất thế giới. Điều này dẫn đến những biến đổi trong cơ cấu lao động - việc làm.
Lao động dịch vụ tăng cùng sự gia tăng nhanh chóng thành phần kinh tế tư nhân,
trong đó có sự lớn mạnh đáng kể của tầng lớp doanh nhân (cả nước hiện có trên
3 triệu hộ sản xuất kinh doanh, gần một triệu doanh nghiệp với đội ngũ đông đảo
doanh nhân).
Tầng lớp trí thức tăng nhanh về mặt số lượng, đa dạng hóa trong cơ cấu nghề
nghiệp và lĩnh vực hoạt động. Công nghệ thông tin phát triển mạnh; các lĩnh vực
dầu khí, điện tử, bưu chính viễn thơng (đặc biệt là điện thoại di động). Số lượng
lớn trí thức làm việc trong các khu vực kinh tế tư nhân, với nước ngoài và làm
việc ở ngoài nước mang lại nhiều công nghệ, kinh nghiệm tiên tiến của thế giới

phục vụ nhu cầu phát triển của nền kinh tế- xã hội trong nước. Trí thức tăng lên
nhiều hơn lực lượng tham gia lao động trực tiếp ra của cải vật chất, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng và tăng cường khối đồn kết cơng- nơng- trí. Đã có nhiều
trí thức trở thành doanh nhân, cùng đồng hành “4 nhà”, “5 nhà” với nhà nước,
nhà nông, ngân hàng, nhà quản lý và đang dần trở thành một lực lượng xã hội
quan trọng trong thời kỳ đổi mới.
Quá trình đổi mới đất nước, mở cửa hội nhập, phát triển kinh tế thị trường đã
dẫn đến nhiều biến đổi kinh tế- xã hội to lớn. Bên cạnh những thành tựu đạt
được có ý nghĩa lịch sử thì đó là q trình phân hóa, phân tầng xã hội mạnh mẽ.
Từ một cấu trúc về cơ bản và phổ biến là ngang bằng nhau trước đổi mới (thời


bao cấp) thì cho tới nay đã xuất hiện một xã hội có “cấu trúc tầng bậc”
(hierarchical structure) ngày càng rõ ràng; hình thành nên những giai - tầng xã
hội khác nhau về thu nhập, mức sống, địa vị kinh tế, hưởng thụ văn hóa, quyền
lực chính trị và uy tín xã hội... Những giai - tầng này khơng phải là phép cộng
cơ học, đơn giản của chỉ hai giai cấp và tầng lớp mà là kết quả của sự hình thành
phức tạp “đan kết: nhiều chiều thơng qua những cơ động “ngang” (horizontal
mobility), dọc(vertical), “vào”, “ra”của những cá nhân, nhóm từ khắp các giai
cấp, tầng lớp, tổ chức, đồn thể xã hội.
Theo cách nhìn mới hiện nay, cơ cấu giai - tầng ở nước ta là một cấu trúc
“đan kết”vừa có cấu trúc “ngang”, vừa có cấu trúc “dọc”. Cấu trúc “ngang”, đó
là một tập hợp các giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp, tổ chức, đoàn thể trong xã
hội. Trong đó bao hàm các giai cấp cơng nhân, nơng dân, tiểu thương, doanh
nhân, trí thức... Cấu trúc “dọc”, tức là cấu trúc “tầng bậc” cao thấp khác nhau
trong xã hội, được xem xét (biểu hiện) ở ba dấu hiệu cơ bản khác nhau: địa vị
kinh tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính trị (quyền lực), địa vị xã hội (uy tín).
2.1.1. Tầng lớp xã hội “ưu trội”

Trong bối cảnh đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế đa thành phần, phát

triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế với những tác nhân kinh tế xã hội khác nhau (kể cả những tác nhân quốc tế bên ngoài cũng như những yếu
tố nội sinh), bên trong, mỗi giai cấp, tầng lớp, tổ chức xã hội đều không tĩnh tại
mà biến đổi không ngừng. Sự biến đổi này diễn ra trong nội bộ (trong lòng) mỗi
giai cấp, tầng lớp, cũng như trong mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp và
trên bình diện tồn xã hội (xã hội tổng thể). Biểu hiện nổi bật nhất là sự phân
tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo. Đáng lưu ý là có sự xuất hiện của tầng lớp xã
hội “ưu trội”. Tầng lớp này không “nổi” lên như một lực lượng xã hội, nhóm xã
hội riêng rẽ mà bao gồm những người ưu tú, tài hoa nhất vượt trội lên từ khắp
các giai cấp, tầng lớp, tổ chức trong xã hội... Đó là những cơng nhân với nhiều
sáng kiến tìm tịi, làm việc có năng suất cao, tạo ra được nhiều sản phẩm đẹp,


tốt, có chất lượng, mang lại những lợi ích hữu dụng cho xã hội; những doanh
nhân tài ba, tháo vát, sản xuất kinh doanh giỏi, áp dụng được những cơ chế quản
lý mới, công nghệ - kỹ thuật tiên tiến mang lại nhiều lợi nhuận, giải quyết được
nhiều việc làm cho người lao động, tạo nhiều sản phẩm, hàng hóa độc đáo, đa
dạng, chất lượng tốt, nâng cao năng lực cạnh tranh trong thương trường, trích
nộp được nhiều ngân sách cho nhà nước cũng như đóng góp nhiều nguồn tài
chính cho các việc làm thiện nguyện... Đó là những nhà quản lý giỏi, những nhà
khoa học có nhiều phát minh, sáng chế, đưa ra những quy trình cơng nghệ mới,
những cơ chế quản lý ưu việt, những đề xuất kiến nghị thiết thực mang lại nhiều
lợi ích cho đất nước. Đó là những nơng dân làm ăn giỏi, những chủ trang trại
dám nghĩ, dám làm, tháo vát, năng động, sáng tạo, khai thác, tận dụng lao động
dôi dư từ nông nghiệp, nông thôn, tạo ra những sản phẩm dồi dào, có giá trị cho
xã hội. Những người thợ thủ cơng, phát huy bàn tay vàng với những ý tưởng
“vàng” tạo ra những sản phẩm độc đáo mang lại thương hiệu có uy tín và lợi ích
cao cho xã hội... Đó là những công chức đưa ra được nhiều ý tưởng cải cách,
hợp lý hóa, tối ưu hóa các giải pháp, thủ tục hành chính, mang lại nhiều tiện ích
và sự hài lòng cho người dân...
2.1.2. Tầng lớp xã hội yếu thế


Song hành với sự hình thành của “tầng lớp xã hội ưu trội”, là sự xuất hiện
một cách tất yếu của tầng lớp “yếu thế”. Tầng lớp này cũng được hình thành từ
khắp các giai cấp, tầng lớp, tổ chức, nghề nghiệp, đoàn thể xã hội; đa số họ là
những người vừa hạn chế về các nguồn lực kinh tế, xã hội, văn hóa tổ chức, vừa
có những yếu kém về thể chất, tinh thần và gặp nhiều rủi ro, không may mắn
trong cuộc sống.
Sự biến đổi của cơ cấu xã hội cũng hình thành một số nhóm xã hội khác
trong đó có nhóm xã hội (chưa thể định danh) mà hoạt động của họ tạo ra những
bất ổn xã hội, hoặc tạo ra mầm mống của những bất ổn (những người làm nghề
mại dâm, buôn lậu...với con số lên đến hàng chục nghìn người); nhóm xã hội mà


nguồn sống dựa chủ yếu vào tiền của người thân đang sống và làm việc ở nước
ngoài gửi về (số lượng hàng vạn người, chủ yếu ở các thành phố phía Nam).
Như vậy, đặc điểm cơ cấu xã hội nước ta hiện nay là một xã hội đa cơ cấu giai tầng xã hội; trong mỗi giai cấp, tầng lớp lại có sự đan xen đa dạng, đa cấu
trúc. Các giai cấp và tầng lớp xã hội đang trong quá trình biến động, chưa định
hình, khó xác định và khó nhận diện.
2.2.

Liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam

2.2.1. Đặc điểm của giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức Việt
Nam
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có đầy đủ những yếu tố của giai cấp công nhân
hiện đại và cịn có những đặc điểm riêng của mình. Đó là do ra đời trước giai
cấp tư sản Việt Nam nên giai cấp cơng nhân Việt Nam có điều kiện sớm giữ vai
trò lãnh đạo và giành ưu thế ngay từ khi có Đảng của mình. Hơn nữa, sự gắn bó
giữa cơng nhân và nơng dân đã hình thành một cách tự nhiên, phần lớn xuất thân
từ nông dân nên giai cấp cơng nhân Việt Nam đã mang sẵn trong mình mối liên

minh với nông dân và luôn giữ được vai trị lãnh đạo trong q trình cách mạng
Việt Nam. Ngày nay, trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng thơn,
sẽ có nhiều người nơng dân vào làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành
công nhân ở chính ngay q hương mình. Điều này càng tạo cho sự gắn bó của
giai cấp cơng nhân với giai cấp nông dân, nông thôn một cách tự nhiên trên
nhiều mặt của đời sống xã hội.
Giai cấp nông dân Việt Nam là giai cấp của những người lao động sản xuất
vật chất trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp... trực tiếp sử dụng một tư
liệu sản xuất cơ bản và đặc thù, gắn với thiên nhiên là đất, rừng, biển để sản xuất
ra nơng sản. Nơng dân có phương thức sản xuất phân tán, năng suất thấp. Theo
V.I. Lênin, nông dân có "bản chất hai mặt" một mặt họ là những người lao động
(đây là mặt cơ bản nhất); mặt khác, họ là những người tư hữu nhỏ (đây là mặt
hạn chế sẽ được khắc phục trong q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá). Tuy


nhiên, nông dân không dựa trên tư hữu nhỏ này để bóc lột các giai cấp, tầng lớp
khác.
Giai cấp nơng dân khơng có hệ tư tưởng riêng mà tư tưởng của họ phụ thuộc
vào hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội. Họ vốn có cơ cấu khơng thuần
nhất, khơng có sự liên kết chặt chẽ cả về kinh tế và cả về tư tưởng, tổ chức.
Trong một nước nơng nghiệp thì họ là lực lượng chính trị - xã hội đông đảo nhất
và khi được giác ngộ họ trở thành lực lượng cách mạng to lớn nhất trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thực sự giải
phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột và trở thành người làm chủ xã hội và đóng góp
to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tầng lớp trí thức bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo,
có trình độ học vấn đủ để am hiểu và hoạt động trong lĩnh vực lao động của
mình. Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng
khoa học, văn học, nghệ thuật, lãnh đạo và quản lý... Sản phẩm lao động của trí

thức tác động quyết định đến năng suất lao động, đến sự phát triển xã hội về cả
mặt đời sống vật chất và cả về đời sống tinh thần.
Trí thức khơng có hệ tư tưởng riêng vì khơng có phương thức sản xuất riêng
và địa vị kinh tế - xã hội độc lập. Vai trò và tư tưởng của họ phụ thuộc vào giai
cấp thống trị xã hội. Mặc dù vậy, trí thức ln giúp giai cấp thống trị khái quát
về lý luận để hình thành hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.
Trong các chế độ tư hữu đa số trí thức là những người lao động bị áp bức,
bóc lột. Khi được sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trí thức trở thành người
làm chủ xã hội và đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở
Việt Nam, trí thức đã có nhiều đóng góp trong q trình đấu tranh cách mạng
giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại bộ phận được đào tạo
trong chế độ mới. Họ xuất thân chủ yếu từ nông dân, công nhân và các tầng lớp
lao động khác. Do vậy họ có mối liên hệ gần gũi với công nhân, nông dân và
luôn là lực lượng cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, cách mạng
khoa học và công nghệ ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và trí


thức ngày càng có vai trị, vị trí quan trọng, nhất là trong quá trình xây dựng
kinh tế tri thức và quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
2.2.2. Những nội dung cơ bản của liên minh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam
 Nội dung chính trị của liên minh của liên minh giai cấp cần thể hiện ở những
điểm sau đây:
Một là, mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản nhất của giai cấp cơng nhân, giai
cấp nơng dân, đội ngũ trí thức và của cả dân tộc ta là: Độc lập dân tộc và
CNXH. Nhưng để đạt được mục tiêu, lợi ích chính trị cơ bản đó khi thực hiện
liên minh lại khơng thể dung hịa lập trường chính trị của 3 giai tầng mà phải
trên lập trường tư tưởng chính trị của giai cấp cơng nhân. Bởi vì, chỉ có phấn
đấu thực hiện mục tiêu lý tưởng của GCCN thì mới thực hiện được đồng thời cả
nhu cầu lợi ích chính trị cơ bản của cơng nhân, nơng dân, trí thức và của dân tộc

là lập dân tộc và CNXH.
Hai là, khối liên minh chiến lược này phải đo Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo thì mới có đường lối chủ trương đúng đắn để thực hiện liên minh, thực hiện
quá trình giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng CNXH thành cơng. Do đó, Đảng
Cộng sản từ trung ương đến cơ sở phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức để lãnh đạo khối liên minh và lãnh đạo xã hội là vấn đề có ý nghĩa như một
nguyên tắc về chính trị của liên minh. Trong thời kỳ q độ lên CNXH, liên
minh cơng- nơng- trí thức ở nước ta còn làm nòng cốt cho liên minh chính trị
rộng lớn nhất là Mặt trận Tổ quốc, là cơ sở để xây dựng nền dân chủ XHCN,
đồng thời là nền tảng cho nhà nước XHCN ngày càng được củng cố lớn mạnh
để bảo vệ tổ chức và xây dựng CNXH.
Ba là: nội dung chính trị của liên minh không tách rời nội dung, phương thức
đổi mới hệ thống chính trị trên phạm vi cả nước. Dưới góc độ của liên minh, cần
cụ thể hóa việc đổi mới về nội dung tổ chức và phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị trong GCCN, nơng dân và trí thức. Nội dung chính trị cấp thiết
nhất hiện nay là triển khai thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, nhất là ở nông
thôn.


 Nội dung kinh tế của liên minh:
Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản, quyết định nhất, là cơ sở vật chất kỹ
thuật vững chắc của liên minh trong thời kỳ quá độ. Nội dung kinh tế của liên
minh ở nước ta trong thời kỳ quá độ được cụ thể hóa ở những điểm sau đây:
Phải xác định đúng thực trạng, tiềm năng kinh tế của cả nước và của sự hợp
tác quốc tế, từ đó mà xác định đúng cơ cấu kinh tế gắn liền với những nhu cầu
kinh tế của cơng nhân, nơng dân, trí thức và của toàn xã hội. Đảng ta xác định
cơ cấu kinh tế chung của nước ta là “Công- nông nghiệp- dịch vụ”. Trong điều
kiện hiện nay, Đảng ta còn xác định “Từng bước phát triển kinh tế tri thức, từ đó
ma tăng cường liên minh cơng- nơng- trí thức”
Trên cơ sở kinh tế, các nhu cầu kinh tế phát triển dưới nhiều hình thức hợp

tác, liên kết, giao lưu… trong sản xuất, lưu thông phân phối giữa công nhân,
nông dân, trí thức; giữa các lĩnh vực cơng nghiệp, nơng nghiệp, khoa học công
nghệ và các lĩnh vực khác; giữa các địa bàn, vùng, miền dân cư trong cả nước,
giữa nước ta và các nước khác.
Từng bước hình thành quan hệ sản xuất XHCN trong quá trình thực hiện liên
minh. Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải được thể hiện
qua việc đa dạng và đổi mới các hình thức hợp tác kinh tế, hợp tác xã, kinh tế hộ
gia đình, trang trại, dịch vụ ở nơng thơn. Trong q trình hình thành quan hệ sản
xuất phải trên cơ sở cơng hữu hóa các tư liệu sản xuất chủ yếu, kinh tế nhà nước
vươn lên giữ vai trò chủ đạo, cùng kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế
cả nước, theo định hướng XHCN.
Nội dung kinh tế của liên minh ở nước ta còn thể hiện ở vai trị của Nhà
nước. Nhà nước có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện liên minh. Vai
trị của Nhà nước đối với nơng dân thể hiện qua chính sách khuyến nơng, các tổ
chức khuyến nông, các cơ sở kinh tế Nhà nước, Nhà nước có những chính sách
hợp lý thể hiện quan hệ của mình với nơng dân, tạo điều kiện cho liên minh phát
triển. Nông nghiệp và nông thôn không chỉ là một ngành kinh tế, một khu vực
kinh tế mà còn là một lĩnh vực mang ý nghĩa sinh thái xã hội.


Đối với tri thức, Nhà nước cần phải đổi mới và hồn chỉnh các luật, chính
sách có liên quan trực tiếp đến sở hữu trí tuệ như chính sách phát triển khoa học
và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về bản quyền tác giả, về báo chí, xuất bản, về
văn học nghệ thuật… Hướng các hoạt động của trí thức vào việc phục vụ côngnông, gắn với cơ sở sản xuất và đời sống toàn xã hội.
 Nội dung văn hóa, xã hội của liên minh thể hiện qua các nội dung cụ thể sau
đây:
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Nội dung xã hội mang ý nghĩa kinh tế và chính trị cấp thiết trước mắt của
liên minh là tạo nhiều việc làm có hiệu quả, đồng thời kết hợp các giải pháp cứu

trợ, hỗ trợ để xóa đói, giảm nghèo cho cơng nhân, nơng dân và trí thức.
- Đổi mới và thực hiện tốt các chính sách xã hội, đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xã
hội trong cơng nhân, nơng dân, trí thức cũng là nội dung xã hội cần thiết, đồng
thời còn mang ý nghĩa giáo dục truyền thống, đạo lý, lối sống… cho toàn xã hội
và thế hệ mai sau.
- Nâng cao dân trí là nội dung cơ bản, lâu dài. Trước mắt tập trung vào việc
củng cố thành tựu xóa mù chữ, trước hết là đối với nông dân, nhất là ở miền núi.
Nâng cao kiến thức về khoa học cơng nghệ, về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội. Khắc phục các tệ nạn xã hội, các hủ tục lạc hậu, các biểu hiện tiêu cực như
tham nhũng, quan liêu. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Gắn quy hoạch phát triển công nghiệp, khoa học công nghệ với quy hoạch
phát triển nông thôn, đô thị hóa, cơng nghiệp hóa nơng thơn với kết cấu hạ tầng
ngày càng thuận lợi và hiện đại.Xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hóa, thể
thao, các cơng trình phúc lợi cơng cộng một cách tương xứng, hợp lý ở các vùng
nông thôn, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Có như vậy, nội dung liên minh mới toàn diện và đạt mục tiêu của định
hướng XHCN và mới làm cho công- nông- trí thức cũng như các vùng, miền,
dân tộc xích lại gần nhau trên thực tế.


3. KIẾN NGHỊ ĐỂ THAY ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ PHÁT
HUY SỨC MẠNH CỦA KHỐI LIÊN MINH GIAI CẤP Ở VIỆT NAM
3.1.

HIỆN NAY.
Kiến nghị nhằm thay đổi cơ cấu xã hội – giai cấp ở Việt Nam
Mơi trường pháp lý và chính sách có những tác động, góp phần tạo những
biến đổi trong cơ cấu giai - tầng xã hội. Do đó, các cơ quan ở cấp trung ương
tiếp tục rà soát và điều chỉnh các chính sách kinh tế - xã hội như: chính sách xóa
đói giảm nghèo, tạo cơng ăn việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo

dục và đào tạo nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, phịng chống tệ nạn xã hội...
Nhà nước cần tìm ra cơ chế thích hợp nhằm phát hiện và sớm có chính sách
thu hút, đào tạo, sử dụng, sắp xếp những lực lượng xã hội ưu trội, những cá nhân
ưu tú, năng động, có trình độ năng lực lãnh đạo quản lý, năng lực sản xuất kinh
doanh vào những vị trí thích hợp để họ có thể phát huy tốt nhất tiềm năng, trí tuệ
của họ vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ hội để hiện thực hóa
những bứt phá về mặt chính sách, cải cách thể chế mà Đảng ta đã đề ra. Đặc biệt
là cần đầu tư, khuyến khích những chủ tập đồn doanh nghiệp lớn đang có uy tín
trên thương trường, tiếp tục mở rộng đầu tư, phát triển, tạo những hành lang an
toàn và những điều kiện tốt nhất để họ có thể tiếp tục phát triển vươn lên trở
thành những tập đoàn sản xuất xứng tầm quốc tế, góp phần phát triển kinh tế đất
nước.
Đảng và Nhà nước cũng cần đẩy mạnh hoạt động tơn vinh các nhà khoa học
có nhiều phát minh, sáng kiến, các nhà lãnh đạo - quản lý tài ba, các doanh nhân
làm ăn giỏi, tạo ra những môi trường tốt nhất để cho họ phát triển, để họ tiếp tục
phát huy hơn nữa những sự sáng tạo và đóng góp sức mình cho xã hội, đồng thời
có chính sách, chế độ đãi ngộ, thù lao thỏa đáng cho họ, đặc biệt đối với những
trí thức, viên chức hành chính, sự nghiệp (những người làm việc ở những khu
vực phi lợi nhuận) để ghi nhận và khuyến khích họ cũng như làm cho nhân dân
thấu hiểu và đồng thuận với những đánh giá công bằng, đúng đắn của Đảng,
Nhà nước về đội ngũ ưu tú này.
Các cấp ủy Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo thực hiện rà soát lại công tác tổ
chức cán bộ, chấn chỉnh bộ máy; xây dựng đồng bộ các giải pháp, bao gồm cả


việc cải cách thể chế, nâng cao năng lực điều hành và sự phối hợp hoạt động
giữa các ban, bộ, cơ quan chức năng, các ngành, các cấp. Xây dựng quy hoạch
cán bộ một cách bài bản, đồng bộ, hệ thống “dài hơi”, tương đối ổn định và có
trình tự, bước đi thích hợp trong một chỉnh thể thống nhất. Cần phải đưa ra được
những tiêu chuẩn (kể cả định tính và định lượng) về những phẩm chất và yêu

cầu cần thiết của từng loại, từng cấp cán bộ; xây dựng những nguyên tắc khoa
học để tạo nguồn cán bộ, sắp xếp, luân chuyển cán bộ, có chế độ khen thưởng
đối với những người làm tốt, có thành tích và xử phạt nghiêm minh đối với
những người sai phạm, làm việc kém hiệu quả. Cần sớm xây dựng bộ chỉ báo
đánh giá, hệ thống lương thưởng phù hợp với tài năng, đức độ và sự cống hiến,
đóng góp thực tế của mỗi cá nhân, tổ chức cho xã hội.
Đối với cộng đồng xã hội cần tích cực đẩy mạnh cơng tác thông tin, giáo dục,
truyền thông nhằm thay đổi hành vi xóa đói, giảm nghèo, phịng chống tệ nạn xã
hội và tăng cường sản xuất, kinh doanh theo hướng người nghèo bớt nghèo và
người giàu giàu thêm. Tạo dư luận xã hội ủng hộ tích cực các cá nhân vượt trội,
các nhóm xã hội ưu trội hợp thức trong cơ cấu giai - tầng xã hội, đồng thời phê
3.2.

phán, đấu tranh không khoan nhượng với các phần tử tiêu cực.
Kiến nghị để phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp trong thời điểm
hiện nay
Một là, tiếp tục nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các bộ phận
trong khối liên minh cơng - nơng - trí thức.
Với giai cấp công nhân, đào tạo đội ngũ công nhân vững về tri thức nghề
nghiệp, thành thạo kỹ năng và thái độ lao động chuyên nghiệp, tích cực. Đây
vừa là địi hỏi khách quan của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa là
địi hỏi của q trình hợp tác, phân công lao động và các hiệp định thương mại
khu vực, quốc tế. Gắn đào tạo nghề với việc mở rộng và phát triển các ngành,
nghề, lĩnh vực phù hợp với u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
khu vực, quốc tế, giáo dục văn hóa lao động, kỷ luật lao động, trách nhiệm nghề
nghiệp và tác phong công nghiệp.


Quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cơng nhân
lao động. Có quy định bảo đảm công bằng về tiền lương trong các thành phần

kinh tế, bảo đảm giá trị tiền lương thực tế để đủ cho cuộc sống của người lao
động cùng con cái họ. Cải thiện môi trường lao động, bảo hộ lao động, chăm lo
sức khỏe thể chất và tinh thần của người công nhân, nhất là xây dựng các thiết
chế văn hóa, điều kiện nhà ở... tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng
cường quản lý, giám sát việc thực thi pháp luật, nhất là Luật Lao động, Luật Bảo
hiểm, Luật Thuế thu nhập cá nhân,... bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của
cơng nhân lao động; giải quyết các tranh chấp lao động trên cơ sở luật pháp
quốc gia và quốc tế... để “bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của cơng nhân’’.
Đối với giai cấp nơng dân, khẩn trương hồn thiện cơ chế liên kết kinh tế
trong việc sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ hàng nông sản. Xây dựng
thương hiệu cho nông sản Việt Nam đồng thời với việc bảo vệ thương hiệu và
quyền sở hữu trí tuệ. Các chính sách hợp tác, hỗ trợ, cung ứng dịch vụ cho sản
xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp, nơng dân, nơng thơn phải được
thực hiện đồng bộ, tích cực... bên cạnh các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo
dục cộng đồng. Nhà nước thống nhất quản lý và điều hành hệ thống dịch vụ
phục vụ nông nghiệp, nông dân, nông thôn thông qua hệ thống liên kết “Bốn
nhà”. Có cơ chế, chính sách và cả cơ chế giám sát để hệ thống vận hành một
cách hiệu quả, bền vững, tạo cơ sở gắn kết các chủ thể lợi ích và các chủ thể
trong liên kết, như Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Hỗ trợ, khuyến khích
nơng dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công
nghiệp và dịch vụ. Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và
nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo
dục, thông tin,... cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện
có hiệu quả, bền vững cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu
hợp pháp”.


Với tầng lớp trí thức, thực hiện chính sách tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng,

đãi ngộ phù hợp, nhất là đội ngũ nghiên cứu, chuyên gia, kỹ thuật viên cao cấp,
hình thành đội ngũ chuyên gia chiến lược của đất nước đáp ứng yêu cầu của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ tư. Quan tâm xây dựng đội ngũ trí
thức trẻ, đáp ứng yêu cầu tiếp cận tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến của thời
đại. Tạo cơ chế phù hợp để các nghiên cứu, ứng dụng nhanh chóng được phổ
biến rộng rãi, thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu, đồng thời bảo đảm
quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm đó. Quan trọng hơn, “Tôn trọng và
phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí
thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí
thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”.
Hai là, phát huy vai trò của mỗi giai cấp, tầng lớp trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc
Đối với giai cấp công nhân, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao ý thức chính trị,
giác ngộ giai cấp, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần dân tộc. Trước mắt cần nâng
cao sự hiểu biết về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan đến lao động, việc làm, chính sách xã
hội, những vấn đề cơ bản về kinh tế thị trường, thị trường lao động, quan hệ lao
động, hợp tác và cạnh tranh, hội nhập quốc tế theo cam kết của các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, những vấn đề về sở hữu trí tuệ, phá sản, bảo hiểm.
Bồi dưỡng tinh thần và ý chí lao động, thái độ đối với sức ép cạnh tranh trong
thị trường lao động, các kỹ năng giải quyết quan hệ lao động, đặc biệt là lao
động gắn với yếu tố nước ngoài, trong khu vực FDI.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
nghề nghiệp trong các loại hình doanh nghiệp. Đổi mới hoạt động của tổ chức
cơng đồn, hướng về cơ sở, nắm bắt kịp thời, thường xuyên nhu cầu, nguyện
vọng, lợi ích chính đáng, hợp pháp của cơng nhân và đấu tranh, bảo vệ lợi ích


của họ. Đội ngũ cán bộ trong các tổ chức chính trị - xã hội của cơng nhân phải

thường xun nâng cao về trình độ, khoa học, cơng nghệ, pháp luật, ngoại ngữ,
tin học… đủ sức tham gia có hiệu quả vào q trình tập hợp, thu hút quần chúng
cơng nhân, tổ chức hoạt động cũng như bảo vệ lợi ích người lao động, cả trong
phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế; phương pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động
phải đa dạng, linh hoạt, theo kịp với những thay đổi về lao động, việc làm của
giai cấp công nhân trong tình hình mới.
Đối với giai cấp nơng dân, phải đặt vấn đề giáo dục, nâng cao trình độ dân trí
cho nơng dân lên hàng đầu. Nội dung giáo dục không chỉ giới hạn ở vấn đề
chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, mà sâu xa hơn là nền tảng tri
thức, văn hóa, tư duy, nếp nghĩ, thói quen của nơng dân. Khắc phục tính manh
mún, nhỏ lẻ trong tư duy của nông dân, thúc đẩy nông dân tiếp cận với cái mới,
khoa học, giúp họ thay đổi theo hướng chuyên nghiệp, văn minh trong sản xuất,
kinh doanh và tổ chức đời sống.
Ổn định và từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của nông dân
và cư dân nơng thơn, khắc phục tình trạng “ly hương”, giảm sức ép về lao động
mùa vụ ở các khu đô thị lớn cũng như các vấn đề xã hội khác ở nông thôn và
thành thị, xây dựng nhà nơng chun nghiệp với các mơ hình hợp tác, liên kết
phong phú, đa dạng. Điều này vừa góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn,
xây dựng nông thôn mới; vừa góp phần hạn chế những vấn đề xã hội có thể nảy
sinh do sức ép về dân cư và các sinh hoạt khác.
Đối với đội ngũ trí thức, cần tạo điều kiện, môi trường dân chủ hơn nữa cho
lao động sáng tạo của trí thức. Tạo điều kiện tối đa cho sự khai mở sáng tạo về
tri thức, học thuật, văn hóa lắng nghe; cũng như tơn trọng sự khác biệt trong đối
thoại, phản biện của trí thức. Đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với nhu
cầu nghiên cứu, khảo nghiệm, thực nghiệm, trao đổi học thuật và phát triển tri
thức, để thực sự “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các
cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của


Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội”(16).
Ba là, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh có thể ảnh hưởng tới khối
liên minh.
Liên minh giai cấp bền vững phải dựa trên việc tôn trọng nhu cầu, lợi ích của
chính bản thân các chủ thể tham gia liên minh. Vì vậy, vấn đề cơ bản và xuyên
suốt, vừa là nội dung, vừa là nguyên tắc mang tính quy luật trong việc xây dựng
khối liên minh công - nông - trí thức là phải xác định đúng các nhu cầu, phát
hiện kịp thời các nhu cầu mới nảy sinh của cơng nhân, nơng dân, trí thức trong
từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở những tiềm năng và thực trạng kinh tế - xã hội
từ đó có giải pháp để thỏa mãn các nhu cầu; xử lý đúng đắn, kịp thời những mâu
thuẫn nảy sinh giữa các giai cấp. Làm tốt điều này, sẽ củng cố, tạo nền tảng
vững chắc cho việc xây dựng và phát triển xã hội, hồn thành sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

KẾT LUẬN
Lý luận về liên minh giai cấp và tầng lớp trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
là một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn liền với xây
dựng chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Hệ lý luận về liên minh giai cấp và các
tầng lớp trong xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định thực hiện và bổ
sung, phát triển, xây dựng nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể thấy ở Việt Nam hiện nay, vấn đề về liên minh công - nông đã được
mở rộng thành liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân, đội ngũ
trí thức và trở thành nịng cốt của khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của


Đảng tiếp tục khẳng định, phải “tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
do Đảng lãnh đạo”, để lực lượng này thực sự trở thành nền tảng của khối đại
đoàn kết dân tộc, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh”.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam(2008), Văn kiện hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr43-70.
Đảng Cộng sản Việt Nam(2008), Văn kiện hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr9-28.
Đảng Cộng sản Việt Nam(2013), Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ chính trị
khóa XI về xây dựng và phát triển vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Bàn luận về giai tầng xã hội, cơ cấu xã hội - giai tầng xã hội, Tạp chí Thơng tin
Khoa học xã hội, số 9/2007, tr.51-53.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr. 9.



×