Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.96 KB, 24 trang )

Học viên: Lê Thị Tuyết Mai
SBD: 28 Lớp TC 137

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
Mơn: Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam
về các lĩnh vực của đời sống xã hội
(Phần: An ninh – Quốc phịng)

Câu 1: Phân tích mục tiêu chung của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc.
1. Khái niệm “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”:
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) xác định mục tiêu, quy tụ
lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp
thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng –an ninh để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc.
2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
- Học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Bảo vệ Tổ quốc
XHCN.
- Đường lối, quan điểm của Đảng ta về xây dựng đất nước và tăng cường
QP-AN bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
- Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và tình hình thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Về đối tượng của cách mạng VN:
+ Xác định đối tượng, đối tác.
+ Một chủ thể có thể vừa là đối tác vừa là đối tượng. Hai mặt đối tác và đối
tượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- Tình hình trong những năm tới trên thế giới cũng như trong nước có liên
quan trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
3. Mục tiêu chung trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm
về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế thừa kết quả
10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ


quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ
BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ
đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối cảnh mới của tình hình
thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc những nội
dung cơ bản sau:

1


a) Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc:
- Vì độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là vấn đề
thiêng liêng của dân tộc ta. Cha ông ta đã hy sinh biết bao xương máu để giành
được độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ qua lịch sử mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước, chiến đấu với những thế lực ngoại xâm hung hãn.
Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là
cần thiết vì hiện nay các thế lực thù địch vẫn khơng ngừng chống phá điên cuồng
cách mạng Việt Nam, độc lập, chủ quyền hiện nay đứng trước những mối đe dọa,
những nguy cơ: VD: tổ chức phản động FULRO lưu vong do Ksor Kơk cầm đầu
vẫn mang ảo vọng về thành lập một nhà nước tự trị được gọi là “Nhà nước của
người dân tộc thiểu số (DTTS) ở Tây Nguyên; Ở Tây Bắc ngày 30-4-2011 một số
người Mông nghe theo một số người xúi giục kéo về Mường Nhé tham gia vụ việc
địi tự do tín ngưỡng và địi thành lập “Vương quốc Mông riêng"; Hôm 28/6/2015,
khoảng 250 người Campuchia với sự tham gia của một số nghị sĩ đảng đối lập Cứu
nguy Dân tộc Campuchia (CNRP) đã tiến sâu vào khu vực mốc 203 do Việt Nam
quản lý, thuộc địa bàn tỉnh Long An…Trong bối cảnh đó, địi hỏi ta phải luôn nêu
cao cảnh giác, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bất cứ hoàn cảnh nào.
- Độc lập chủ quyền không chỉ là vấn đề lãnh thổ với không gian, địa lý xác
định, mà cần nhấn mạnh đó cịn là độc lập chủ quyền trên tất cả các lĩnh vực chính

trị, kinh tế, văn hóa, qn sự, v.v. Trước hết, là độc lập về chính trị, sự tự chủ về
chính trị, tự quyết định vận mệnh tương lai, con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền quyết định đó của Đảng và nhân dân ta khơng ai có thể xâm phạm; mất
quyền quyết định đó thì cũng có nghĩa khơng cịn độc lập, chủ quyền.Thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm toàn bộ đất liền, vùng trời, vùng biển, hải đảo đã
được hình thành, định hình trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta. Trong điều kiện mới, sự thống nhất và tồn vẹn cần được hiểu rộng hơn,
đó là sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc, của các dân tộc trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam và sự thống nhất giữa cộng đồng người Việt Nam trong nước với
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Sự thống nhất ấy được dựa trên cơ sở
cùng nhau hướng tới và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Sự thống nhất về địa lý lãnh thổ và chính trị - xã hội quan hệ
chặt chẽ, hòa quyện với nhau, tạo nên chỉnh thể thống nhất toàn vẹn của Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải bảo vệ bằng mọi giá. Bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ
của đất nước, bao gồm vùng đất, vùng trời, nội thuỷ, lãnh hải và lãnh thổ đặc biệt
của Việt Nam; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại, vi phạm
chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ của Việt Nam.Bảo vệ sự thống nhất lãnh thổ của đất
nước, thống nhất về quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên phạm vi lãnh thổ
Việt Nam. Đấu tranh làm thất bại mọi hành động chia cắt lãnh thổ Việt Nam; mọi
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch cả bên trong lẫn bên ngồi hịng phá
hoại quyền lực tối cao của Việt Nam. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là trách nhiệm của toàn dân.
2


b)Bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN:
- Trong Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước và quyền làm chủ của nhân dân là những vấn đề cơ bản về mặt chính trị - xã
hội, quy định bản chất của Tổ quốc: ĐCSVN là lực lượng cầm quyền, nhà nước là
của dân, do dân, vì dân, chế độ XHCN là sự lựa chọn của nhân dân, nhân dân là

chủ thể của đất nước. Trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và khu vực
hiện nay, các thế lực thù địch đã lợi dụng những thiếu sót trong đời sống xã hội để
cơng kích, lên án, nhằm lật đổ Đảng, xóa bỏ vai trị lãnh đạo cách mạng của Đảng,
chống phá nhà nước ta, làm sụp đổ chế độ XHCN mà nhân dân ta xây dựng; vì thế,
vấn đề có ý nghĩa cốt tử của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong tình hình mới là: bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa.
- Điều đó, địi hỏi trước hết phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững
mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ; xây dựng Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì
dân, đủ sức điều hành và quản lý đất nước trong thời kỳ mới; bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ đội ngũ cán bộ của
Đảng. Xây dựng phải gắn chặt với việc khắc phục suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tham nhũng ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, ngăn chặn “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, loại trừ những cán bộ, đảng viên thối
hóa, biến chất, lợi dụng uy tín của Đảng để mưu lợi cho bản thân, gia đình và tích
cực đấu tranh chống hành động phá hoại của các thế lực thù địch. Nhân dân lao
động làm chủ là bản chất của chế độ ta và là thành tựu vĩ đại của cách mạng Việt
Nam suốt bảy thập kỷ qua. Do đó, bảo vệ nhân dân thì trước hết và quyết định là
bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực, cả về quyền tự do, tính
mạng, tài sản và lợi ích chính đáng, hợp pháp của họ. Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) nhấn mạnh: phải “thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ
động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”;
“củng cố sự đồn kết, thống nhất trong Đảng, lịng tin của nhân dân với Đảng, Nhà
nước, tăng cường khối đại đoàn kết tồn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã
hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
c)Bảo vệ sự nghiệp đổi mới cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa:
- Vì sự nghiệp đổi mới CNH – HĐH là con đường Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn, nó đã đem lại những thành tựu đáng kể nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, làm thay đổi hoàn tồn diện mạo của đất nước. Đối với các
nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như nước ta, xây

dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu, từ khơng
đến có, từ gốc đến ngọn thơng qua cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến
của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố là một bước tăng cường cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp
phần hồn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới CNH –
HĐH hiện nay đang gặp phải sự chống phá của các thế lực thù địch.
- Đây thực chất là bảo vệ đường lối phát triển và xây dựng đất nước trong
thời kỳ mới và những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại
3


hóa đất nước của nhân dân ta. Bảo vệ các mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế
- xã hội, bảo vệ thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta thực hiện: Xây
dựng cơ sở hạ tầng, Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, Cơ chế, cơ cấu thực
hiện. Điều này cịn có nghĩa là phải làm cho sự nghiệp ấy phát triển đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững.Tạo điều kiện thuận
lợi cho khoa học và công nghệ phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng
cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật
chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công
và hợp tác quốc tế.
d)Bảo vệ lợi ích Quốc gia, dân tộc
- Vì lợi ích quốc gia dân tộc là vấn đề thiêng liêng, nó được biểu hiện trên
mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phịng – an ninh. Lợi ích quốc gia
dân tộc là toàn bộ lợi ích mà nhân dân ta có được, giành được, phát triển và giữ gìn
trong quá trình đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong bối cảnh mới, nội
hàm lợi ích quốc gia, dân tộc đã được mở rộng, bao gồm cả lợi ích của ta ở trong
nước và ở ngồi nước, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, quốc
phịng, an ninh, đối ngoại. Nó bao gồm cả lợi ích tổng thể của quốc gia, đất nước

và lợi ích cụ thể của các doanh nghiệp, của các cá nhân là người Việt Nam; lợi ích
của chúng ta trong các doanh nghiệp nước ngồi có quan hệ hợp tác, đầu tư ở Việt
Nam, với Việt Nam; quyền lợi, lợi ích của nước ta trong các tổ chức quốc tế và khu
vực, trong các hiệp ước, cam kết quốc tế đa phương, song phương mà chúng ta
tham gia, v.v. Nội dung rộng lớn và tồn diện đó hợp thành chỉnh thể lợi ích quốc
gia, dân tộc, phải kiên quyết bảo vệ, giữ gìn. Yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia dân
tộc đòi hỏi rất cao ý thức, trách nhiệm công dân, của các chủ thể, các lực lượng,
đặc biệt là các lực lượng trực tiếp quan hệ, hợp tác với nước ngoài; kiên quyết
ngăn chặn những biểu hiện chỉ vì lợi ích cục bộ, địa phương, lợi ích riêng làm ảnh
hưởng, vi phạm, phương hại đến lợi ích quốc gia dân tộc.
- Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh,
hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân; bảo đảm cho lợi
ích quốc gia, dân tộc ln được giữ vững.
e)Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa Việt Nam
- Vì an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an tồn xã hội được đảm bảo,
nền văn hóa phát triển đúng định hướng thì đất nước mới phát triển được. Hiện nay
tình hình an ninh chính trị đang gặp phải sự chống phá của các thế lực thù địch, lợi
dụng những thiếu sót trong đời sống xã hội để cơng kích Đảng và Nhà nước ta, gây
bạo loạn nhằm lật đổ Đảng Cộng sản, xóa bỏ Nhà nước và chế độ XHCN mà nhân
dân ta xây dựng. Về trật tự xã hội: tình hình tội phạm ngày càng gia tăng, đặc biệt
tội phạm chưa thành niên, tội phạm trẻ hóa, xuất hiện tội phạm mới: cơng nghệ
cao, có tính quốc tế. Nền văn hóa có nhiều thành tựu nhưng cũng bị tác động bởi
4


văn hóa ngoại lai, lối sống thực dụng, ích kỷ… Đó là những thách thức địi hỏi ta
phải bảo vệ An ninh chính trị, Trật tự An tồn XH và nền VH Việt Nam.
- Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế
trận quốc phịng tồn dân với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt coi

trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc để
tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng. Đồng thời tập trung xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh
chiến đấu tồn diện và trình độ sẵn sàng chiến đấu cao, làm nịng cốt của nền quốc
phịng tồn dân. Đi kèm với đó, quan trọng là ta phải giữ vững trật tự an tồn xã
hội: Phát hiện sớm và đấ utranh có hiệu quả với các tổ chức phản động, kéo giảm
tội phạm, phối hợp chặt chẽ với quần chúng nhân dân trong cơng tác phịng chống
và tố giác tội phạm, thực hiện tốt Nghị quyết số 09/1998/nq – cp và chương trình
phịng quốc gia phịng, chống tội phạm ở địa phương. Trên lĩnh vực văn hóa là bảo
vệ nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; làm cho chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh
thần, nền tảng tư tưởng của xã hội; chống sự xâm nhập của mọi trào lưu tư tưởng
phi vơ sản và sự ảnh hưởng của văn hóa độc hại vào đời sống xã hội. Đồng thời,
phải ra sức xây dựng, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; không ngừng quảng bá, phát huy các giá trị văn hóa, hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam trên thế giới, góp phần gia tăng “sức mạnh mềm” cho sự
nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước, thực hiện tốt Nghị quyết trung ương 9 về
phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
f) Giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình để phát triển đất nước
theo định hước XHCN:
- Vì có ổn định chính trị, có mơi trường hịa bình thì ta mới phát triển kinh tế
- xã hội, thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Hiện
nay, trước diễn biến phức tạp trên Biển Đông, tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày
càng gay gắt; các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hịa
bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng
làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục
tiêu của CNXH, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp. ,
tồn dân và tồn qn ta đồn kết một lịng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hịa bình, ổn

định để phát triển bền vững đất nước, cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh.
- Theo tinh thần đó, Đảng ta xác định chiến lược quốc phòng phải được kết
hợp chặt chẽ với Chiến lược an ninh và Chiến lược ngoại giao trong Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc, dựa chắc trên nền tảng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, lấy
giữ vững hịa bình, ổn định, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt và phát triển
bền vững là phương thức tối ưu để bảo vệ Tổ quốc. Công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN phải gắn chặt với cuộc đấu tranh giữ gìn hịa bình, ổn
định trong khu vực và trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi và thế đối ngoại vững
5


mạnh để tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng của đất nước. Phải thực hiện
tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng đề ra: độc lập, tự chủ, thêm bạn, bớt
thù. Cùng với đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá ngày
càng tinh vi từ bên ngoài, chúng ta cần đặc biệt coi trọng việc “tự bảo vệ”. Sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải được thể hiện ngay trong khả năng "tự bảo vệ"
của mỗi con người, mỗi tổ chức, mỗi ngành, mỗi cấp, đặc biệt là ở cơ sở. Luôn giữ
vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; không ngừng
củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nêu cao cảnh giác, làm thất bại
mọi âm mưu, hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, khơng để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Tóm lại, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới là một bộ
phận trọng yếu của chiến lược quốc gia, nhằm cụ thể hóa đường lối tăng cường
quốc phòng an ninh để thực hiện thắng lợi một trong hai nhiệm vụ chiến lược là
Bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ đầy mạnh CNH-HĐH đất nước theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đề ra; đó là một chiến lược mang tính tổng hợp,
tồn diện, do cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng đề ra.
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc tư tưởng Hồ Chí Minh về dựng nước và

giữ nước; thực hiện có kết quả “chiến lược Bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới”.
Liên hệ thực tế:
- Trước hết, cần phải làm tốt cơng tác tham mưu cho các cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp quán triệt sâu sắc đường lối quân sự của Đảng, thấy rõ vai
trị, vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; vị
trí, nhiệm vụ quốc phịng địa phương trong thế trận khu vực phòng thủ của quân
khu và cả nước. Những yêu cầu xây dựng khu vực phòng thủ trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và q trình hội nhập của phát triển kinh tế - xã hội
thành phố;
Thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28- NQ/TW của
Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
khu vực phịng thủ vững chắc trong tình hình mới. Theo đó, tập trung xây dựng
tiềm lực về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sinh, khoa học - cơng
nghệ, quốc phịng, an ninh và đối ngoại của khu vực phòng thủ; xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở từng địa
phương; chủ động nắm tình hình, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi
âm mưu và hoạt động “diễn biến hịa bình”; tổ chức phòng thủ dân sự, phối hợp
chặt chẽ các lực lượng để phịng, chống kịp thời, có hiệu quả thiên tai, thảm họa…

6


Câu 2: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Chiến lược bảo vệ
Tổ quốc
1. Khái niệm chiến lược bảo vệ Tổ quốc :
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) xác định mục tiêu, quy tụ
lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp
thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc.
2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc :

a) Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; không ngừng củng cố,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là những nhân tố thắng lợi của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt Nam ra
đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ
đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai
cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh
chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trải qua
85 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước thực hiện
thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ
chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước
Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn về kinh
tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ động khởi xướng và lãnh đạo
thành công công cuộc đổi mới đất nước (1986). Những thành tựu to lớn trong 30
năm đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng - an
ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao
vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra,
Việt Nam đã nhanh chóng khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các
tầng lớp nhân dân lao động khơng ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lịng tin
của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.

Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ:
“Điều 4
7


1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Namgắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân,chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Namhoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng
xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trị độc tơn lãnh đạo của Đảng, mà
cịn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể
chế chính trị-xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Với quan điểm này, Đảng ta tiếp tục khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là
lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp quốc phòng, an ninh. Đảng lãnh đạo sự
nghiệp quốc phòng, an ninh từ trung ương đến cơ sở, mọi nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh diễn ra ở đâu, thời điểm nào đều phải đặt dưới sự lãn h đạo của Đảng.
Đảng cũng xác định các yếu tố tạo thành nhân tố quyết định thắng lợi của sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là vai trò vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý
của Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
b) Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Giữ vững
môi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của
đất nước. Đồng thời, luôn nêu cao cảnh giác, đánh bại mọi âm mưu, hành động
chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, khơng để bị động, bất ngờ trong

mọi tình huống.
Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) gắn với q trình gần 30 năm đổi mới đất
nước; trên cơ sở đó, ban hành Nghị quyết mới về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
(BVTQ) trong tình hình mới”. Nghị quyết đã xác định hệ thống những quan điểm
mang tầm chiến lược về BVTQ; trong đó,“Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
(ĐLDT) gắn liền với CNXH” là một quan điểm cơ bản. Thực chất đây vừa là quan
điểm, vừa là mục tiêu xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam đã được xác định
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XI và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng từ
trước đến nay.
Từ lý luận và thực tiễn cách mạng, có thể khẳng định: gắn ĐLDT với CNXH
là con đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Ngay
trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận cương chính trị năm 1930,
Đảng ta đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, đưa cả nước tiến lên
8


CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Nói cách khác, ĐLDT luôn gắn liền với
CNXH. Nhưng trong từng giai đoạn của cách mạng, sự kết hợp đó có đặc điểm
riêng.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường;
xu hướng tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng. Điều đó, tác động nhiều
chiều đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Đáng chú ý là,
các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường hoạt động chống phá trên tất cả các lĩnh
vực, hịng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở nước ta. Những
yếu tố bên trong, bên ngoài đang tồn tại đan xen, vừa tạo cơ hội, vừa làm phát sinh
thách thức mới. Trong nội bộ, tệ quan liêu, tham nhũng, suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống là mầm mống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khơng

thể xem thường. Vì thế, hơn bao giờ hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
phải kiên định mục tiêu ĐLDT gắn với CNXH, thường xuyên nêu cao cảnh giác,
chủ động ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
XHCN, v.v.
Như vậy, ĐLDT và CNXH vừa là mục tiêu cơ bản của cách mạng, vừa là lợi
ích căn bản của quốc gia và là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta. Do
đó, trong quá trình thực hiện, chúng ta cần quán triệt sâu sắc quan điểm: lấy phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa, xã hội là
nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh là nhiệm vụ trọng
yếu, thường xuyên. Bên cạnh đó, việc kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền với
CNXH đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên nắm vững và thực hiện có hiệu quả hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ XHCN; coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh và đối ngoại; kiến tạo và giữ
vững mơi trường hịa bình để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Trong thời
đại tồn cầu hóa, hợp tác quốc tế cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ kết hợp
tiếp thu sáng tạo những thành tựu mới trên các lĩnh vực của thời đại với sự vận
động của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng, bảo đảm vừa kiên định
nguyên tắc chiến lược, vừa linh hoạt, sáng tạo trong những giải pháp tổ chức thực
hiện.
Với những phát triển mới trong đường lối đối ngoại Đại hội XI, chúng ta
càng tin tưởng chắc chắn rằng, sự nghiệp đối ngoại dưới sự lãnh đạo của Đảng sẽ
tiếp tục thu được những thắng lợi mới. Tuy nhiên, để đường lối sớm đi vào cuộc
sống, cần phải có nỗ lực vượt bậc trong tất cả các khâu, từ cụ thể hóa đường lối
thành chính sách đến xây dựng và triển khai chiến lược, kế hoạch, đề án đối ngoại.
c) Ba là, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành công
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nội lực đồng thời tranh thủ tối đa
và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần

9


của xã hội. Kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với củng cố,
tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Xây dựng để tạo nền tảng cho bảo vệ, bảo vệ để xây dựng nền tảng.
Mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta
nhìn nhận toàn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược
là phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống
chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác, bảo
đảm kinh tếxã hội phát triển ổn định, bền vững; quốc phòng, an ninh được tăng
cường. Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội là nền
tảng vững chắc của quốc phòng-an ninh. Phát triển kinh tế-xã hội đi đơi với tăng
cường sức mạnh quốc phịng, an ninh; bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành một
trong những mục tiêu trọng yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội; kinh tế
phát triển, các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết, đời sống nhân dân không
ngừng được nâng cao, thực hiện tốt công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh được
bảo đảm, đối ngoại được mở rộng sẽ tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn,
mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
- Phát huy sức mạnh dân tộc là kết tinh từ truyền thống, kết hợp sức mạnh
thời đại là xu thế hịa bình.
Ðại đồn kết tồn dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được hun
đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Từ khi ra đời, Ðảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln ln coi trọng việc xây dựng, củng cố và mở rộng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không
phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tơn giáo, tập hợp đồn kết, tạo nên sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc đang tiếp tục phát huy cao

độ, trở thành động lực của công cuộc đổi mới CNH, HÐH đất nước. Ðại đoàn kết
toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng nước ta.
- Phát huy nội lực là những yếu tố từ bên trong của đất nước, khai thác
thuận lợi từ bên ngoài là sự ủng hộ của nhân dân các nước.
Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là hai nguồn lực to lớn của cách
mạng Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ hai nguồn lực đó sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp
để cách mạng vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay, được Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tiếp tục quán triệt và coi trọng, xem đó là
một trong những quan điểm chỉ đạo triển khai thực hiện “Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới”.
Trên cơ sở phân tích thời cơ, thách thức cùng xu hướng phát triển của tình
hình thế giới, khu vực và trong nước thời gian tới, Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã chỉ rõ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc hiện nay
10


là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới, CNH,HĐH; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự
an tồn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình
để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN”. Để thực hiện có hiệu
quả mục tiêu đó, Nghị quyết yêu cầu phải nắm vững một trong các quan điểm chỉ
đạo là: “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời
đại. Phát huy mạnh mẽ nội lực là nhân tố quyết định; đồng thời tranh thủ tối đa
mọi thuận lợi từ bên ngoài”. Đây vừa là sự quán triệt và vận dụng sáng tạo một
trong những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, mà Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
tổng kết1 vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay; vừa thể hiện sự phát triển mới về
nhận thức và hành động thực tiễn của Đảng ta so với Nghị quyết Trung ương 8

(khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”.
Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều thuận lợi, nhưng
cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với việc phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp
với sức mạnh thời đại. Ở trong nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố
và tăng cường, nhất là trước kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)
về cơng tác xây dựng Đảng và thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị
(khóa IX) về cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi. Tiềm lực kinh tế, uy
tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
kém phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được bảo vệ vững chắc. Các quan hệ
quốc tế được đa dạng hóa, đa phương hóa. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao
với 180/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; trong đó, có quan hệ đối tác chiến
lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, gồm tất cả 5 nước thường trực
Hội đồng bảo an; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là
thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế,… Đó là những tiền đề
thuận lợi cho việc huy động hai nguồn lực to lớn - sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại - để kết hợp chặt chẽ hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tư tưởng chỉ đạo chiến
lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Điều đó đã được thực tiễn lịch sử cách
mạng Việt Nam thẩm định và trở thành một bài học kinh nghiệm lớn. Ngày nay, kế
thừa và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm đó tiếp tục là một phương thức tạo
nên “sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc phịng, an
ninh, đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc”. Đó là trách nhiệm của tồn dân, của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
d) Bốn là, xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý,
điều hành, thống nhất của Nhà nước; lực lượng vũ trang làm nòng cốt; tăng
11



cường tiềm lực quốc phòng an ninh, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân, thế
trận an ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
Bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới cần phải có sức mạnh tổng hợp của tất
cả các lĩnh vực, bởi lẽ mỗi lĩnh vực đều có đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của đất nước. Bảo vệ Tổ quốc hiện nay cần huy động sự tham gia đông đảo
của mọi người, phải đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp, đồng bào các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam trong và ngồi nước. Vì đồn kết là truyền thống
của chúng ta: để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân cần đoàn kết các giai cấp,
tầng lớp; đoàn kết 54 dân tộc anh em; đồn kết các tơn giáo; đoàn kết người Việt
Nam ở nước ngoài; đoàn kết hệ thống chính trị: Đảng, MTTQ và các tổ chức. Có
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc như vậy chúng ta sẽ thành công trong sư
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Để có sức mạnh bảo vệ Tổ quốc cịn cần phải xây dựng
tiềm lực quốc phòng, an ninh, thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân
phù hợp với tình hình hiện nay. Đó là xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm
lực kinh tế - xã hội, khoa học – công nghệ, tiềm lực quân sự - an ninh. Đồng thời
sắp xếp, bố trí, huấn luyện để toàn dân tham gia thực hiện các nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh.
e) Năm là, quán triệt đường lối độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế; kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa; thêm bạn bớt thù, vừa hợp tác vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác.
Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, Ngoại giao đã trở thành
mặt trận quan trọng trong thời bình và đã góp phần giữ vững và củng cố mơi
trường hồ bình và tạo những điều kiện quốc tế ngày càng thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế và uy tín của nước ta ở khu vực và
trên thế giới.
+ Thành tựu đối ngoại có tính chất bao trùm trong thời gian qua là từ chỗ bị
cơ lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã chủ động, nỗ lực mở
rộng hơn bao giờ hết quan hệ đối ngoạicủa mình theo hướng đa dạng hóa, đa

phương hóa. Trong 20 năm đổi mới, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao thêm
với 57 nước, nâng tổng số quốc gia có quan hệ chính thức lên 169 nước; và có
quan hệ buôn bán với 224/ 255 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ.
+ Việt Nam đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định
lâu dài và ngày càng đi vào chiều sâu với các nước láng giềng, khu vực; góp phần
đáng kể vào việc duy trì mơi trường an ninh xung quanh Việt Nam và phục vụ cho
công cuộc phát triển kinh tế.
Các hiệp ước, hiệp định ký với Trung Quốc, Cam-pu-chia trong thời gian
qua đã đã tạo cơ sở pháp lý cho việc biến đường biên giới chung Việt Nam với các
nước láng giềng thành đường biên giới hịa bình, hữu nghị, thịnh vượng chung.
12


+ Thành tựu tiếp được coi là bước phát triển lớn, mang tính đột phá trong
triển khai hoạt động đối ngoại thời kỳ Đổi mới. Đó là Việt Nam đã đi từ bình
thường hóa quan hệ đến từng bước nâng cấp và xác lập khn khổ quan hệ hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị lớn
và các nước cơng nghiệp phát triển.
+ Trong triển khải chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc
tế, Việt Nam đã tích cực và chủ động củng cố và phát triển quan hệ hợp tác với các
nước bạn bè truyền thống và các nước đang phát triển khác ở Trung Đông, châu
Phi và Mỹ La tinh.
+ Hoạt động ngoại giao đa phương đã có bước phát triển vượt bậc; góp
phần nâng cao hơn nữa vai trị và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức và diễn đàn
quốc tế như Liên hiệp quốc, Phong trào Không liên kết, Hiệp hội các quốc gia
Đông nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái bình dưong
(APEC), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), từng buớc đưa Việt Nam hội nhập vào
kinh tế khu vực và thế giới.
+ Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, công tác Ngoại giao phục vụ
phát triển kinh tế đã ngày càng phát huy vai trò; nội dung kinh tế ngày càng thể

hiện rõ nét trong mọi hoạt động chính trị đối ngoại. Ngoại giao đã kết hợp tốt giữa
chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần tạo thêm nguồn lực từ bên
ngồi, mở rộng thị trường, gia tăng đối tác, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước.
+ Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài được thúc đẩy mạnh mẽ và đã
thu được những kết quả tích cực, quan trọng. Số lượng bà con Việt kiều về thăm
quê hương, tìm kiếm cơ hội đầu tư bn bán ở trong nước ngày càng gia tăng.
f) Sáu là, chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Trước những vấn đề toàn cầu, bảo vệ độc lập chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích
quốc gia trở thành một nhiệm vụ trọng tâm chiến lược của bất cứ quốc gia, dân tộc
nào; song mỗi nước đều không thể tự mình giải quyết được trong một “thế giới
phẳng” như hiện nay. Tùy theo thế và lực, mỗi nước có kế sách riêng để bảo vệ đất
nước mình. Có nước lo chủ động đề phịng ở bên trong; có nước lại hướng ra giải
quyết các vấn đề bên ngồi. Họ có thể liên kết, hợp tác để có thêm sức mạnh; tăng
cường sức mạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, KH-CN, ngoại giao, QP-AN… Nhiều
nước lớn lại thể hiện cả “sức mạnh mềm” lẫn sức mạnh qn sự, quốc phịng, “tiến
cơng từ trước”, “từ xa”, “đánh đòn phủ đầu”, mở rộng vùng lợi ích, ảnh hưởng,
kiểm sốt của mình. Các hành động đó, một phần đem lại an ninh, thịnh vượng cho
họ, song đã gây nên hậu quả khôn lường cho an ninh thế giới, khu vực và các nước
khác. Trước tình hình đó, việc Đảng ta chủ trương “ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ
13


chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa” để BVTQ là phù hợp với xu thế của thế giới,
và thể hiện tinh thần chủ động giữ nước rất cao trong thời bình.
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và BVTQ, Trung ương Đảng đã nhận
thức ngày càng chính xác, sâu sắc hơn tầm quan trọng và nội dung của BVTQ từ
xa; coi đó là một kế sách giữ nước thời bình. Đó là tổng thể các hành động mang
tính chủ động của Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam luôn diễn ra từ sớm, từ

trước; sớm phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi và triệt tiêu những tư tưởng, âm mưu và
hành động chống phá chế độ, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới và lợi ích
quốc gia; khơng để Tổ quốc bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hịa bình, ổn
định và phát triển đất nước đúng định hướng XHCN.
Mục tiêu của kế sách này là hướng đến thực hiện mục tiêu chung của nhiệm
vụ BVTQ, song tập trung vào chủ động giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định,
phát triển; không để Tổ quốc bị động, bất ngờ trước mọi hành động chống phá chế
độ XHCN, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, biên giới, hải đảo và lợi ích quốc gia,
dân tộc.

14


Câu 3: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng về kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.
I. Những vấn đề chung về xây dựng và phát triển KT-XH gắn với QP-AN
1. Khái niệm quốc phịng, an ninh
- Quốc phịng là cơng việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các
hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, qn sự,
văn hóa, xã hội… nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và tồn
vẹn lãnh thổ, tạo mơi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
- An ninh là trạng thái ổn định, an tồn, khơng có dấu hiệu nguy hiểm để đe
dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân , của tổ chức, của từng lĩnh
vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã hội. Đối với Việt Nam, bảo vệ an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn dân và của cả hệ thống chính trị do lực
lượng an ninh làm nịng cốt; bảo vệ an ninh ln kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc
phòng.
2. Khái niệm hoạt động kinh tế: Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản,
thường xuyên gắn liền với sự tồn tại của xã hội lồi người. Đó là tồn bộ q trình
hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu

cầu đời sống con người.
3. Khái niệm kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh ở nước ta:
Phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh là sự gắn kết
chặt chẽ hoạt động của các lĩnh vực kinh tế - xã hội với quốc phòng, an ninh thành
một thể thống nhất trên phạm vi cả nước, trên từng vùng và từng địa phương, dưới
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước; các lĩnh vực chủ
động gắn kết, bổ sung và tạo điều kiện cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển,
góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia để đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát triển đất nước được thực hiện thắng
lợi, chủ quyền quốc gia, tồn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị - xã hội, lợi ích quốc
gia dân tộc ln ở trong trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ.
4. Cơ sở lý luận của việc kết hợp phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH) với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh (QP, AN) - (Kết hợp phát triển KT-XH với
tăng cường QP-AN là tất yếu khách quan).
a) Cơ sở lý luận:
- Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc
gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động
và quy luật riêng, song giữa chúng có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Học
thuyết chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ rõ giữa kinh tế và quốc phịng – an ninh ln có
mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế giữ vai trị
quyết định, quốc phòng – an ninh chịu sự chi phối và phụ thuộc vào kinh tế nhưng
15


cũng có tác động tích cực trở lại đối với kinh tế, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát
triển.
+ Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phịng, an
ninh. Lợi ích kinh tế suy đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và
xung đột xã hội. Để giải quyết các mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phịng,

an ninh.
+ Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp cơ sở vật chất kĩ thuật, nhân lực
cho hoạt động quốc phòng – an ninh. Ăngghen đã khẳng định “Thất bại hay thắng
lợi của chiến tranh đều phụ thuộc vào điều kiện kinh tế”. Vì vậy, để xây dựng quốc
phịng – an ninh vững mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế
+ Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân
lực cho quốc phòng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng
vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phịng – an ninh
- Quốc phịng khơng chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà còn tác động trở lại với
kinh tế - xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực.
+ Quốc phòng – an ninh vững mạnh sẽ tạo mơi trường hồ bình, ổn định lâu
dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
+ Hoạt động quốc phòng – an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân
lực, vật lực, tài chính của xã hội. Những tiêu d0ùng này theo Lênin là những tiêu
dùng “mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu
dùng của xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
+ Hoạt động quốc phòng – an ninh cịn có thể dẫn đến huỷ hoại mơi trường
sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn
chế những tác động tiêu cực này, phải kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng
– an ninh với phát triển kinh tế - xã hội vào một chỉnh thể thống nhất.
- ĐCSVN xác định: kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN về
thực chất là cụ thể hóa việc quán triệt và thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng VN: xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc TQ XHCN.
b) Cơ sở thực tiễn:
- Phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng – an ninh đã trở thành quy
luật phổ biến ở mọi quốc gia, dân tộc có chủ quyền. Ở nước ta phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng – an ninh là một tất yếu khách quan, là một truyền
thống trong lịch sử dựng nước và giữ nước.Sự kết hợp phát triển KT-XH với tăng
cường QP-AN ở nước ta ngày nay đã thực sự trở thành một nhu cầu thường xuyên,
mang tính cấp thiết, cấp bách.
Như vậy, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc

phòng – an ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động có nội dung,
phương thức riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều
kiện tồn tại của cái kia và ngược lại. Tuy nhiên, việc kết hợp cần phải được thực
hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và hài hoà.
16


II. Nội dung kết hợp sự phát triển kinh tế với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh và đối ngoại ở nước ta hiện nay.
- Một là, phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh
phải toàn diện, cơ bản, lâu dài ngay từ trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước,
từng vùng, từng ngành và ở từng địa phương.
- Hai là, phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh phải
tập trung có trọng điểm, quan tâm đầu tư vào những vùng, địa bàn chiến lược trọng
yếu (vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ), những ngành, những lĩnh
vực hoạt động kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước.
- Ba là, phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh thời
bình phải có phương án, kế hoạch sẵn sàng điều chỉnh thích ứng với thời chiến và
ứng phó thắng lợi với mọi tình huống bất trắc xảy ra, hạn chế tổn thất do thiên tai,
địch họa gây ra.
- Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phịng - an ninh là
sự nghiệp của tồn dân, của mọi ngành, mọi cấp, mọi thành phần kinh tế do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, với một hệ thống cơ quan tham mưu có năng lực,
trách nhiệm tốt và với một hệ thống pháp luật, chính sách đồng bộ, phù hợp trong
thời kỳ mới.
- Năm là, chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ: quốc gia
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa
kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và

phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hòa nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, v. v… Không phiến diện, cực đoan, duy
ý chí.

17


Câu 4. Phân tích tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ trong chương trình
quốc gia phịng, chống tội phạm
a) Khái niệm tội phạm:
Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi 2009) của nước CHXHCN Việt
Nam quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố
ý, hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, an ninh, trật tự an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích họp pháp khác của cơng dân, xâm phạm các lợi ích khác của
trật tự pháp luật”.
b)Khái niệm phịng, chống tội phạm: là q trình sử dụng biện pháp, chiến
lược, sách lược, phương tiện cần thiết với sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội
nhằm không để tội phạm xảy ra, hạn chế, ngăn chặn, xử lí, làm giảm tội phạm và
quản lý giáo dục, cải tạo người phạm tội.
c)Quan điểm phòng, chống tội phạm:
Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu thường
xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp,
toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do
các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực lượng chuyên trách làm nòng cốt.
Chiến lược phòng, chống tội phạm là một nội dung quan trọng, bộ phận cấu
thành của Chiến lược phát triển đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng,

chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước, các đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tạo môi
trường xã hội ổn định, lành mạnh phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại của đất nước.
Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức - hành chính, kinh tế - xã
hội, pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp
giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp, lấy phịng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt
động phịng ngừa xã hội, phịng ngừa tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức
mạnh của hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
Đảng ta đã đưa ra các tư tưởng chủ đạo trong cơng tác phịng, chống tội
phạm:
- Xã hội hóa cơng tác phịng chống tội phạm, xác định rõ đấu tranh phòng,
chống tội phạm là nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của các cấp, các ngành, tổ
chức xã hội và mọi cơng dân. Do đó cần phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia. Phòng, chống tội phạm là
nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của mọi cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức
chính trị -xã hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của UBND, sự tham mưu hướng dẫn của lực
lượng công an nhân dân…. Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở xác định
18


“cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và quần chúng là người làm nên lịch sử”.
Vì vậy, hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta là sự nghiệp của toàn
dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của ĐCSVN.
- Tội phạm là hiện tượng XH tiêu cực và rất phức tạp. Vì vậy, để đấu tranh
có hiệu quả đối với hiện tượng tiêu cực này, chúng ta phải dựa vào XH, huy động
sức mạnh của tồn XH.
- Phát huy vai trị lãnh đạo của các cấp ủy đảng, quản lý của Nhà nước trong
đấu tranh phịng, chống tội phạm (đây là vấn đề có tính ngun tắc được quy định

xun suốt trong q trình thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ – CP và Chương
trình quốc gia phòng chống tội phạm). Thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh
đạo, chính quyền quản lý, Ban chỉ đạo 138 điều hành, cơ quan công an làm tham
mưu, các ngành và tồn dân tham gia thực hiện, lấy phịng ngừa làm cơ bản, chủ
động tấn công trấn áp tội phạm. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính
quyền các cấp trong thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ – CP và Chương trình quốc
gia phịng, chống tội phạm, củng cố hệ thống Ban chỉ đạo 138 ở các cấp chính
quyền và trong ngành cơng an. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị quyết
09/1998/NQ – CP và Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm tới các cấp cơ
sở xã, phường, thị trấn, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp. Đưa việc thực hiện
Nghị quyết 09/1998/NQ – CP và Chương trình quốc gia phịng, chống tội phạm
vào chương trình hành động, nghị quyết của Đại hội Đảng bộ các cấp, gắn với các
nhiệm vụ chuyên môn và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội
khác ở địa phương.
- Gắn liền phòng ngừa với đấu tranh, trong đó phịng ngừa là cơ bản, đặc
biệt là phịng ngừa xã hội, đấu tranh trấn áp tội phạm là quan trọng. Phòng ngừa tội
phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân bằng
nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng
phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ tội
phạm ra khỏi đời sống xã hội. Phòng ngừa tội phạm là phương hướng chính là tư
tưởng chỉ đạo trong cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm, phịng ngừa không
để tội phạm xảy ra; thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để
người dân bị xử lý trước pháp luật, không bị tước quyền cơng dân. Đó chính là bản
chất nhân đạo, tính nhân văn của Đảng và NN ta trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm xảy ra. Nhưng, khi đã áp dụng các biện pháp phịng ngừa mà tội phạm vẫn
xảy ra thì phải kiên quyết điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh, bảo đảm không
một hành vi phạm tội nào không bị phát hiện, không một người phạm tội nào
không bị xử lý. Kết quả điều tra, xử lý nghiêm minh tội phạm cịn có tác dụng giáo
dục, răn đe những người phạm tội từ bỏ con đường phạm tội và những người khác
không đi vào con đường phạm tội, tạo thế áp đảo và niềm tin cho nhân dân trong

cơng tác phịng, chống tội phạm. Coi trọng hoạt động phịng ngừa xã hội, phịng
ngừa tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và
sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Như vậy, phương châm và quan điểm chủ đạo trong phòng, chống tội phạm
của nước ta hiện nay là lấy phòng ngừa làm cơ bản, tạo thế chủ động tấn công trấn
19


áp tội phạm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội trong sự đồng
bộ với các chương trình kinh tế -xã hội.

20


Câu 5: Phân tích mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, nhiệm vụ trong
đường lối chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng
I. Đặc điểm tình hình thế giới, xu thế phát triển:
1. Đặc điểm tình hình thế giới:
a) Cục diện thế giới diễn biến phức tạp:
- Sự sụp đổ của mơ hình XHCN ở Liên Xơ và Đơng Âu làm cho cục diện thế
giới và quan hệ quốc tế thay đổi một cách cơ bản. Cán cân so sánh lực lượng thế
giới nghiêng về phía có lợi cho CNTB.
- Mỹ tham vọng thiết lập một trật tự thế giới đơn cực, trong khi các nước lớn
khác (Nga, Trung Quốc…) đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực. Cục diện thế
giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hóa trong quan hệ quốc tế tiếp tục
phát triển nhưng các nước lớn vẫn sẽ chi phối quan hệ quốc tế.
b) Cách mạng khoa học và cơng nghệ có bước tiến nhảy vọt, tác động sâu
sắc tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và quan hệ quốc tế:
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thúc đẩy lực lượng sản xuất của
thế giới phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Tuy nhiên, những thánh tựu khoa học

và công nghệ hiện đại lại chủ yếu thuộc về các nước phát triển. Các nước đang
phát triển đứng trước nguy cơ trở thành nơi thu nhận những công nghệ lạc hậu, gây
ô nhiễm môi trường được chuyển giao từ các nước phát triển.
- Hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Xu thế phát triển kinh
tế tri thức tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc gia dân tộc.
c) Toàn cầu hóa trước hết về kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, vừa có
mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực:
- Tồn cầu hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia, thúc đẩy hợp tác, phân công lao động quốc tế và tăng trưởng kinh tế.
- Tuy nhiên, xu thế tồn cầu hóa vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực:
bóc lột kinh tế, áp đặt chính trị, bảo vệ độc lập dân tộc…
d) Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn diễn ra gay gắt với những
biểu hiện mới, hình thức mới:
- Chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, khủng
bố, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên xảy ra ở nhiều nơi. Các thế lực đế
quốc ráo riết chống phá phong trào cách mạng thế giới, gia tăng “diễn biến hịa
bình” nhằm xóa bỏ các nước XHCN.
- Đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc có những biểu hiện mới với các
hình thức và nội dung đa dạng. Mục tiêu: bảo vệ độc lập dân tộc, cải thiện điều
kiện sống, an sinh xã hội, vì hịa bình, dân chủ, bảo vệ môi trường…
e) Các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn là nhân tố rất quan trọng tác
động đến sự phát triển thế giới:
21


- Quan hệ giữa các nước lớn rất đa dạng về cấp độ và ln thay đổi, chuyển
hóa hết sức phức tạp, khó lường. Các nước lớn vừa đấu tranh vừa thịa hiệp và vì
lợi ích của mình nhìn chung đều tránh đối đầu trực diện với nhau.
f) Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc:
- Nhân loại đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc mà khơng một quốc

gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu khơng có sự hợp tác đa phương: ô
nhiễm môi trường, bùng nổ dân số, bệnh dịch hiểm nghèo, tội phạm quốc tế…
g) Khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đơng Nam Á tiếp tục phát triển
năng động:
- Hợp tác khu vực diễn ra sôi động trên nhiều tầng nấc từ liên khu vục đến
hợp tác theo nhóm nước và song phương, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế mở rộng
ra các lĩnh vực chính trị, an ninh…
- Tuy nhiên, tại khu vực này cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định
như tranh chấp và ảnh hưởng về quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển, đảo, tài
nguyên…
2. Xu thế phát triển của tình hình thế giới:
a) Hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển:
- Hịa bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn. Các nước đều dành
ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc
tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước, đồng thời tạo sự ổn định chính trị,
mở rộng hợp tác quốc tế.
- Chính sách đối ngoại của mỗi nước được hoạch định và triển khai nhằm
tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước.
b) Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt:
- Các quốc gia lớn nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác
và liên kết khu vực, liên kết quốc tế. Hợp tác ngày càng tăng nhưng cạnh tranh
cũng rất gay gắt. Trong điều kiện cách mạng khoa học và cơng nghệ phát triển, địi
hỏi các nước phải có chính sách liên kết, hợp tác để phát triển. Hội nhập quốc tế
tạo điều kiện để liên kết tốt hơn, giúp các nước đứng vững trong cạnh tranh và phát
triển.
c) Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường:
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh
chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn
hóa dân tộc. Cùng với việc khắc phục khó khăn để phát triển kinh tế - xã hội, nhiều
nước đang cố gắng giữ vững ổn định về chính trị, tạo mơi trường hịa bình, thực

hiện chính sach hịa giải, hòa hợp dân tộc, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần
xây dựng một trật tự quốc tế cơng bằng, bình đẳng và hợp lý.
d) Xu hướng phục hồi của phong trào cộng sản quốc tế:
22


- Các nước XHCN, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách
mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có những bước hồi
phục và vẫn là một lực lượng chính trị to lớn trong thời đại ngày nay.
e) Các nước với chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hịa bình:
- Các nước với chế độ chính trị - xã hội và trình độ phát triển khác nhau
cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân
tộc. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc tế và chi phối phương thức
quan hệ giữa các nước. Đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hịa bình giữa các
nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau là nguyên tắc, là phương pháp xử lý
các quan hệ quốc tế hiện nay.
3. Phân tích:
a) Mục tiêu đối ngoại: Giữ vững hịa bình, tạo lập mơi trường quốc tế thuận
lợi, một mặt sẽ góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền an ninh quốc gia, mặt khác
tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ, hợp tác của quốc tế cho sự phát triển của đất
nước. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Việt Nam nâng cao uy tín quốc tế, đồng
thời đóng góp nhiều hơn đối với phong trào cách mạng thế giới.
b) Tư tưởng chỉ đạo:
- Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời
phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hồn cảnh
cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù
hợp với từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ.
- Hội nghị lần 8 BCH TW khóa IX đã bổ sung và làm sâu sắc thêm tư tưởng

chỉ đạo đối ngoại với quan điểm: trong bất kỳ tình huống nào cũng tránh khơng để
rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc, củng cố hịa bình, an ninh, tạo mơi trường
thuận lợi cho phát triển đất nước.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục làm sâu sắc thêm tư
tưởng chỉ đạo đối ngoại: “Thực hiện nhất qn đường lối đối ngoại độc lập tự chủ,
hịa bình và hợp tác phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác
quốc tế và khu vực.”
- Quan điểm của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X được Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng kế thừa, bổ sung và phát triển toàn diện hơn: “Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hị bình, hợp tác và phát triển,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN
giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
23


quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới.”
c) Nguyên tắc đối ngoại:
- Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau.
- Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
- Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thơng qua thương lượng hịa
bình.
- Bốn là, tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
d) Nhiệm vụ đối ngoại: Giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập chủ

quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.”
Nhiệm vụ cụ thể:
- Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ
quốc tế vào chiều sâu toàn diện, ổn định, bền vững.
- Chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội
nhập quốc tế.
- Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thái hiệu
quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – cơng nghệ, trình
độ quản lý tiên tiến.
- Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương
vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế, Hiến chương Liên hợp quốc.
- Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc.
Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những
thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu.
- Chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh.
- Sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên
quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết làm thất bại mọi âm
mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam./.

24



×